30/4/15

30/4 mãi mãi là ngày quốc hận

 30/4 mãi mãi là ngày quốc hận

Đỗ Tùng (Danlambao) - Ngày 30/4/1975 quân Cộng Sản Bắc Việt đã hoàn thành sứ mạng Nga Tàu giao phó là nhuộm đỏ toàn thể nước Việt Nam, tiêu diệt được một chính thể dân chủ tự do của người miền Nam bầu lên và xây dựng trong 20 năm qua. Chiến lợi phẩm nhiều hơn họ tưởng tượng, một mặt họ vơ vét chở về miền Bắc đói kém, một mặt họ phải củng cố sự kiểm soát trên vùng đất mới chiếm.
Việc quan trọng hàng đầu là phải giam giữ hàng trăm ngàn quân cán chính của miền Nam vào những trại tù xa xôi và được canh giữ cẩn thận. Đây là thành phần lãnh đạo của xã hội miền Nam, từ cấp thấp nhất đến cấp cao nhất. Giam giữ và cách ly các cấp lãnh đạo miền Nam sẽ giúp những người CS mới chiến thắng đạt những mục tiêu sau đây:
1. Bảo đảm được vùng đất mới chiếm, không còn sợ bị đánh trả hay nổi dậy,
2. Phá hủy cơ cấu chính quyền mọi cấp của vùng đất mới chiếm,
3. Phá hủy cơ cấu gia đình của thành phần lãnh đạo xã hội miền Nam. Hàng trăm ngàn gia đình của những người bị tù sẽ không còn nơi nương tựa cũng như sinh kế để sống còn.
4. Tạo tâm lý sợ hãi bất an trong xã hội để dễ áp đặt những biện pháp cai trị mới.
Song song với việc giam giữ hàng trăm ngàn quân cán chính của miền Nam để dứt điểm hai mặt quân sự và chính trị, những người CS không quên hai mặt quan trọng khác là kinh tế và văn hóa.
Phải chiếm hết của cải vật chất và tư liệu sản xuất của thành phần tư sản, tiểu tư sản và thương gia miền Nam. Làm sao họ quên được câu kinh nhật tụng của người CS: "Cướp được chính quyền tất cả lợi quyền sẽ về tay ta". Vậy là chiến dịch đánh tư sản và mấy lần đổi tiền đã biến xã hội miền Nam thành những người nghèo khổ. Kẻ thắng trận trước đây đói rách bây giờ vàng đầy túi, nhà cao cửa rộng chiếm được của dân miền Nam, vợ con của hàng trăm ngàn người bị tù bây giờ nằm trong tay họ. Một lãnh đạo CS đã nói lên tâm tư chung của người CS: "Chúng ta chiếm nhà của ngụy, ngủ với vợ ngụy."
Người CS quan niệm phải phá hủy toàn bộ cơ cấu, văn hóa, truyền thống xã hội cũ thì họ mới xây dựng được xã hội mới. Họ cũng muốn viết lại toàn bộ lịch sử, phủ nhận những gì tốt đẹp trong quá khứ trước khi CS xuất hiện. Một chiến dịch quy mô nhằm tiêu diệt văn hóa xã hội miền Nam, bắt đầu với việc đốt sách, bắt giữ văn sĩ, người làm báo, nghệ sĩ ở miền Nam, và thay thế bằng những phương tiện tuyên truyền rẻ tiền ầm ĩ như các khẩu hiệu, biểu ngữ treo đầy đường, các loa phát thanh ở phường khóm...
CSVN là những người CS trung kiên, thuộc nằm lòng kinh điển và phương pháp CS. Tất cả những gì họ làm sau khi chiếm được miền Nam đều đúng theo sách vở và đường lối của CS. Họ là những người CS thực sự. Đừng nói với họ về dân tộc, về tổ quốc VN, về hòa hợp hòa giải. Người CS không biết đến những từ ngữ đó. Họ chỉ biết hận thù và bạo lực. Đối với họ chỉ có hai loại người: đồng chí và kẻ thù. Hiện tại họ xem lãnh đạo Trung Cộng là đồng chí. Hiện tại họ xem tất cả người Việt không CS hoặc không chịu sự thống trị của đảng CS là kẻ thù. Đừng ngạc nhiên khi họ bán đất bán biển cho TC. Đừng ngạc nhiên nếu họ chịu dâng VN thành một tỉnh của TC. Tất cả đều là chuyện hiển nhiên đúng sách vở và lý thuyết của CS.
Đối với những người muốn đất nước VN có dân chủ, độc lập, muốn người dân VN có tự do, hạnh phúc thì ngày 30/4 mãi mãi là ngày quốc hận.
30/4/2015



Cái Cò

 "Cái Cò"



Cao-Đắc Tuấn (Danlambao) - Nhạc sĩ Nguyệt Ánh viết ca khúc "Cái Cò" nói về sự hy sinh và nỗi cực nhọc của những người vợ chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) sau khi chồng bị bắt đi tù cải tạo hoặc khi chồng tuẫn tiết trong trận chiến khi quân cộng sản Bắc Việt xâm chiếm miền Nam Việt Nam vào năm 1975. "Cái Cò" là một tác phẩm có giá trị văn chương và lịch sử cao. Là một tác phẩm văn chương, "Cái Cò" gói ghém những tinh hoa của các kỹ thuật thi ca và văn học truyền thống Việt Nam như ca dao và thành ngữ, nói lên những đức tính hy sinh, cần cù, can đảm, tháo vát, và chịu đựng của phụ nữ Việt Nam. Là một tác phẩm lịch sử, "Cái Cò" ghi nhận cuộc sống đen tối của dân miền Nam sau năm 1975, nhất là vào cuối thập niên 1970 cho tới suốt thập niên 1980, và sự tàn bạo của cộng sản Bắc Việt đối với quân cán chính VNCH và thân nhân họ sau ngày cộng sản chiếm đóng miền Nam Việt Nam vào năm 1975.
Nguyệt Ánh biểu lộ một tài năng khác thường trong "Cái Cò" qua kỹ thuật xếp đặt giai điệu nhẹ nhàng với những thay đổi lên xuống thích hợp cho những hành động hy sinh và cần cù của người vợ, và cách dùng các kỹ thuật mô tả dung hòa việc tạo sống động và gây cảm xúc cho người nghe. Ngoài việc dùng những ẩn dụ tuyệt vời, Nguyệt Ánh phối hợp cách dùng từ ngữ theo kiểu thành ngữ truyền thống Việt Nam với những từ ngữ mô tả mạnh mẽ rất hiệu quả. Qua những kỹ thuật tinh vi, câu chuyện của những người vợ chiến sĩ VNCH được kể trung thực rất cảm động và tạo tác dụng mạnh trên người nghe.
Tôi có dịp nói chuyện với nhạc sĩ Nguyệt Ánh qua điện thoại vào ngày 27-4-2015. Cô chia sẻ với tôi về ca khúc "Cái Cò" và trả lời vài câu hỏi của tôi về bài hát. Cô cho biết cô viết "Cái Cò" trong 4 năm, từ khoảng năm 1995 cho tới năm 1999, và đó là bài hát cô bỏ nhiều thì giờ nhất. So với những bài cô chỉ mất 5, 10 phút để viết, 4 năm quả thật là một thời gian dài. Nhưng ta phải hiểu điều đó không có nghĩa Nguyệt Ánh suy nghĩ viết "Cái Cò" liên tục trong 4 năm. Những người viết nhạc, làm thơ, viết văn, vẽ, hoặc làm những công trình sáng tạo đều biết tầm quan trọng của cảm hứng. Không có cảm hứng, một nhạc sĩ, thi sĩ, hoặc văn sĩ khó lòng mà tiếp tục. Nguyệt Ánh cho tôi biết quá trình viết "Cái Cò" thường bị gián đoạn vì cô thấy vài chỗ "không ổn" và do đó phải sửa đổi. Cô tiếp tục thâu lượm những mẩu chuyện có thật do những người trong cuộc, những người vợ chiến sĩ VNCH hoặc con cháu họ, kể lại. Chính những câu chuyện có thật rất thương tâm và cảm động này cho Nguyệt Ánh cảm hứng để viết lời cho bản nhạc. Ngoài ra, vì "Cái Cò" ghi nhận những mẩu chuyện có thật này, nó còn là tài liệu ghi nhận của lịch sử truyền khẩu (oral history).
Sau đây là tiểu sử vắn tắt của tác giả.
Nhạc sĩ và ca sĩ Nguyệt Ánh tên thật là Nguyễn Thị Nguyệt Ánh. Cô là con của Đại Tá Nguyễn Văn Y, người chỉ huy cơ quan tình báo VNCH đầu tiên. Năm 1975 khi cộng sản chiếm đóng miền Nam Việt Nam, cô cùng cha mẹ và anh chị em di tản bằng đường biển, sau đó qua Mỹ và định cư tại tiểu bang Virginia (Việt Báo 2012). Cùng với Việt Dzũng và các ca/nhạc sĩ khác, Nguyệt Ánh tổ chức phong trào Hưng Ca tại hải ngoại, hiện có các chi nhánh Đoàn Hưng Ca tại Âu Châu, Úc Châu, và Hoa Kỳ. Qua những hoạt động văn nghệ trên khắp thế giới, nhạc sĩ Nguyệt Ánh tích cực tham gia nhiều hoạt động xã hội và tranh đấu cho tự do dân chủ tại Việt Nam trong suốt mấy chục năm qua. 
Nguyệt Ánh là tác giả nhiều ca khúc đấu tranh (Xem, Phong trào Hưng ca Việt Nam), thí dụ như: Anh Vẫn Mơ Một Ngày Về (Em Vẫn Mơ Một Ngày Về), Cái Cò, Bài Ca Hội Ngộ, Bài Ca Nhân Bản, Bài Hát Chống Xâm Lăng, Biển Đông Dâng Sóng Tự Do, Chào Little Sài Gòn, Coi Chừng Cái Lũ Công An, Dậy Mà Đi, Đêm Thương Nhớ Người, Mơ Tự Do, Không Ai Ngăn Được Lời Ca, Một Góc Quê Nhà, Mưa Trên Quê Hương Tôi (thơ: Đào Trường Phúc), Nước Cuốn Hoa Rơi, Nước Mắt Biển Đông, Tình Ca Cho Nhau, Hát Cho Ngày Sài Gòn Quật Khởi, Một Lần Đi, Mưa Sài Gòn Còn Buồn Không Em, Mưa Sài Gòn Nắng Cali, Nắng Quê Hương, Nước Trôi Mồ Mẹ (thơ: Võ Đại Tôn), Sao Đành Xa Em (Sao Đành Xa Anh, Xin Đừng Bỏ Anh), Tiến Quân, Trả Ta Sông Núi, Việt Nam Muôn Năm, Xuống Đường, v.v...
Nguyên văn lời bài hát "Cái Cò" như sau, theo lời hát của chính tác giả Nguyệt Ánh (Nguyệt Ánh):

Cái cò lặn lội bờ sông, gánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non.
Thương em dạ sắt lòng son, một thân đơn chiếc nuôi con thăm chồng
Bàn tay ai tốt vàng ròng, bàn tay em nứt máu hồng tuôn rơi
Nhìn nhau muốn nói vạn lời, mà tim se thắt rối bời tâm can.

Cái cò ngày nay không còn gánh gạo
Gạo đã thành một quá khứ xa xôi
Cái cò ngày nay xuống biển tìm mồi
Ngô sắn khoai sùng ăn cầm chừng, nước mắt tuôn rơi.

Cái cò lặn lội bờ ao, bán giọt máu đào nuôi dưỡng đàn con.
Thương em lội suối trèo non, vùng kinh tế mới nuôi con thay chồng
Biển dâu đã hóa ruộng đồng, nhà tan nước mất vợ chồng chia ly
Chồng đi cải tạo không về, vợ đi tay cuốc tay cày đất hoang.

Cái cò ngày nay mơ tìm chén gạo
Giọt máu đào dành để bán nuôi con
Cái cò ngày nay gối mỏi chân mòn
Vai gánh vai gồng đi thăm chồng, cách núi ngăn non.

Cái cò lặn lội bờ đê, đói khổ trăm bề nước mắt đầy vơi.
Thương em tuổi mới đôi mươi, vì cơn quốc biến hoa trôi hương tàn
Chiều trên quốc lộ kinh hoàng, chồng em tuẫn tiết máu tràn như sông
Chồng em chiến sĩ anh hùng, vì dân chiến đấu thác cùng muôn dân.

Cái cò ngày nay đã thành góa phụ
Tay dắt mẹ chồng tay dắt đàn con
Muốn về làng quê, quê cũ không còn
Giặc bắt lên rừng đi vào vùng, chướng khí lam sơn.

Cái cò lặn lội bờ mương, vét cống đào đường gió rét lạnh căm.
Chồng em giặc bắt biệt tăm, tù Nam tù Bắc biết thăm nơi nào
Một đêm gió lộng mưa gào, được tin anh đã đi vào thiên thu
Chồng em chết giữa ngục tù, khổ sai đói rét cộng thù giết anh.

Cái cò một thân lên vùng đất lạ
Đến trại tù tóc quấn vành tang
Đếm từng mồ hoang máu lệ hai hàng
Đau xót cho chồng không mộ phần, không khói không nhang.
Trong bài này, tôi sẽ trình bày nhận xét về nội dung và hình thức của "Cái Cò." Ngoài ra, như trong các bài viết về âm nhạc trước, tôi sẽ chú trọng thảo luận chi tiết về các khía cạnh văn chương của lời nhạc. Tôi dùng "khán giả" để chỉ người nghe, người đọc, và người xem.
A. Bối cảnh lịch sử và văn chương của ca khúc "Cái Cò" về vợ người tù cải tạo và ý nghĩa con cò:
Ca khúc "Cái Cò" kể nỗi đau khổ và sự hy sinh của người vợ tù nhân trong các trại tù cải tạo tại Việt Nam sau ngày cộng sản chiếm đóng miền Nam năm 1975. Ngoài khía cạnh lịch sử về trại tù cải tạo, bài hát còn dựa vào hình ảnh con cò để mô tả người vợ tù nhân cải tạo. Hai khía cạnh lịch sử và văn chương này đem những sắc thái đặc biệt cho "Cái Cò" ít thấy trong những ca khúc khác. 
1. Tù nhân trong tù cải tạo bị đối xử dã man và vợ con họ sinh sống cực khổ vì bị kỳ thị: 
Sau sự xụp đổ miền Nam Việt Nam vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, cộng sản Bắc Việt bắt đầu chiến dịch đàn áp có hệ thống và tàn bạo trên những người Việt Nam, đặc biệt là những người thuộc chế độ Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) cũ. Hàng trăm ngàn nhân viên quân sự miền Nam và công chức dân sự chính phủ VNCH bị đưa đến các trại cải tạo, một danh từ ngụy trang cho ngục tù, nơi từ hàng chục ngàn tới hàng trăm ngàn người chết vì đói, lạm dụng, bệnh, và hành quyết (Courtois 1999, 572; Duiker 1995, 110; Duiker 1996, 363; Freeman 1995, 23; Sorley 1999, 383; Võ 2004, 32). Cải tạo thực hiện bởi cộng sản Việt Nam vừa là một phương tiện trả thù vừa là một phương pháp áp bức và nhồi sọ (Sagan và Denney 1982).
Theo Lewis Sorley (1999), một sử gia Hoa Kỳ có uy tín, có lẽ "65.000 người bị xử tử bởi những người giải phóng họ" và "có đến 250.000 người bỏ mạng trong những trại cải tạo tàn bạo" (Sorley 1999, 383). Có hàng trăm trại tù cải tạo, rải trên khắp toàn thể Việt Nam cả ba miền Nam, Trung, Bắc (Nguyen 1983, 201-203). Những ước tính khác cho thấy 1 triệu nạn nhân đã bị giam giữ không bị chính thức kết tội hay xét xử, 165.000 nạn nhân chết tại các trại tù cải tạo, và có ít nhất 150 trại tù cải tạo sau khi Sàigòn xụp đổ (Đỗ Ngọc Uyển; Đỗ 2010). Trong các trại tù cải tạo, tù nhân bị đối xử vô nhân đạo qua những kỹ thuật như bỏ đói, thiếu thốn chăm sóc y khoa, khủng bố, tra tấn, và xử tử tức khắc (Nguyen 1983, 210-217; Vo 2004, 121-126; 133-142; 151-158). "Bị thường xuyên bỏ đói và khổ sai, những tù nhân VNCH trong các trại cải tạo chịu đựng đủ loại bệnh hoạn, đưa đến hàng ngàn cái chết không ghi sổ" (Wiest 2008, 284). Hành quyết tù nhân trong tù cải tạo thường xảy ra tại chỗ và không theo thể lệ thích đáng hoặc chỉ là hình thức đại khái (Vo 2004, 139; Hồ 2008). Việc không chôn cấ̉t người chết cũng dùng để nhục mạ gia đình nạn nhân (Vo 2004, 141). Rất nhiều vụ hành quyết xảy ra bất hợp pháp và luôn được che giấu. Do đó, rất nhiều tù nhân mất tích, không rõ sống chết thế nào. Xác họ không bao giờ được trả về cho gia đình, và khiến cho biết bao nhiều gia đình đau khổ vì nạn nhân không được chôn cất tử tế để được cúng kiến cho siêu thoát (sđd., 142). "Và bằng lối hành xử dã man, rừng rú này, cộng sản đã phạm 5 trong số 11 Tội Ác chống Nhân Loại (Crimes against Humanity) theo luật pháp quốc tế" (Đỗ Ngọc Uyển).
Thành viên gia đình của những người phục vụ cho Việt Nam Cộng Hòa hoặc QLVNCH bị đối xử như là chia tội họ (Denney 1990). Con cháu các viên chức chính phủ và sĩ quan quân đội chế độ cũ bị kỳ thị trầm trọng (sđd.). Các thành viên gia đình bị từ chối việc làm và con cái họ không được phép hoàn thành cấp độ giáo dục cao hơn (Freeman 1995, 93; Nguyễn 2012, 529).
Thăm nuôi tù cải tạo rất quan trọng cho tù nhân. Ngoài chuyện được người thân yêu "thăm," người tù còn được thực sự "nuôi" vì người đến thăm mang theo thực phẩm (Sagan và Denney 1982). Vợ của những người tù cải tạo thường là những người đàn bà không có nghề nghiệp chuyên môn và là nội trợ thuần túy. Khi chồng bị đi tù cải tạo, họ và con cái phải làm việc cực nhọc, nhiều khi phải xin xỏ, từ thức ăn tới quần áo. Con cái họ phải lo thân như bán báo, xin ăn, hoặc mò thùng rác. Họ làm việc cực khổ đêm ngày tại vùng kinh tế mới cho hai bát cơm mỗi ngày (Vo 2004, 126). Với những người có khả năng ̣đi thăm nuôi, chuyến đi tới trại tù thường nguy hiểm vì trại tù ở xa xôi, thiếu thốn đường xá và an ninh ở vùng quê (sđd., 127).
Vùng kinh tế mới là sáng kiến của đảng cộng sản để cô lập và kiểm soát dân. Trên lý thuyết, các vùng kinh tế mới gia tăng sản xuất thực phẩm; nhưng trên thực tế chỉ là các trại tập trung nằm tại các nơi núi rừng sốt rét, đất đai khó trồng trọt, và chỉ là các dự án lao động cưỡng bách (Sagan và Denney 1982; Nguyen 1983, 222). Gia đình những người tù cải tạo bị ép buộc phải tới vùng kinh tế mới (Sagan và Denney 1982). "Để bắt buộc dân đến vùng kinh tế mới, đảng cộng sản Việt Nam dùng những thủ đoạn như hăm dọa tống họ đến trại tù cải tạo, thu hồi thẻ khẩu phần để họ không còn có thể mua nhu yếu phẩm hàng ngày như gạo và quần áo ở giá chính thức, vả không cho phép con cái họ đi học" (Nguyen 1983, 219).
Ngoài những tài liệu nghiên cứu khách quan do các học giả lịch sử có tên tuổi, có rất nhiều hồi ký, lời tường thuật, của các tù nhân cải tạo và những người vợ của các tù nhân cải tạo (Xem, thí dụ như, Chúc Thuần, Hồ 2008, Kale 2002, Nguyễn 2003, Thanh Minh, Trần 2015) nói về cách đối xử tàn nhẫn vô nhân đạo của cộng sản với tù nhân trong các trại tù và cuộc sống nhọc nhằn của những người vợ tù cải tạo. Sự ngược đãi và chính sách tàn bạo của nhóm cầm quyền cộng sản với các tù nhân cải tạo và thân nhân họ là một sự thật không thể chối cãi được. Tuy nhiên, vào tháng tư năm 2015, giáo sư Vũ Quang Hiển của Đại học Quốc gia Hà Nội tuyên bố rằng không có ngược đãi các quân cán chính VNCH sau 1975 và không có tù đày tại các trại tập trung cải tạo (BBC 2015). Sự chối bỏ một sự thật hiển nhiên qua một sử gia quốc doanh cộng sản cho thấy tâm địa gian manh và đầu óc ngu xuẩn của nhóm cầm quyền cộng sản tại Việt Nam hiện nay. Gian manh vì chúng muốn ếm nhẹm và bao che tội ác chúng. Ngu xuẩn vì việc ếm nhẹm và bao che đó có phản tác dụng mạnh mẽ, vì người dân sẽ tự hỏi, "Với những việc hiển nhiên rõ ràng như vậy mà chúng còn chối bỏ, thì với những việc chưa được phanh phui, chúng còn bao che và lấp liếm như thế nào?"
2. Con cò được dùng để ám chỉ người đàn bà Việt Nam cho sự cần cù làm việc và lòng dạ trong sạch:
Văn chương Việt Nam, nhất là ca dao tục ngữ, thường dùng thú vật làm biểu tượng hoặc ẩn dụ cho nhân vật hoặc khái niệm nào đó. Có những hình ảnh thông thường được nhiều dân tộc khác trên thế giới dùng. Thí dụ như chim bồ câu tiêu biểu cho hòa bình, ong bướm cho chuyện ái tình liên hệ tình dục trai gái, chó cho lòng trung thành. Có những con vật đặc biệt dùng trong văn chương Việt Nam cho các biểu tượng đặc thù. Thí dụ, con cá cho con cái trong nhà ("Cá không ăn muối cá ươn/ Con cãi cha mẹ trăm đường con hư"), con chim cho con gái ("Chim khôn lót ổ lựa nhành/ Gái khôn lựa chốn trai lành gửi thân"). 
Tuy nhiên, một biểu tượng đặc sắc nhất trong văn chương Việt Nam là con cò dùng làm biểu tượng cho phụ nữ Việt Nam dưới vai trò người mẹ hoặc người vợ (Wikipedia 2015). Biểu tượng con cò cho phụ nữ Việt rất có ý nghĩa vì nhiều lý do như sau. 
Trước hết, con cò là một sinh vật thường thấy trong vùng đồng quê Việt Nam. Do đó, con cò mang nặng hình ảnh đất nước Việt Nam và liên hệ đến cuộc sống hàng ngày của dân Việt vì đồng quê là phần quan trọng của đời sống dân Việt. 
Thứ nhì, con cò có hai chân khẳng khiu, cánh cò mỏng manh, thân hình nhỏ bé, cho thấy thể chất yếu đuối của người phụ nữ. Tuy nhiên, hình ảnh mỏng manh đó tương phản với ý chí kiên trì và nhẫn nại của cò và do đó nói lên được sức mạnh tinh thần của người phụ nữ Việt Nam.
Thứ ba, con cò đi kiếm ăn hoặc lấy mồi nuôi con với một mức độ kiên trì, cần cù, và nhẫn nại thật đáng kể (Sue 2014). Cò săn mồi theo cơ hội, dò dẫm qua các vũng nước cạn nơi đồng ruộng ao hồ, ngoặm mồi bằng mỏ nhọn. Bản chất cần cù, kiên trì thường có với người phụ nữ Việt Nam qua việc nuôi con, tần tảo, làm lụng, trong việc quán xuyến mọi việc trong gia đình. Người mẹ, người vợ Việt Nam hy sinh cho con, cho chồ̀ng, cặm cụi kiếm sống, chịu đựng mọi muôn ngàn đắng cay cho con, cho chồng như được thể hiện qua câu ca dao sau (Wikipedia 2015):
Con cò lặn lội bờ sông,
Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non.
Thứ tư và đặc biệt nhất, con cò có lông màu trắng, tượng trưng cho sự tinh khiết và trong sạch, một đặc điểm của phụ nữ Việt Nam. Ý nghĩa này được nổi bật trong câu ca dao sau (Huy 2014; Wikipedia 2015):
Con cò mà đi ăn đêm,
Ðậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao.
Ông ơi ông vớt tôi nao!
Tôi có lòng nào, ông hãy xáo măng.
Có xáo thì xáo nước trong,
Ðừng xáo nước đục đau lòng cò con.
Đã có nhiều thảo luận cho việc dùng "con" và "cái" cho giống đực và giống cái. (Xem thí dụ như, Ngô 2009; Nguyễn 2007; Nguyễn 2010). Tuy vẫn còn nhiều tranh cãi, thông thường, chữ "cái" khi dùng ̣để ám chỉ giới tính thường ngụ ý phái nữ. Tuy "con cò" là danh từ chung có thể dùng cho cả giống đực và giống cái, "cái cò" đặc thù dùng cho giống cái một cách nhấn mạnh.
B. Bài hát kể cuộc đời nhọc nhằn của người vợ lính VNCH và tù cải tạo dưới sự đối xử tàn nhẫn vô nhân đạo của cộng sản
Ca khúc "Cái Cò" kể những nỗi khổ đau và cực nhọc của những người vợ chiến sĩ VNCH và tù nhân tại các trại cải tạo sau năm 1975. Bài hát không nói về câu chuyện của một người vợ nào, mà là câu chuyện tổng quát về cuộc đời những người vợ của quân cán chính VNCH sống trong chuỗi ngày lầm than dưới sự áp bức của nhóm cầm quyền cộng sản sau 1975.
Bài hát mở đầu bằng cuộc gặp gỡ ngắn giữa người chồng trong tù cải tạo và người vợ đi thăm nuôi chồng. Người vợ trèo non lội suối đi thăm nuôi chồ̀ng là tù cải tạo trong trại tù xa xôi. Nàng thương nhớ chồng và khóc cho thân phận bị ngược đãi ("Cái cò lặn lội bờ sông, gánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non"). Câu mở đầu này lấy từ câu ca dao, tạo nên nền tảng của câu chuyện về người vợ tần tảo nuôi chồng. 
Gặp nhau trong giây phút ngắn ngủi, người chồng thương xót cho vợ mình kiên tâm trì chí, chung thủy với chồng. Chỉ có một thân một mình, nàng tận tụy nuôi con và thăm viếng chồng bị tù đày xa xôi ("Thương em dạ sắt lòng son, một thân đơn chiếc nuôi con thăm chồng"). Trong khi tay những người đàn bà khác đẹp đẽ tươi tốt như vàng bạc, tay của nàng nứt nẻ khô cằn rướm máu vì làm lụng cực khổ ("Bàn tay ai tốt vàng ròng, bàn tay em nứt máu hồng tuôn rơi"). Hai người nhìn nhau trong cuộc hội ngộ ngắn ngủi, muốn nói với nhau biết bao nhiêu lời kể lể tâm sự, nhưng nỗi tái tê và hỗn loạn tâm hồn khiến họ không nói nên lời ("Nhìn nhau muốn nói vạn lời, mà tim se thắt rối bời tâm can").
Người vợ bây giờ không còn gánh gạo nữa vì lúa gạo không có, là thứ xa xỉ phẩm, và thuộc về quá khứ. Nàng bòn thức ăn từng chút một, như ngô sắn khoai sùng, để ăn sống qua ngày trong nỗi khổ đau buồn thảm ("Cái cò ngày nay không còn gánh gạo/ Gạo đã thành một quá khứ xa xôi/ Cái cò ngày nay xuống biển tìm mồi/ Ngô sắn khoai sùng ăn cầm chừng nước mắt tuôn rơi"). Cảnh thiếu ăn, thiếu gạo là thực trạng xảy ra tại Việt Nam sau ngày cộng sản Bắc Việt chiếm đóng miền Nam. Sau khi thu chiếm miền Nam, nhóm cầm quyền cộng sản Bắc Việt phá hoại kinh tế đất nước và đem mức sản xuất nông nghiệp của miền Nam có thời cao nhất Đông Nam Á xuống thấp nhất, đến độ phải vay mượn thực phẩm từ các quốc gia khác. Trong cuối thập niên 1970 và đầu thập niên 1980, dân Việt không còn được ăn gạo thường xuyên nữa. Tại Sài Gòn, "đô thị lớn nhất miền Nam từ thừa mứa gạo trong suốt 300 năm qua, lần đầu phải ăn độn khoai mì, khoai lang, kể cả bo bo, thứ hạt cứng ngắc mà Liên Xô viện trợ" (Quốc 2015a). "Loại bo bo mà dân Việt một thời phải trệu trạo nhai để sinh tồn còn gọi lúa miến (sorghum)" (Quốc 2015b). Khoai sùng là loại khoai lang bị sùng ăn và phá hoại. Sùng, còn gọi là sùng đất hoặc bọ dím, hà, là ấu trùng của bọ hung. Chúng ăn và phá ruột củ khoai khiến củ khoai thay đổi mùi vị, trở thành đắng và không thể ăn được, ngay cả cho gia súc. 
Người vợ không quản khó nhọc, vẫn ráng làm lụng cực khổ để nuôi đàn con nheo nhóc. Tài sản đã mất hết, không còn gì để bán nữa, nàng chỉ còn những giọt máu đào trong cơ thể phải bán đi để có tiền hoặc tem phiếu cho thực phẩm mang về nuôi con. Nàng bị ép buộc phải lội suối trèo non đi tới vùng kinh tế mới xa xôi, cố gây dựng cuộc sống nơi đất đai cằn cỗi, làm lụng thay chồng nuôi đàn con ("Cái cò lặn lội bờ ao, bán giọt máu đào nuôi dưỡng đàn con/ Thương em lội suối trèo non vùng kinh tế mới nuôi con thay chồng"). Hình ảnh người dân bán máu để sinh sống không xa lạ gì với dân Việt Nam, ngay cả hiện nay. Trong cuối thập niên 1970 và đầu thập niên 1980, dưới thời bao cấp, cuộc sống người dân rất cực khổ, thức ăn thiếu thốn. Do đó, dân nảy ra nhiều kế sinh nhai. Một trong những kế sinh nhai đó là "nghề" bán máu. "Những người bán máu là những người dân nghèo nhất; họ không còn gì khác để bán nữa" (Thành 2002). Ngoài ra, như trình bày ở trên, các vùng kinh tế mới chỉ là biện pháp nhóm cầm quyền cộng sản phân tán và kiểm soát dân. Người dân, nhất là thân nhân của những tù nhân cải tạo, bị ép buộc phải đi tới những nơi đất đai cằn cỗi, rất khó trồng trọt. Nhiều người phải bỏ vùng kinh tế mới, trở về thành phố đô thị, sống lây lất với người quen.
Cuộc đời dâu bể bây giờ biến thành cuộc đời sống còn. Đất nước đã bị cộng phỉ chiếm đóng, nhà cửa, tài sản bị chúng cướp đoạt, vợ chồng ly tán. Chồng bị bắt đi tù cải tạo biết bao nhiêu năm không thấy về. Vợ bị ép buộc đi vùng kinh tế xa xôi hẻo lánh, cày sâu cuốc bẫm đất đai cằn cỗi hoang vu, cố gắng trồng trọt ("Biển dâu đã hóa ruộng đồng, nhà tan nước mất vợ chồng chia ly/ Chồng đi cải tạo không về, vợ đi tay cuốc tay cày đất hoang").
Nàng bây giờ chỉ ước mơ có được chén cơm bát gạo để nuôi con và sống qua ngày. Nàng phải lấy sức, để dành giọt máu đào để bán khi cần phải nuôi con. Nhưmg cuộc sống quá gian nan, nàng kiệt lực vì làm lụng vất vả, bây giờ đầu gối chân và gót chân mòn mỏi vì phải lê bước khắp nơi. Thêm vào đó, nàng phải gồng gánh gói kiện thức ăn mang đến thăm nuôi chồng đi qua những nơi xa xôi hiểm trở, núi non ngăn trở ("Cái cò ngày nay mơ tìm chén gạo/ Giọt máu đào dành để bán nuôi con/ Cái cò ngày nay gối mỏi chân mòn/ Vai gánh vai gồng đi thăm chồng cách núi ngăn non").
Nàng kéo lê cuộc đời cực khổ đói khát với nỗi đau buổn tức tưởi. Nàng còn quá trẻ, chỉ mới đôi mươi mà phải trải qua biết bao nhiêu đau thương trong cuộc đời vì biến cố quốc gia khiến cuộc đời nàng trôi nổi lầm than, nhan sắc phai tàn ("Cái cò lặn lội bờ đê, đói khổ trăm bề nước mắt đầy vơi/ Thương em tuổi mới đôi mươi, vì cơn quốc biến hoa trôi hương tàn").
Nàng tiêu biểu cho những người vợ của chiến sĩ VNCH đã anh dũng hy sinh cho tổ quốc hoặc bị cộng sản bắt giam trong những trại tù cải tạo tàn bạo sau ngày 30 tháng 4 năm 1975.
Chồng nàng là người chiến sĩ tuẫn tiết trên quốc lộ khi chống trả quân thù, không chịu đầu hàng trước lũ giặc xâm lăng. Máu anh tuôn ra lai láng như nước sông lan tràn. Anh ngã gục chết cùng với hàng ngàn người dân mà anh cố bảo vệ ("Chiều trên quốc lộ kinh hoàng, chồng em tuẫn tiết máu tràn như sông/ Chồng em chiến sĩ anh hùng, vì dân chiến đấu thác cùng muôn dân"). Hình ảnh người lính VNCH tuẫn tiết không đầu hàng giặc cộng sản là hình ảnh oai hùng nhất trong cuộc chiến, vì họ bảo tồn Danh Dự họ, theo đúng ba điều Trách Nhiệm, Danh Dự, và Tổ Quốc của QLVNCH. Trong cuộc chiến, có rất nhiều trường hợp lính VNCH tuẫn tiết trong trận. Bài hát "Anh không chết đâu anh"của Trần Thiện Thanh nói đến viên đạn cuối cùng mà trung úy Nhảy Dù Nguyễn Văn Đương dùng để tuẫn tiết năm 1971. Vào những ngày cuối cùng của miền Nam Việt Nam, biết bao nhiêu chiến sĩ VNCH đã tuẫn tiết, từ binh sĩ tới năm vị tướng (Nguyễn 2015a; Nguyễn 2015b).
Chồng chết, nàng trở thành góa phụ, nhưng nàng vẫn không quên bổn phận làm dâu và người mẹ. Nàng dắt díu mẹ chồng và các con đi về quê. Nhưng quê nàng đã tan hoang. Nhà cửa tài sản đã bị lũ cộng sản chiếm đoạt. Nàng bị ép buộc đi lên nơi rừng sâu nước độc vùng kinh tế mới ("Cái cò ngày nay đã thành góa phụ/ Tay dắt mẹ chồng tay dắt đàn con/ Muốn về làng quê, quê cũ không còn/ Giặc bắt lên rừng đi vào vùng chướng khí lam sơn").
Nàng là thiếu phụ lặn lội kiếm ăn, vét cống đào đường làm lụng cực nhọc, trong cơn gió lạnh rét căm căm. Chồng nàng bị giặc cộng sản bắt đi tù cải tạo, thay đổi trại tù từ Nam ra Bắc biệt tăm tin tức, khiến nàng không biết anh ở đâu để đi thăm nuôi ("Cái cò lặn lội bờ mương, vét cống đào đường cái rét lạnh căm/ Chồng em giặc bắt biệt tăm, tù Nam tù Bắc biết thăm nơi nào"). Thế rồi, vào một đêm mưa giông bão tố, có người đến báo cho nàng một hung tin. Chổng nàng bị giặc cộng giết trong trại tù khi anh bị đói rét lao động cực hình ("Một đêm gió lộng mưa gào, được tin anh đã đi vào thiên thu/ Chồng em chết giữa ngục tù, khổ sai đói rét cộng thù giết anh"). Chuyện tù cải tạo bị giết trong tù được biết rõ. Những vụ giết người có đủ mọi lý do: tù nhân trốn thoát, tù nhân làm loạn, theo dự tính trước với những tù nhân không có hành động phản kháng, bắn giết khơi khơi không có lý do (Vo 2004, 139-140).
Đau đớn cùng cực, nàng đi tới trại tù xa xôi, nơi vùng đất xa lạ. Đầu quấn khăn tang, nàng cố tìm mộ chồng. Nàng đi qua từng ngôi mộ hoang, hy vọng tìm được mộ bia khắc tên chồng, nhưng không tìm được mộ anh. Nước mắt dầm dề, nàng thương xót cho người chồng bất hạnh, chết đi mà không được chôn cất mộ phần để được khói nhang thờ phụng ("Cái cò một thân lên vùng đất lạ/ Đến trại tù tóc quấn vành tang/ Đếm từng mồ hoang máu lệ hai hàng/ Đau xót cho chồng không mộ phần không khói không nhang"). Đối với truyền thống văn hóa Việt Nam, không có mộ phần, nhang khói cho người chết là một nỗi đau đớn tủi nhục nhất cho thân nhân người quá cố. Như đã trình bày trên, có rất nhiều vụ hành quyết xảy ra tại trại tù và xác nạn nhân thường không được trả về cho thân nhân. Đây là một hành động tàn ác nhất của cộng sản, tạo đau thương cho gia đình nạn nhân cho biết bao năm.
Tóm lại, "Cái Cò" không phải là một câu chuyện đặc biệt về một người vợ lính VNCH nào đó, mà là các câu chuyện tiêu biểu cho những người vợ chiến sĩ VNCH. Những người vợ này phải làm việc cần cù, thăm nuôi chồng nơi tù cải tạo xa xôi, đi tới các vùng kinh tế mới với đất đai hoang dã, nuôi đàn con và săn sóc cha mẹ chồng, làm tròn bổn phận của người con dâu, người vợ, và người mẹ. Họ phải chịu đựng nhọc nhằn, đói lạnh, và nỗi thống khổ khi người chồng chết trong chiến trận hoặc bị cộng sản giết trong ngục tù cải tạo.
C. Bài hát có giai điệu chậm buồn nhưng thay đổi, và lời ca có cấu trúc thăng bằng với cách dùng chữ có hiệu quả:
Ca khúc "Cái Cò" là lời kể cuộc đời cực khổ lầm than của người vợ chiến sĩ VNCH. Bài hát thể hiện nỗi niềm thê lương này với giai điệu chậm buồn, được đưa đẩy khéo léo qua vần điệu của thể loại thơ lục bát, và có những đoạn thơ theo thể thức cố định tạo nên âm điệu và tiết tấu thay đổi.
Một đặc điểm của "Cái Cò" là cách dùng điệp ngữ để nhắc đi nhắc lại lời ca đi sâu vào tâm trí khán giả. Đây là hình thức của tiểu điệp khúc (refrain), rất thường dùng trong nhạc và thơ khi một hình ảnh quan trọng nào đó được nhắc đi nhắc lại nhiều lần. Tiểu điệp khúc là một hay hai câu trong một phiên khúc, thường nằm ở cuối hoặc ở giữa phiên khúc, và được lập lại để tạo một tác dụng nào đó (thí dụ, tóm tắt, nhấn mạnh, vần điệu) cho phiên khúc đó. Tiểu điệp khúc không mang ý chính của toàn thể bài hát như điệp khúc, và thường chỉ có tác dụng trên phiên khúc đó mà thôi.
Bài hát gồm có bốn phiên khúc chính. Mỗi phiên khúc có hai phần. Mỗi phần khởi đầu bằng "cái cò" cho thấy hình ảnh con cò xuất hiện liên tục, khiến âm hưởng này được vang vang trên khắp bài và khán giả liên tục duy trì hình ảnh này trong suốt bài hát. Hình ảnh cái cò lặn lội săn mồi cũng được lập đi lập lại nhiều lần: "lặn lội bờ sông," "lặn lội bờ ao," "lặn lội bờ đê,""lặn lội bờ mương." Trong cách dùng tiểu điệp khúc này, Nguyệt Ánh cho chút thay đổi, giúp cho hình ảnh được linh hoạt: con cò không bỏ sót chỗ nước nông nào để tìm thức ăn: sông, ao đê, mương. Con cò đi tìm thức ăn ở khắp nơi, nói lên sự cực nhọc của người vợ, lội suối trèo non, đi thăm nuôi chồng, đi làm lụng ở vùng kinh tế mới.
Bốn phiên khúc của bài hát theo quy luật khá chặt chẽ. 
Phần đầu của mỗi phiên khúc là tám câu thơ lục bát. Câu thứ hai (câu tám chữ) của tám câu này phá luật gieo vần lục bát: vần gieo vào chữ thứ tư thay vì chữ thứ sáu:
Cái cò lặn lội bờ sông,
gánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non.
...
Cái cò lặn lội bờ ao
bán giọt máu đào nuôi dưỡng đàn con.
...
Cái cò lặn lội bờ đê
đói khổ trăm bề nước mắt đầy vơi.
...
Cái cò lặn lội bờ mương
vét cống đào đường gió rét lạnh căm.
Cách gieo vần biến thể này giúp cho âm điệu bài hát thêm phần linh động và tránh sự buồn tẻ đều đều khi mô tả những hoạt động đi kiếm ăn, làm lụng của con cò. Các câu thơ lục bát sau đó trong phiên khúc đa số gieo vần rất chỉnh, không gượng ép, giúp hình ảnh mô tả được trôi chảy một cách tự nhiên. 
Phần thứ hai của mỗi phiên khúc là bốn câu với thể thức cố định: ba câu đầu có bảy hoặc tám chữ/ âm tiết có cùng trường độ và câu thứ tư có mười một chữ/ âm tiết. Thể thức cố định này tạo nên cấu trúc đặc thù cho bài hát và giúp cho giai điệu có được sự thay đổi để tránh âm điệu đều đều buồn tẻ. Ta biết những ca khúc được phổ thành nhạc từ thơ thường mắc phải một vấn đề là có tiết điệu đều đều, thiếu linh động, và do đó chỉ thích hợp cho một số câu chuyện hoặc tình tiết. Khi bài thơ gốc là thơ theo thể loại lục bát, vấn đề này lại càng trầm trọng hơn. Một thí dụ điển hình là ca khúc "Tưởng Như Còn Người Yêu" ("Ngày mai đi nhận xác chồng/ Say đi để thấy mình không là mình...") do Phạm Duy phổ nhạc từ bài thơ lục bát của thi sĩ Lê Thị Ý (Đinh 2009). Bài hát này có tiết điệu đều đều, thích hợp với lời than khóc của một thiếu phụ mất chồng. Ngược lại, ca khúc "Cái Cò" không phải là lời than vãn thở than của người vợ có chồng đi tù cải tạo mà là câu chuyện về cuộc đời cực khổ và những hy sinh lớn lao của người vợ chiến sĩ VNCH. Câu chuyện đó cần có những sắc thái linh động và giai điệu thay đổi để vẽ ra hình ảnh sống động của người vợ. Do đó, phần hai của mỗi phiên khúc cho nét thay đổi đó và giúp câu chuyện thêm phần xúc động.
Câu chót của phần hai là câu dài, gồm 11 chữ/ âm tiết. Nguyệt Ánh dùng câu dài này để diễn tả ý tưởng có chút phức tạp, giúp giai điệu thêm linh động và tiết tấu kéo dài tạo âm hưởng lan rộng. Ta hãy nghe âm hưởng của các câu dài này:
Ngô sắn khoai sùng ăn cầm chừng, nước mắt tuôn rơi.
...
Vai gánh vai gồng đi thăm chồng, cách núi ngăn non.
...
Giặc bắt lên rừng đi vào vùng, chướng khí lam sơn.
...
Đau xót cho chồng không mộ phần, không khói không nhang.
Trong mỗi câu, 7 chữ đầu mô tả hành động hoặc cảm xúc, 4 chữ sau đưa ra một khía cạnh tổng quát của hành động hoặc cảm xúc đó như ̣để tóm tắt. Do đó, 4 chữ này có tiết tấu kéo dài vì tác dụng là tạo âm hưởng trên người nghe. Thí dụ, câu 7 chữ "Ngô sắn khoai sùng ăn cầm chừng" mô tả hành động ăn cầm chừng ngô sắn khoai sùng. Câu 4 chữ "nước mắt tuôn rơi" cho thấy hình ảnh tổng quát về hành động đó, và câu này cần được tạo tác dụng trên người nghe nên được kéo dài.
Nguyệt Ánh dung hòa kỹ thuật "cho thấy" và "kể" một cách điêu luyện, khiến khán giả vửa được lôi cuốn vào câu chuyện vừa có cảm xúc mạnh mẽ. Những từ ngữ "cho thấy" súc tích nhưng rất sống động, khiến câu ca càng tạo tác dụng mạnh mẽ trên khán giả. Thí dụ, "lặn lội," "tay . . .nứt," "tuôn rơi," "se thắt," "rối bời," "lội suối trèo non," "tay cuốc tay cày," "vai gánh vai gồng," "tuẫn tiết," "máu tràn," "tay dắt," "vét cống đào đường," "biệt tăm," "gió lộng mưa gào,"và "máu lệ hai hàng." Bên cạnh những từ ngữ "cho thấy" này, những từ ngữ "kể" giúp dung hòa hình ảnh và tạo nên giao động lên xuống một cách cân bằng cho người nghe: "đói khổ trăm bề," "kinh hoàng," "thác cùng muôn dân," "đi vào thiên thu."
Ngoài ra, Nguyệt Ánh vận dụng nhóm chữ có bốn chữ có hai vế đối chiếu, thông dụng trong thành ngữ tiếng Việt, tạo nên hương vị dân tộc của lời ca, giúp khán giả liên tưởng ý nghĩa của con cò trong ca dao và tục ngữ. Các nhóm chữ bốn chữ này còn giúp câu thơ trôi chảy và tượng hình: "dạ sắt lòng son," "lội suối trèo non," "nhà tan nước mất," "tay cuốc tay cày," "gối mỏi chân mòn," "vai gánh vai gồng," "cách núi ngăn non," "hoa trôi hương tàn," "chướng khí lam sơn," "vét cống đào đường," "gió lộng mưa gào." 
Nguyệt Ánh dùng mỹ từ rất hiệu quả. Với ẩn dụ cái cò cho người vợ bao trùm cả bài hát, Nguyệt Ánh khéo léo tiếp tục dùng những hoạt động của con cò là ẩn dụ cho các hành động của người vợ. Thí dụ, "xuống biển tìm mồi" cho thấ́y sự táo bạo của con cò, thường chỉ săn mồi nơi vùng nước cạn, đi săn tới tận biển là nơi rất khó kiếm mồi. Câu đó là ẩn dụ cho sự liều mạng của người vợ lao đầu vào những nơi khó khăn kiếm sống vì bị quẫn túng. Các ẩn dụ khác cũng rất có tác dụng mạnh. Thí dụ "hoa trôi" cho cuộc đời trôi nổi, "hương tàn" cho nhan sắc tàn phai.
Nguyệt Ánh có biệt tài dùng ngôn từ đơn giản nhưng mạnh mẽ, gây cảm xúc mãnh liệt trên khán giả. Những từ ngữ này gợi hình và vẽ ra những hình ảnh quen thuộc. Thí dụ như "Vai gánh vai gồng," "Tay dắt mẹ chồng tay dắt đàn con," "tù Nam tù Bắc biết thăm nơi nào," "Đếm từng mồ hoang." Với những nhóm chữ đơn giản nhưng gợi hình tạo cảm xúc mãnh liệt, người nghe tưởng tượng hình ảnh nàng dắt mẹ chồng và đàn con, hai vai gồng gánh, chạy đôn chạy đáo từ Nam tới Bắc, bước đi đếm từng ngôi mộ hoang, hai hàng lệ rơi lả chả. "Cái Cò" khiến người nghe cảm thấy mũi lòng, xót thương cho người vợ, và ngậm ngùi cho cuộc sống đau thương của nàng.
Tóm lại, các phiên khúc trong "Cái Cò" có cấu trúc thăng bằng, xen lẫn các câu có âm tiết và thể thức không đồng đều với các câu lục bát êm ái, tạo nên nét linh hoạt và sống động cho câu chuyện buồn thảm cảm động của những người vợ lính VNCH có chồng hy sinh anh dũng hoặc bị bắt làm tù cải tạo. Kỹ thuật dung hòa giữa "cho thấy" và "kể," cách dùng chữ mạnh mẽ và những nhóm bốn chữ, tạo nên một bức tranh sống động bộc lộ hình ảnh người vợ miền Nam Việt Nam cần cù, hy sinh cho chồng con.
Những câu chuyện có thật của những người vợ chiến sĩ VNCH được kể qua ca khúc "Cái Cò" một cách rất cảm động. Qua những chi tiết rõ rệt và mạnh mẽ, khán giả không thể không bùi ngùi và xúc động về cuộc đời đau thương và sự hy sinh to tát của những thiếu phụ miền Nam sống dưới sự đối xử tàn bạo của nhóm cầm quyền cộng sản.
D. Kết Luận:
Ca khúc "Cái Cò" nói lên các đức tính hy sinh, cần cù, tháo vát, và chịu đựng của những người vợ lính VNCH qua cuộc sống nhọc nhằn của họ trong việc làm lụng nuôi con khi không có chồng vì chồng chết trong chiến trận hoặc bị đi tù cải tạo. Bài hát ca ngợi lòng dạ sắt son chung thủy của những thiếu phụ chờ chồng trong ngục tù, và những cực khổ trong việc thăm nuôi chồng trong tù cải tạo xa xôi. Bài hát diễn tả ý tưởng hữu hiệu qua giai điệu êm ả nhẹ nhàng gây cảm xúc, cấu trúc thăng bằng, và cách dùng chữ linh động.
Tuy có những người vợ bỏ chồng vì không đủ kiên nhẫn chờ đợi hoặc vì có những cám dỗ khác, đa số người vợ miền Nam chờ đợi chồng trong tù đày, làm lụng nuôi con, và chăm lo cha mẹ chồng. Những hy sinh to tát này thường không được biết ơn đầy đủ và không được nhắc nhở nhiều. Ca khúc "Cái Cò" đem lại những công lao thường bị bỏ quên đó và là lời chứng cho một quãng thời gian đen tối nhất trong lịch sử Việt Nam dưới sự đàn áp vô nhân đạo của nhóm cầm quyền cộng sản Bắc Việt.
*
CẢM TẠ
Tôi xin có lời cảm tạ nhạc sĩ Nguyệt Ánh đã bỏ thì giờ quý báu trong lúc bận rộn với các hoạt động văn nghệ để chia sẻ với tôi về việc viết ca khúc "Cái Cò" và trả lời những câu hỏi của tôi. Ngoài ra, tôi cám ơn các bạn trên trang mạng Dân Làm Báo đã có lời khích lệ trong các bài về âm nhạc trước và giúp tôi có ý định viết bài này, đặc biệt là lời yêu cầu của bạn Thanh niên Việt.
Tài Liệu Tham Khảo:
BBC. 2015. 'Không có ngược đãi sau 30/4'. 18-4-2015. 
Chúc Thuần. Không rõ ngày. Tâm Sự Của Một Người Vợ Tù Nhân "Cải Tạo". Không rõ ngày.
Courtois, Stéphane et al. 1999. The Black Book of Communism, Crimes, Terror, Repression, translated by Jonathan Murphy and Mark Kramer, Harvard University Press, Massachusetts, U.S.A.
Denney, Stephen. 1990. Human Rights and Daily Life in Vietnam.
Duiker, William J. 1995. Vietnam: Revolution in Transition, Second Edition, Westview Press, Colorado, U.S.A.
_________. 1996. The Communist Road to Power in Vietnam, Second Edition, Westview Press, Colorado, U.S.A.
Đinh Quang Anh Thái. 2009. Lê Thị Ý: Tác giả 'Ngày mai đi nhận xác chồng'. 10/7/2009. http://www.dactrung.com/Bai-bv-2842-Le_Thi_y_Tac_gia_%27Ngay_mai_di_nhan_xac_chong%27.aspx (truy cập 26-4-2015).
Đỗ Ngọc Uyển. Không rõ ngày. Tù Cải Tạo: Tội ác chống nhân loại của Cộng sản VN. Không rõ ngày. 
_________. 2010. Tội Ác Thủ Tiêu Mất Tích 165,000 Quân Dân Cán Chính Việt Nam Cộng Hòa. 1-2010. 
Freeman, James M. 1995. Changing Identities: Vietnamese Americans, 1975-1995. Allyn and Bacon, Massachusetts, U.S.A.
Hồ Phú Bông. 2008. Cái Chết Của Chiến Sĩ. 28-10-2008. 
Huy Phương. 2014. Bài thơ Con Cò và luận điệu áp đặt của văn học miền Bắc. 21-12-2014. 
Kale. 2002. Hồi Ký Tù Cải Tạo - 17 năm trong các trại Tù Cải Tạo của Cộng Sản Việt Nam. 21-3-2014. 
http://hoikytucaitao.blogspot.com/ (truy cập 25-4-2015).
Ngô Nguyên Dũng. 2009. Nỗi băn khoăn của "con" và "cái" trong tiếng Việt. 19-11-2009. 
http://damau.org/archives/10011 (truy cập 11-4-2015). 
Nguyen Van Canh. 1983. Vietnam Under Communism, 1975-1982. Hoover Institution Press, California, U.S.A.
Nguyễn Công Luận. 2012. Nationalist in the Viet Nam Wars: Memoirs of a Victim Turned Soldier. Indiana University Press, Indiana, U.S.A.
Nguyễn Hưng Quốc. 2010. Tiếng Việt: Cái và Con. 11-5-2010. 
Nguyễn Hữu Lễ. 2003. Tôi Phải Sống
Nguyễn Lộc Yên. 2015a. Chiến Sĩ VNCH, dù tử danh bất tử (Phần 1). 17-4-2015. 
_________. 2015b. Chiến Sĩ VNCH, dù tử danh bất tử (Phần 2). 21-4-2015. 
Nguyễn Sơn Hà. 2007. Cái Cò và Con Cò. 28-6-2007. 
Nguyệt Ánh. Không rõ ngày. Cái Cò
Phong trào Hưng ca Việt Nam. Không rõ ngày. Vườn Nhạc. Không rõ ngày. 
https://hungca.wordpress.com/nhac/ (truy cập 26-4-2015).
Quốc Việt. 2015a. Nỗi ám ảnh... bo bo trong "đêm dài" đói kém. 4-4-2015. 
_________. 2015b. Bo bo từ đâu ra? 8-4-2015. Tuổi Trẻ On-line. 
Sagan, Ginetta và Denney, Stephen. 1982. Re-education in unliberated Vietnam: loneliness, suffering, and death. The Indochina-Newsletter, October-November 1982. 
Sorley, Lewis. 1999. A Better War - The unexamined Victories and final tragedy of America’s last years in Vietnam. Hartcourt, Florida, U.S.A.
Sue. 2014. The patient hunter. 6-9-2014. 
Thanh Minh. Không rõ ngày. Thân Phận Vợ Của Một "Tù Cải Tạo". Không rõ ngày. 
Thành Văn. 2002. Nghề Lạ Ở Sài-gòn sau 75. 31-1-2002. 
Trần Văn Giang. 2015. Đi thăm Chồng. 25-4-2015. 
Việt Báo. 2012. Người Chỉ Huy Cơ Quan Tình Báo VNCH Đầu Tiên Đã Qua Đời. 8-2-2012. 
Vo, Nghia M. 2004. The Bamboo Gulag: Political Imprisonment in Communist Vietnam, McFarland & Co Inc, North Carolina, U.S.A.
Wiest, Andrew. 2008. Vietnam's Forgotten Army - Heroism and Betrayal in the ARVN. New York University Press, New York, U.S.A.
Wikipedia. 2015. Hình tượng con Cò trong văn hóa. Thay đổi chót: 7-4-2015. 
© 2015 Cao-Đắc Tuấn

Về những kẻ mơ “nối vòng tay lớn” trong hòa bình với kẻ thù

 Về những kẻ mơ “nối vòng tay lớn” trong hòa bình với kẻ thù

Trần Quốc Việt (Danlambao) - Họ là những kẻ góp phần lớn vào sự sụp đổ của Việt Nam Cộng Hòa. Họ không ngừng cực lực lên án chính phủ Quốc gia và không ngừng xuống đường liên tục với đủ sắc áo màu cờ nhân danh phản chiến và hòa bình. Những chiến sĩ VNCH hy sinh biết bao xương máu ngoài mặt trận trong suốt 21 năm trời để bảo vệ hậu phương cho họ tự do lợi dụng và khai thác thể chế dân chủ và tự do để gây rối loạn ở hậu phương. Vô tình hay hữu ý hay thơ ngây, họ trở thành ngọn giáo nối dài của Cộng sản đâm vào hậu phương từng nuôi dưỡng, giáo dục và bảo vệ họ và gia đình. Họ là những sinh viên, trí thức, văn nghệ sĩ, chính trị gia, tu sĩ, và thành phần thứ ba ở miền Nam.
Những kẻ phản chiến và ngụy hòa này, tức những kẻ đối lập cửa trước rước giặc cửa sau vì, xét cho cùng, trung lập trong chiến tranh chính là bạn của kẻ thù. Nhưng cuối cùng khi cuộc chiến tàn, họ bị Cộng sản bỏ rơi, coi thường, hay cả bị tù đày. Họ chính là những kẻ mà Lenin đặt tên là “những kẻ ngu xuẩn có ích” cho cộng sản. Họ hiện diện thường xuyên trên các đường phố ở miền Nam và Mỹ kêu gọi hòa bình mà thực tế mở đường cho cuộc chiến tranh mới không tiếng súng nhưng tàn ác gấp bội lần.
Nhân dịp kỷ niệm bốn mươi năm Việt Nam Cộng hòa bị cộng sản cưỡng chiếm, chúng tôi trích lại lời phát biểu của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu vào ngày 24 tháng Mười 1972, và dịch một trích đoạn trong bài diễn văn của nhà văn Nga Alexander Solzhenitsyn tại đại học Havard vào ngày 8 tháng Sáu 1978. Những tiểu đề là của người sưu tầm và người dịch.

Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu- Hai lối vào lịch sử
Tôi thiết tha kêu gọi những ai, ở miền Nam này, đang ăn cơm miền Nam, đang thở không khí miền Nam, đang được sự che chở của xương máu Dân Quân miền Nam, mà đến ngày nay, còn âm thầm tiếp tay với Cộng sản, còn lén lút đi đêm với Thực dân, Ngụy hòa, còn tính đâm sau lưng chiến sĩ đồng bào…Tôi kêu gọi lương tri của mấy người, vì đất nước, vì dân tộc, hãy dừng chân lại, hãy dừng tay lại, hãy từ bỏ ý định đó đi mà cùng với 17 triệu rưỡi Dân Quân miền Nam chiến đấu chống kẻ thù Cộng sản. Tôi kêu gọi mấy người hãy suy nghĩ, nếu thích Cộng sản thì hãy có can đảm ra ngoài Bắc ở với Cộng sản, như vậy Cộng sản còn ít khinh rẻ mấy người hơn là làm tay sai cho chúng ở miền Nam này.
Có thể không ai ở miền Nam tự do này giết mấy người đâu, nhưng chính Cộng sản sẽ giết mấy người.
Mấy người nếu muốn có tên trong lịch sử, thì cũng có hai lối có tên trong lịch sử. Một đàng khi nhắc đến, thì toàn dân cúi đầu khâm phục, con cháu lại ngẩng đầu lên hãnh diện. Một đàng khác, khi nhắc đến, thì toàn dân ngẩng đầu lên nguyền rủa, còn con cháu mấy người lại cúi đầu tủi nhục. Tôi chắc mấy người sẽ được lịch sử ghi tên vào hạng thứ hai này.
Nếu mấy người không cầm súng xông pha lửa đạn để chiến đấu, nếu không làm được một việc gì hữu ích cho hậu phương thì mấy người đừng làm gì hại dân bán nước.
Một hành động ngu xuẩn, phản bội Tổ Quốc, Chiến Sĩ và Nhân Dân, dù có gạt được ai 5, 3 tháng, 5, 3 năm, rồi cũng sẽ bị lịch sử lôi ra chứng minh và cũng sẽ bị trừng trị nghiêm khắc.
Alexander Solzhenitsyn- Phản chiến hay phản bội
Tuy nhiên, lầm lẫn tàn ác nhất xảy ra do không hiểu cuộc chiến tranh Việt Nam. Nhiều người thực lòng chỉ muốn tất cả các cuộc chiến tranh chấm dứt càng sớm càng tốt; những người khác tin rằng nên có chỗ cho quốc gia, hay cộng sản, quyền tự quyết ở Việt Nam, hay ở Cambodia, như ngày hôm nay chúng ta thấy rất rõ ràng. Nhưng những thành viên của phong trào phản chiến Mỹ rốt cuộc liên can đến việc phản bội những nước Viễn Đông này, đến cuộc diệt chủng và đến đau khổ bị áp đặt hôm nay lên 30 triệu người ở đấy. Những người theo chủ nghĩa hòa bình xác tín này có nghe bao tiếng rên từ nơi đấy vọng đến? Hôm nay họ có hiểu trách nhiệm của họ? Hay họ chẳng muốn nghe?


40 năm rồi - đảng phải rút cho dân hồi cư

 40 năm rồi - đảng phải rút cho dân hồi cư

Phạm Trần (Danlambao) - Trong 40 năm cai trị cả nước Việt Nam từ sau ngày 30/04/1975, lần đầu tiên đã có những tiếng nói từ trong lòng chế độ lên án đảng phản bội dân tộc và buôn xương máu các chiến sĩ để được yên thân với Trung Quốc bá quyền.
Những người can đảm lên tiếng không ai khác hơn đã một thời chiến đấu dưới ngọn cờ đảng, từng là đảng viên, lão thành cách mạng và văn nghệ sĩ đã nằm gai nếm mật tại các chiến trường, có người từ thời chống Pháp.
Nhưng tại sao họ đã dứt khoát như thế mà không sợ bị trù dập, bắt tù? Nhất là lại lên tiếng đúng vào dịp đảng ra sức tuyên truyền và tiêu phí tiền dân để che giấu tội hại nước, phản dân vào dịp kỷ niệm 40 năm ngày được thêu dệt là “Đại thắng mùa Xuân 1975-Giải phóng miền Nam-Thống nhất đất nước”?
Lý do vì, không riêng số người nổi tiếng này mà hàng triệu người dân trong và ngoài nước đều thấy rằng, sau 40 năm thử nghiệm mớ lý thuyết viển vông “Mác-Lênin và Tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh” và làm “Kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa” giở giăng giở đèn mà Việt Nam vẫn chưa làm nổi con ốc vít thì chế độ này phải bị thay thế, nhất là ngày càng để mất đất, mất biển vào tay láng giềng xấu bụng Trung Quốc.
Giải phóng cái gì?
Người đầu tiên phải kể là Nhạc sĩ nổi tiếng Tô Hải (tên thật là Tô Đình Hải, sinh ngày 24 tháng 9 năm 1927 tại Hà Nội, quê ở Tiền Hải - Thái Bình.
Ông gia nhập đảng Cộng sản từ năm 1949, tham gia kháng chiến chống Pháp và làm công tác văn nghệ ở Quân khu 4 và nhiều hoạt động văn nghệ và sáng tác theo hướng nhạc dân tộc và loại nhạc gọi là “cách mạng”.
Tuy nhiên, sau năm 1975 một thời gian, Nhạc sĩ Tô Hải sống ở Sài Gòn đã phủ nhận gia tài sản âm nhạc đồ sộ của mình. Ông gọi chúng là “nhạc nô” rồi ông quyết định bỏ đảng để trở thành một Tín đồ đạo Công giáo ngày 25/5/2014. 
Ông từng được suy tôn là “nhà cách mạng lão thành” và nhận rất nhiều huân chương của Nhà Nước Cộng sản, trong đó có các Huân chương Chiến công hạng Nhì, Ba; Huân chương Chiến thắng hạng Ba, Huân chương Chiến sĩ vẻ vang hạng Ba, Huân chương Kháng chiến chống Mỹ cứu nước hạng Nhất.
Sau khi bỏ đảng, ông trao tập “Hồi ký của một thằng hèn” cho Nhà văn Uyên Thao, Giám đốc Nhà Xuất bản Tủ sách Tiếng Quê Hương ở Falls Church, Virginia (USA), xuất bản. Rất nhiều người đã tìm đọc cuốn hồi ký nổi tiếng của Nhạc sĩ Tô Hải.
Bình luận về tuyên truyền “Giải phóng miền Nam” nhân dịp kỷ niệm 40 năm ngày 30/04/1975, Nhạc sĩ Tô Hải chất vấn trong bài viết ngáy 23/04/2015:
- “Giải phóng gì, hòa hợp gì mà cả triệu con người, đa số là trí thức của đối phương mà ông tướng Trà, trong lúc bốc nhằng lỡ nói với tướng Dương văn Minh rằng thì là: “Người Việt chúng ta không ai thắng thua, chỉ có đế quốc Mỹ là thất bại mà thôi” còn in nóng sốt trên khắp các báo… thì lập tức, ngay sau đó, có lệnh của “kẻ to hơn ông Trà” cho gom tất cả cán binh cao cấp bên thua trận, vào các trại cải tạo nơi thâm sơn cùng cốc để chết dần chết mòn vì… “học tập” hoặc có sống sót mà về thì cũng chỉ còn là những tấm thân tàn, ma dại nằm chờ chết? (ngay gia đình mình, “gia đình cách mệnh” như lời ông Trần văn Trà tuyên bố hẳn hoi mà cũng có người phải đi học tập đến cả 11 năm vì trót làm…trung tá – luật sư Tòa án Binh).

- Giải phóng gì hòa hợp gì mà nhà cửa, ruộng vườn, xưởng máy, xí nghiệp của bên “được giải phóng” đều rơi vào tay các ông cán bộ sử dụng cho đến tận ngày nay… 

- Giải phóng gì, hòa hợp gì mà dân miền Bắc quanh năm xếp hàng kiếm mớ rau, miếng đậu phụ theo tem phiếu, bỗng… “giàu lên” nhờ “nhận họ nhận hàng” từ miền Nam bị Đế Quốc Mỹ kìm kẹp (!) chia xẻ cho cái xe máy, cái tủ lạnh, thậm chí ít “cây vàng” để cơi nới ngôi nhà đã quá sức chứa đến 3,4 thế hệ! Thế mà, chỉ một đêm, có lệnh của bác ĐM (chiến dịch Z 200 hay 500 gì đấy), đều bị “kiểm tra hành chính”, tịch thu tài sản không lý do, lý trấu gì xất!
(Chú thích của người viết bài này: ĐM là Đỗ Mười. Năm 1977 ông là Phó Thủ tướng kiêm nhiệm Trưởng ban Cải tạo Công thương nghiệp Xã hội chủ nghĩa, phụ trách vấn đề cải tạo Công thương nghiệp XHCN tại miền Nam)
- Giải phóng gì, hòa hợp gì mà cả nước bỗng trở thành… súc vật ăn bo bo tranh phần của ngựa, lừa nhưng vẫn phải hô to đảng ta vô cùng sáng suốt!

- Và đặc biệt vô nhị là giải phóng gì mà ba, bốn triệu người đều sợ hãi chạy suốt từ Bắc vô Nam rồi từ Việt Nam đi bất cứ nơi nào trên thế giới dù thân xác có làm mồi cho cá mập đại dương còn hơn là làm công dân của một chế độ, mà rồi đây con sẽ đấu cha, vợ đấu chồng, đồng chí đấu nhau, thậm chí bắn giết, chôn sống nhau để “đấu tranh này là trận cuối cùng”, để “bao lợi quyền ắt qua tay mình?!
Sau khi tự đặt các câu hỏi như thế, người Nhạc sĩ 88 tuổi có thời gian dài sống chết cho đảng đã gay gắt viết bằng chữ hoa như xiết từng chữ cho mọi người biết rõ thái độ của mình.
Ông viết: “ KHÔNG BAO GIỜ CÓ ĐƯỢC SỰ HÒA HỢP TRONG 90 TRIỆU CON HỒNG CHÁU LẠC NẾU NHỮNG KẺ CỘNG SẢN GÂY TỘI ÁC KHÔNG BỊ VẠCH TRẦN VÀ BỊ XÓA SỔ VĨNH VIỄN!”
Lừa dối vĩ đại
Người thứ hai, đồng đội của Nhạc sĩ Tô Hải là Nhà văn cựu Đại tá Quân đội Nhân dân Phạm Đình Trọng phát biểu ngày 22/4/2015, ông viết: "Suốt 40 năm qua, hệ thống tuyên truyền khổng lồ của đảng CSVN (Cộng sản Việt Nam) cầm quyền đã ngốn quá nhiều tiền thuế của dân, tiền bán tài nguyên đất nước vào việc tự huyễn hoặc mình và lừa dối người dân về ngày 30 tháng tư năm 1975, ngày huy hoàng đại thắng, ngày vẻ vang thống nhất đất nước.

Cuộc chiến tranh mà hệ thống tuyên truyền của nhà nước Việt Nam cộng sản vẫn thần thánh hóa là cuộc chiến tranh “Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước”, “Cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước” thực chất chỉ là cuộc nội chiến tội lỗi, người Việt bắn giết người Việt.”
Nhà văn vào đảng ngày 19/05/1970, đi lính thành sĩ quan để xâm nhập vào chiến trường Tây Nguyên miền Nam. Nhưng ông đã tự ý ra khỏi đảng ngày 20/1/2009, vì theo thư gửi Chi bộ quận Tân Bình (TpHCM), ông nói: “Tôi tự thấy đảng Cộng sản không còn phù hợp với lí tưởng thẩm mĩ và giá trị nhân văn mà tôi theo đuổi nên tôi tự rút ra khỏi đảng.”
Ông Trọng nói thẳng với cái đảng một thời đã mê hoặc ông rằng: “Ngay từ khi phát động cuộc nội chiến phi nghĩa núp bóng cuộc chiến tranh chính nghĩa “giải phóng miền Nam”, những người cộng sản đã vẽ ra con ngáo ộp “đế quốc Mĩ” hiếu chiến, tham tàn, man rợ hù dọa người dân, đã lôi “đế quốc Mĩ” vào tham chiến để biến cuộc nội chiến thành cuộc thánh chiến….”
Từ nhận thức mới này, Nhà văn vạch trần sự thật: “Nếu cuộc chiến tranh kết thúc ngày 30. 4. 1975 là “Giải phóng miền Nam thống nhất đất nước” thì cuộc chiến tranh đó trước hết phải giải phóng người dân miền Nam khỏi sự nô dịch của đế quốc Mĩ như hệ thống tuyên giáo cộng sản vẫn ra rả tuyên truyền, để người dân miền Nam trở về với dân tộc Việt Nam yêu thương. Đất nước thống nhất trước hết phải thống nhất trong tình cảm, ý chí người dân. 40 năm đã qua, sự thống nhất đó vẫn chưa hề có. Cuộc chiến tranh kết thúc ngày 30. 4. 1975 chỉ giải phóng đất đai miền Nam để người thắng cuộc thâu tóm, thống trị cả nước, còn người dân miền Nam vẫn bị người thắng cuộc coi là thù địch. Chỉ là cuộc nội chiến, người Việt Cộng sản làm chiến tranh để tiêu diệt người Việt Cộng hòa. Người Việt Cộng hòa có may mắn thoát chết trong cuộc nội chiến khốc liệt, tàn bạo đó cũng bị loại bỏ khỏi sinh hoạt xã hội, trở thành những người tù không án, bị giam cầm mút mùa không thời hạn trong những nhà tù hà khắc.”
Thất vọng tuyệt cùng
Nhân chứng thứ ba đã bất mãn với đảng vì bị lừa dối từ khi còn tấm bé theo Cha, một Luật sư liệt sĩ kháng chiến chống Pháp vào bưng là Bà Nghệ sĩ Kim Chi.
Tên đầy đủ của Bà là Nguyễn Thị Kim Chi sinh ngày 15 tháng 6 năm 1943, tại Rạch Giá (Kiên Giang). Bà theo gia đình tập kết ra Bắc năm 1954 và được học trở thành diễn viên điện ảnh, đạo diễn và biên kịch.
Nghệ sĩ Kim Chi đã lặn lội ở chiến trường miền Nam trong 10 năm cùng đội Văn công Giải phóng và đã đóng nhiều bộ phim chiến tranh và tình cảm nổi tiếng.
Bà cũng là người được báo chí quốc tế chú ý sau khi bà công khai vào năm 2013 từ chối nạp hồ sơ khen thưởng nghệ sĩ của Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng. Bà cho biết lý do từ chối vì, ông Nguyễn Tấn Dũng “đang làm nghèo đất nước, làm khổ nhân dân.”
Bà Kim Chi cũng đã tham gia nhiều cuộc xuống đường đòi dân chủ, tự do và ủng hộ dân oan chống cưỡng chế đất đai, đòi bồi thường công bằng. Bà luôn luôn sát cánh trong hàng ngũ trí thức và thanh niên tranh đấu cho quyền tự do báo chí, tự do tư tưởng và chống Trung Quốc xâm lược biển đảo Việt Nam.
Như vậy, khi Bà lên tiếng chỉ trích và tố cáo đảng đã lừa dối nhân dân, phản bội xướng máu của những người Việt đã hy sinh bảo vệ Tổ quốc chống quân Trung Cộng xâm lược thì hẳn nhiên không phải là chuyện bình thường.
Bà giãi bầy tâm trạng thất vọng của mình trong bài viết ngày 23/04/2015 vào dịp 40 năm ngày 30/04/1975: “Mấy năm qua, mỗi lần 30/4 tôi mất hẳn trạng thái cảm giác hạnh phúc, tự hào như những năm trước đây. Tôi buồn vì niềm tin trong tôi hoàn toàn đổ vỡ. Nghĩ lại, nhận rõ và xác thực hơn: Những năm bom đạn ‘đi theo lý tưởng’ thì quả là “lớn rồi mà như ngây thơ”. Tôi cũng như biết bao đồng đội đã ‘ngây thơ’….”
“…Đúng thế, dần dần tôi nhận ra lời tuyên bố hùng hồn của đảng CS ngày ấy nay như không hồn! Những điều nói và làm khác biệt, làm ngược với nói như thế, dân Nam bộ chúng tôi đã đúc rút: “Nói dzậy mà hổng phải dzậy”. Thực tế đời sống chính trị-xã hội đã khác hoàn toàn những điều tôi hằng tâm niệm, một sự giả dối mà họ không dễ tự nhận biết, không dễ sám hối!...”
Rồi Bà kể ra tội lỗi của đảng: “Trong cương lĩnh đảng CSVN tuyên bố “người cày có ruộng”. Vì lẽ đó nên con em nông dân đi lính đông nhất khi đất nước có chiến tranh. Ở nông thôn miền Bắc VN đóng góp quá nhiều máu xương cho những cuộc chiến. Vậy mà cho đến hôm nay có rất nhiều gia đình vẫn đói nghèo vì bị cướp đất cho những dự án. Có còn xứ sở nào nhiều dân oan như ở VN không? Hiến pháp VN không công nhận quyền tư hữu ruộng đất là cố tình để những nhóm lợi ích tước đoạt ruộng đất của nông dân….”
Đối với hành động lấn đất, chiếm biển Việt Nam của Trung Quốc, Bà gay gắt lên án: “Lãnh đạo VN sợ Trung Quốc đến nỗi cho đục bỏ cả tên tuổi của các chiến sĩ khắc trên bia đá ở biên giới. Tàn nhẫn hơn là mỗi lần anh em chúng tôi tố chức những cuộc tưởng niệm các chiến sĩ đã hi sinh ở Gạc Ma, ở Hoàng Sa, ở biên giới đều bị đám côn đồ và dư luận viên quấy phá, chửi bới tục tĩu. Mọi người đều thừa biết nếu không có đảng và công an đứng phía sau thì bố bảo bọn giặc ấy cũng không dám láo xược như thế.”
Vì vậy, đối với Nghệ sĩ người miền Nam như Kim Chi thì: “Đã 40 năm “giải phóng miền Nam” nhưng với người miền Nam thì từ “giải phóng” đầy mỉa mai. Miền Nam trước đây được biệt danh là “hòn ngọc viễn đông”. Nhưng “giải phóng” vô thì họ mất nhà cửa, tiền bạc. Rồi chồng con bị tù đầy… Mất tất cả nên hàng triệu người miền Nam buộc phải trở thành thuyền nhân. Đã hàng ngàn người chết trôi, làm mồi cho cá mập. Những kẻ chiến thắng đã cư xử với người thua cuộc tàn bạo một cách tiểu nhân. Khi nhân ra được sự tồi tệ này tôi thấy vô cùng đau đớn.”
Bà nói thẳng vào mặt lãnh đạo: “Với tôi bây giờ 30/4 không phải là giải phóng miền Nam. Miền Nam trước đây là mơ ước của Thái Lan, của Singapore. Vậy mà bây giờ VN ta tụt sau họ hằng thế kỷ. Miền Nam là vựa lúa xuất khẩu đi các nước. Vậy mà sau 30/4 một thời gian thì các nhà lãnh đạo đã khiến cho cả nước phải ăn độn khoai, sắn, ngô. Cảnh cấm chợ ngăn sông ngày ấy đã dẫn tới cảnh thiếu từng con khô, chai nước mắm…

Bây giờ mỗi lần 30/4, tâm trạng tôi rất đau đớn, vì niềm tin vào đảng CSVN và chế độ XHCN hoàn toàn đổ vỡ. Nỗi đau buồn không diễn tả được bằng lời.”
Nghệ sĩ nổi tiếng Kim Chi không ngại nhìn nhận Bà và những đồng đội người miền Nam của Bà đã “ngây thơ” nên bây giờ Bà mới đau buồn như thế.
Nhưng đâu phải chỉ có một mình Bà buồn mà nỗi buồn, nỗi oan khiên do người Cộng sản gây ra đã đổ lên đầu đại đa số trên 90 triệu dân, ngoại trừ những kẻ có chức có quyền và các nhóm lợi ích đang không ngừng tự mãn hưởng thụ trên xương máu của cả dân tộc.
Hãy nghe Đạo diễn điện ảnh Song Chi, người đã rời Việt Nam sống tị nạn chính trị ở Đan Mạch lên án: “Mỗi lần 30 tháng Tư về là một dịp để nhà cầm quyền tìm mọi cách nhắc nhở với người dân những “chiến công” lẫy lừng đánh cho Mỹ cút ngụy nhào, thống nhất đất nước của đảng cộng sản. Khi thực tế VN hôm nay về mọi mặt từ kinh tế, chính trị, văn hóa, giáo dục, chất lượng sống của người dân… đều tụt hậu quá xa ngay cả so với các nước trong khu vực, chứng tỏ sự thất bại không thể bào chữa, đổ thừa bằng bất cứ lý do nào của đảng cộng sản trong 40 năm cầm quyền sau chiến tranh, thì họ càng phải bám vào “những “chiến thắng, chiến công” trong quá khứ để tiếp tục lừa dối người dân về tính chính danh, vai trỏ không thể thay thế của đảng cộng sản.”
Bà giãi bầy tâm tư trên trang báo điện tử của Đài Á Châu Tự Do (Radio Free ASIA, RFA) ngày 21/04/2015: “Ngày càng nhiều những thành phần khác trong xã hội, từ thái độ bàng quan về chính trị, không nghĩ ngợi nhiều về cái ngày 30 tháng Tư hàng năm, thậm chí vui mừng, kiêu hãnh ban đầu do được tuyên truyền, đã dần dần mất vui, cay đắng, chua xót, thậm chí ân hận.

Họ là những người đã từng tham gia vào cuộc chiến tranh đánh lại Mỹ và miền Nam ruột thịt, đã góp phần tạo dựng nên cái chế độ này. Và khi thông tin đa chiều cũng như thực tế xã hội giúp họ thức tỉnh, để nhận ra mình bi lừa, dân tộc này bị lừa, con đường đi của đất nước dưới sự cầm quyền của đảng cộng sản đã hoàn toàn sai lầm ngay từ đầu cho đến tận bây giờ, không chỉ đã gây ra những hậu quả khủng khiếp cho đất nước, dân tộc mà còn đẩy VN bị lệ thuộc nặng nề về mọi mặt vào Trung Cộng.”
Triệt hạ dân mình
Trong khi đó, Nhà văn Võ Thị Hảo, 59 tuổi (Bà sinh năm 1956 tại Diễn Châu - Nghệ An), một người trực tính, không ưa nói thẳng vào mặt chẳng sợ hãi gì, đã viết trên BBC (Tiếng Việt) ngày 28/04/2015: "Sau bốn mươi năm, lòng người vẫn ly tán. Việt Nam vẫn ngửa tay hân hoan đón dòng tiền kiều hối bất kể nó chảy về từ nguồn nào, nhưng vẫn kỳ thị và sẵn sàng trừng trị những kiều bào và công dân bất đồng chính kiến, gán cho họ hai tội "diễn biến hòa bình" và "phản động".

Cùng tiến theo mức độ tham nhũng, mức độ vi phạm tự do và nhân quyền, với nạn công an giết dân ngay tại trụ sở công quyền ngày càng tăng, là những cuộc đại lễ kỷ niệm 30/4 thêm khoa trương tốn kém.”
Rồi Bà hỏi mọi người: "Là người Việt Nam có lương tâm, lẽ nào không biết đến nước mắt và máu của đồng bào mình trên một nửa trái tim Việt đã đổ, đã chảy thành sông, đã pha đỏ ngầu nước biển trên con đường đi tị nạn của họ sau ngày 30/4/1975 để tìm tới tự do.

Làm sao có thể không xót xa, không tưởng nhớ, không thắp một nén nhang, một lời nói công tâm cho khoảng 250 ngàn đồng bào mình đã chết oan khốc trên biển? Có ai đặt mình vào hoàn cảnh của họ để thấu hiểu dù chỉ một phần ngàn những khốn khổ của họ?”
Ngày 30/4/1975 đối với người đứng đầu đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng là ngày đánh dấu của điều thêu dệt là "Thắng lợi vĩ đại của sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước là thắng lợi của đường lối và nghệ thuật quân sự Việt Nam dưới sự lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo của Đảng", nhưng Nhà văn Võ Thị Hảo đã có cái nhìn khác.
Bà nói: “"Tháng tư đe", "Ngày quốc hận", "Ngày Sài Gòn thất thủ", và mới nhất: "Ngày Hành trình tới Tự do" là tên gọi đối chọi nước lửa với cái tên "Ngày giải phóng miền Nam" của nhà cầm quyền Việt Nam luôn tự hào vỗ ngực.”
Tên gọi "Ngày Hành trình tới Tự do" được Quốc hội Canada chấp thuận lúc 19 giờ 15 ngày 22/04/2015 (giờ Ottawa) ghi trong Luật S-129, xác nhận “trong khắp đất nước Canada, trong mỗi năm, ngày thứ ba mươi của tháng tư được gọi là "Ngày hành trình đến Tự do" (Journey to Freedom Day).
Luật này thành công nhờ công lao của Nghị sĩ gốc Việt Ngô Thanh Hải có mục đích xác nhận hàng trăm ngàn người Việt Nam đã bỏ nước ra đi sau ngày quân Cộng sản vào Sài Gòn ngày 30/04/1975.
Luật S-129 cũng ghi nhận việc Chính phủ Canada đã cứu 600.000 thuyền nhân, trong số 300.000 người đang sống ở Canada. Đồng thời cũng nhằm để tưởng nhớ đến 250 ngàn người Việt Nam đã bỏ mình trên biển Đông hoặc là bị cướp, bị bão trên đường tìm tự do.
Vì vậy, Nhà văn Võ Thị Hảo mới hỏi mọi người Việt Nam: "Chúng ta đã làm gì khi hai triệu đồng bào mình, chỉ vì khác chính kiến, là cánh bèo trôi dạt của những thể chế chính trị, mà không còn đường sống, phải tất tưởi đứt ngàn khúc ruột, bỏ lại đằng sau tất cả những gì đời người chắt chiu và hang ổ ẩn náu cuối cùng phó thác mình cho sóng dữ?”
Rồi để trả lời cho luận điệu chối tội “không làm gì có tằm máu” sau ngày 30/04/1975, Bà viết: “Có thực sự không có tắm máu không? Máu của khoảng 250 ngàn người bỏ mạng trên biển, dù bị nước biển pha loãng nhưng cũng đủ nhuộm màu.

Sóng biển vỗ qua xương thịt của những thuyền nhân Việt Nam, từ đó biển ấy không bao giờ như cũ. Nước ấy pha máu xương người Việt trên con đường chạy trốn khỏi sự bạo tàn của chính quyền cộng sản Việt Nam. Chính quyền này nhân danh đấu tranh giai cấp và hệ tư tưởng để triệt hạ người dân của chính nước Việt.

Có đủ để phủ nhận không tắm máu sau 30/4/1975? Nếu tính những dòng máu của đồng bào Việt Nam đang rỉ rả chảy, kể cả những người bị chính quyền cộng sản Việt Nam bắt đi tù và bị chết trong tù bởi chế độ nhà tù tàn bạo và thiếu thốn?”
Cuối cùng Nhà văn nói dõng dạc: "Người Việt Nam sẽ tự động hòa hợp ngay sau khi Việt Nam giải thể chính quyền độc tài cộng sản và thay vào đó bằng một chính thể dân chủ đa nguyên, tôn trọng tự do và nhân quyền."
Nỗi đau nào lớn?
Người thứ 6, bất chấp hiểm nguy bị bắt lại đã cất cao tiếng nói lên án đảng CSVN đến từ nguyên Nhà báo Nguyễn Vũ Bình, 47 tuổi (ông sinh ngày 02/11/1968). Ông từng làm việc gần 10 năm cho Tạp chí Cộng sản, cơ quan lý luận chính trị của đảng CSVN.
Theo Bách khoa Toàn thư (mở) thì: “Ngày 02/9/2000, Ông làm đơn xin thành lập đảng Tự do - Dân chủ, đồng thời cũng làm đơn xin nghỉ việc tại Tạp chí Công Sản. Tháng 01/2001 Ông bị Tạp chí Cộng Sản buộc thôi việc. Sau đó, Ông cùng với 16 người khác đã viết một thư mở đến chính quyền kêu gọi cải cách chính trị và trả tự do cho các tù nhân chính trị. Ông cũng ủng hộ việc thành lập "Hội nhân dân giúp Đảng và Nhà nước chống tham nhũng" và trở thành thành viên sáng lập của Câu lạc bộ dân chủ cho Việt Nam.”
Ông bị bắt và bị “Tòa án Nhân dân thành phố Hà Nội vào ngày 31 tháng 12 năm 2003, tuyên án 7 năm tù giam và 3 năm quản thúc tại gia vì tội làm gián điệp.”
Ông kháng án nhưng “ngày 5 tháng 5 năm 2004, tòa phúc thẩm Tòa án Nhân dân Tối cao tại Hà Nội vẫn quyết định giữ nguyên bản án. Tại cuối phiên kháng án thất bại của mình, Nguyễn Vũ Bình tuyên bố: "Đối với tôi, tự do hay là chết",
“Các tổ chức quốc tế như Ký giả Không Biên giới , Quan sát Nhân quyền, Ủy ban Bảo vệ Các nhà báo, World Association of Newspapers , và Diễn đàn Biên tập viên Thế giới, đại diện 18.000 tờ báo trên 100 quốc gia và Chính phủ Hoa Kỳ đã đồng loạt lên án phiên xử.

Vào ngày 9 tháng 6 năm 2007, ông được nhà cầm quyền thả tự do từ nhà tù Ba Sao ở tỉnh Nam Hà.”
Với thất bại của chính bản thân không được nói tự do và hoạt động dân chủ như đảng tuyên truyền, ông Nguyễn Vũ Bình đã nhìn ra sự thật của điều được gọi là “giải phóng miến Nam, thống nhất đất nước” của ngày 30/04/1975 như thế này: 

“Người ta đã nói nhiều tới nỗi đau của người dân miền Nam sau biến cố 30/4/1975 này, và đó là những sự thật hiển nhiên. Một quốc gia (Việt Nam Cộng Hòa), với chính nghĩa sáng ngời, tinh thần nhân bản đã bị cưỡng chiếm một cách đau đớn, tức tưởi. Từ sự kiện này, hàng triệu quân, dân, cán, chính của Việt Nam Cộng Hòa đã phải vào các trại cải tạo, lao tù. Hàng chục vạn người đã phải bỏ nước ra đi, vượt biên vì không thể sống nổi trên quê hương. Hàng chục ngàn người đã nằm trong bụng cá và dưới đáy biển sâu… đó là số phận, là nỗi đau của bên thua cuộc.”
Ông Bình nói tiếp không ngại ngùng: “Tuy nhiên, ngoại trừ sự thất bại của cuộc chiến tranh (có nguyên nhân quan trọng từ việc đồng minh Mỹ bỏ rơi) mà người dân miền Nam ít nhiều có trách nhiệm, thì những nỗi đau khác, sự thống khổ, bi ai của người dân miền Nam là kết quả của những chính sách thâm độc, hiểm ác và tàn bạo của chế độ cộng sản.”
Như vậy, thực tế ngày nay Việt Nam sau 40 năm đảng thống trị cả nước, có tốt đẹp hơn ngàn lần hơn như giấc mơ của ông Hồ Chí Minh?
Nhà báo Nguyễn Vũ Bình trả lời: "Sau 30/4/75, đất nước sạch bóng quân thù, cả nước tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội… một sự vỡ mộng, bẽ bàng khủng khiếp từ từ xâm lấn tâm hồn bên thắng cuộc. Với độ lùi 40 năm sau ngày 30/4 đó, tất cả đã hiển hiện, bức tranh toàn cảnh của Việt Nam dưới sự lãnh đạo tài tình của đảng cộng sản: Sự toàn vẹn lãnh thổ không còn, đất đai, hải đảo, lãnh hải bị mất và xâm phạm nghiêm trọng; nợ gấp đôi GDP (Gross Domestic Product, tổng sản lượng quốc gia) và không có khả năng thanh toán; đạo đức, nền tảng xã hội bị băng hoại và phá hủy hoàn toàn; sự dồn nén cùng cực của tất cả mọi tầng lớp nhân dân… đây phải chăng là kết quả của niềm vui chiến thắng?”
Trước sự thật phũ phàng như thế, ông Bình đặt nghi vấn: “Còn nỗi đau nào lớn hơn khi ngay từ những năm 14-15 tuổi làm liên lạc viên cho Việt Minh, cả cuộc đời cống hiến, lên tới chức vụ trưởng, thứ trưởng, bộ trưởng… khi đã về hưu, khi sự thật được phơi bày mới biết rằng mình đã bị lừa, những điều mình làm không hề đem lại điều tốt đẹp cho nhân dân, đất nước mà còn góp phần gây ra thảm họa cho dân tộc, cho nhân dân, cho đất nước.

Vậy thì, nỗi đau nào lớn hơn?”
Tất nhiên không có sự hành hạ thể xác nào, dù có trăm cay nghìn đắng, cũng không bằng một chiếc kim xuyên thấu tâm gan giả dối của chính bản thân người cán bộ vì đã nhân danh “giải phóng” để lường gạt Tổ quốc và đồng bào mình trong cuộc chiến huynh đệ tương tàn.
Hàng chục ngàn dân đã bỏ vùng Việt Minh kiểm soát ở miền Bắc hồi cư về thành phố trước năm 1954. Trên 1 triệu người miền Bắc đã bỏ mồ mả cha ông để di cư vào miền Nam (Việt Nam Cộng hòa sau này) sau Hiệp định Geneve chia đôi Việt Nam ngày 20/07/1954.
Và đến khi quân Cộng sản vào Sài Gòn ngày 30/04/1975 cho đến thập niên 1980, trên 2 triệu người miền Nam đã phải chạy trốn Cộng sản ra nước ngoài, dù phải đổi mạng sống để được tự do.
Trong đợt bỏ nước ra đi lần này, ít nhất cũng đã có khoảng 250.000 người Việt Nam được gọi là “thuyền nhân” bỏ mình trên biển cả, trong số họ có cả những xác Phụ nữ bị hải tặc hãm hiếp.
Vậy ai đã gây ra thảm cảnh này cho dân tộc, nếu không phải là người Cộng sản đã gây ra cuộc nội chiến và xâm lăng Việt Nam Cộng hòa dưới chiêu bài “giải phóng”?
Nhưng người Việt Nam đâu đã hết bỏ nước ra đi, tại sao?
Hãy nghe Nhà Trí thức dân chủ Vũ Cao Đàm báo động trên mạng báo Bauxite Việt Nam ngày 22/04/2015: “Trên thực tế, có lẽ các nhà lãnh đạo cũng phải suy nghĩ, vì sao dân lại cứ thích bỏ đi mãi thế. Mà dân bỏ chỉ theo một dòng muốn thoát khỏi thể chế cộng sản. Không thấy có dòng ngược lại?

Trong số những người dân bỏ nước ra đi không chỉ có quân cán chính và công dân Việt Nam Cộng hòa, mà cả những người là công dân của chế độ xã hội chủ nghĩa, không chỉ có các doanh gia, mà có cả dân thường, có cả con em các tướng tá và quan chức cao cấp của chế độ.

Chẳng lẽ dân “thoái hóa” hết rồi sao?

Chẳng lẽ các tướng tá và quan chức cao cấp của chế độ cùng con cái của họ cũng “thoái hóa” hết rồi sao?

Chẳng lẽ, trừ mấy ông bà giáo sư tiến sĩ trong Hội đồng Lý luận Trung ương, còn lại, dân Việt Nam ngu đến mức không thấy được chủ nghĩa cộng sản là “đỉnh cao trí tuệ” và “thiên đường của nhân loại” hay sao?
Câu hỏi mỉa mai của ông Vũ Cao Đàm không phải là chuyện nhỏ mà là tiếng chuông báo động số phận đảng sắp đến hồi cáo chung.
Vì vậy, muốn con dân nước Việt ở nước ngoài trở về xây dựng quê hương; muốn người dân trong nước đoàn kết cùng nhau xóa bỏ hận thù không do mình gây ra; và để bảo vệ giống nòi, giữ vững giang sơn gấm vóc khỏi hiểm họa Trung Quốc xâm lược, chỉ có giải pháp duy nhất là: Đảng phải rút cho dân hồi cư. -/-
(30/04/2015)