20/01/2015
Rất đáng tri ân, rất đáng hãnh diện
Ngô Nhân Dụng
Biết
ơn người làm ơn cho mình là truyền thống văn hóa, đạo đức không phải
chỉ có ở người Việt. Và vô ơn bạc nghĩa với người làm ơn cho mình cũng
không phải là thói xấu riêng của người Việt. Cả hai phẩm chất trên đều
mang tính nhân loại. Nói cách khác, nó giống như một thứ “nhân chi sơ
tính bản thiện” nằm trong thuộc tính nhân bản của mỗi con người bất kể
màu da, ngôn ngữ, hay vùng miền văn hóa. Vấn đề là, vậy thì tại làm sao
một thứ tài sản tinh thần quý giá như thế mà bị cả một cộng đồng dân tộc
chối bỏ trong một thời gian dài? Xin thưa, bởi vì “lòng biết ơn” ấy đã
được “giai cấp hóa”. Vâng! Một khi những giá trị tinh thần như tình yêu
thương, lòng nhân ái, lòng biết ơn mang tính giai cấp thì tất yếu phải
thực hiện phương châm “đấu tranh giai cấp”. Mà “đấu tranh giai cấp” luôn
song hành với “chuyên chính vô sản”. Nội hàm của những từ ngữ này bị
biến dạng. khái niệm bị đánh tráo, cuối cùng, chúng chỉ còn cái vỏ rỗng.
Không một người Việt Nam có đầu óc bình thường, nghĩa là không mắc bệnh
tâm thần, dù ở dạng chập cheng nhẹ, lại cảm thấy hứng thú khi được tiếp
xúc với thứ vỏ rỗng văn hóa, đạo đức. Vì đó là đồ giả, đồ ngụy tạo,
được hình thành, nuôi dưỡng bởi thứ tà thuyết đã có một thời làm mê hoặc
một bộ phận nhân loại.
Dễ
hiểu là, thứ tà thuyết ấy có hại như thế nào. Với dân tộc Việt, nó là
cú đòn chí mạng đánh vào tâm thức mỗi người. Nó như một loại độc dược,
lỡ uống vào, sẽ làm ta quên đi mình vốn là con người, để rồi vô tình
nhắm mắt làm những việc không phải của con người, trong đó có sự vô ơn
bạc nghĩa.
Bài
viết của nhà nghiên cứu Ngô Nhân Dụng đã nêu đúng hiện trạng trên với
những dẫn chứng đầy sức thuyết phục. Chẳng những thế, ông còn thẳng thắn
chỉ ra nguyên nhân dẫn đến hệ lụy trên. Có điều băn khoăn là, hình như
nhà nghiên cứu lạc quan hơi sớm. Chúng ta hãy chờ xem, không phải với
mỗi người dân, mà là các bậc “đỉnh cao trí tuệ” đang thay mặt “Thiên
triều”, “thế thiên hành đạo” ứng xử ra sao không chỉ với các anh hùng
liệt sĩ trong các trận hải chiến Hoàng Sa và Trường Sa, mà còn với cả
những anh hùng liệt sĩ trong cuộc chiến biên giới đẫm máu giữa hai người
anh em cùng ý thức hệ tháng hai năm 1979…
Bauxite Việt Nam
|
Chúng
ta đã được thấy nhiều lần những dòng chữ này: “Cảm ơn anh, người thương
binh Việt Nam Cộng hòa”. Nhưng lần đầu tiên thấy những hàng chữ đó
trong một hội trường ở ngay trong thành phố Sài Gòn, ta phải rưng rưng
cảm động. Lần đầu tiên, sau 40 năm!
Tu viện Dòng
Chúa cứu thế Sài Gòn đã thực hiện được một việc chưa người nào làm
được, dù ai cũng muốn làm: Bày tỏ lòng tri ân các thương binh Việt Nam
Cộng hòa. Có cả quý vị đại diện của Giáo hội Phật giáo thống nhất, Giáo
hội Cao Đài, họ thay mặt tất cả những người đã sống ở miền Nam trước năm
1975, thay mặt cho cả những người dân miền Nam đang sống ở nước ngoài.
Có thể thấy như một cuộc họp mặt gia đình. Gia đình nào ở miền Nam hầu
như cũng đóng góp ít nhất một người trong danh sách những chiến sĩ đáng
được tri ân, người còn sống cũng như đã qua đời. Ðại gia đình dân miền
Nam đã cùng trải qua một hoạn nạn, hoạn nạn chung của đất nước, đã cùng
chịu đựng một cuộc sống đau khổ, nhưng giờ đây cũng đang chia sẻ với
nhau cùng một nỗi vui mừng và hy vọng.
Linh mục
Phạm Trung Thành đã nói giúp chúng ta: “... những lời tri ân gửi đến các
anh, những người đã hy sinh vì tự do, hòa bình, cho người dân miền
Nam”. Những lời đó, suốt 40 năm qua, chúng ta đã nói thầm, cho một mình
nghe. Một ngàn anh chị em thương binh, từ Phú Yên, Khánh Hòa, Đak Lak
cho tới Bình Dương, Sóc Trăng họp mặt tại Dòng Chúa cứu thế. Linh mục
giám tỉnh Dòng Chúa cứu thế chuyển tới anh em “sứ điệp yêu thương, hòa
bình và bác ái”. Ý nghĩa rõ ràng: Tri ân các thương binh miền Nam vì yêu
thương, vì hòa bình, không phải để nuôi hờn oán, gây thù hận với anh em
bộ đội miền Bắc. Nhưng đằng sau những nét mặt, nụ cười của các thương
binh, chúng ta thấy hình ảnh của cả triệu người đã mang sắc phục quân
đội, nghĩa quân, cảnh sát Việt Nam Cộng hòa. Nhìn những khuôn mặt tươi
cười rạng rỡ của anh chị em thương binh và nghe những lời tri ân trong
hai buổi họp mặt, chúng ta có thể chia sẻ niềm vui và hãnh diện của họ.
Họ đều xứng đáng được tri ân. Họ đều đáng được hãnh diện. Gia đình, con
cháu họ đều xứng đáng được tri ân và hãnh diện.
Ðiều
đáng hãnh diện thứ nhất, là cuộc chiến đấu mà họ theo đuổi, cuộc chiến
đấu khiến nhiều người phải hy sinh mạng sống, cuối cùng đã được lịch sử
chứng minh là chính đáng. Vì vậy cho nên, người dân bình thường muốn bày
tỏ lòng biết ơn, dù phải đợi 40 năm. Trong đó có cả các người dân miền
Nam chưa đầy 40 tuổi. Khi Linh mục Phạm Trung Thành thay mặt chúng ta ca
ngợi các chiến sĩ đã “hy sinh vì tự do”, những từ ngữ trừu tượng như
“tự do”, “hy sinh” đều hiện lên thành sự thật, cụ thể, đã được chiêm
nghiệm. Chỉ khi không còn được tự do, người dân miền Nam mới thấy mình
đã mất quá nhiều thứ đáng quý.
Thí dụ khi bị
đuổi khỏi ngôi nhà mình ở, đồ đạc trong nhà bị chiếm đoạt, phải kéo nhau
đi “kinh tế mới” rồi về sống dưới gầm cầu, trên lề đường, trong xó chợ,
người dân miền Nam mới hiểu rằng trước đây mình được sống yên ổn chính
vì nhờ những người lính đã hy sinh để cho mình được sống. Cũng như khi
phải hồi hộp lo lắng suốt 24 giờ không biết lúc nào công an sẽ đột nhập
nhà mình lục soát từ trên xuống dưới. Như khi phải nộp tiền thì con cái
mới được vào trường công lập, từ bậc tiểu học. Khi vào bệnh viện công
gọi là “nhà thương thí” vẫn phải đút lót mới được dùng bông, dùng kim
chích. Hay khi nhìn đám thiếu nữ cùng tuổi con gái mình phải bày hàng
trong khách sạn cho đàn ông Ðài Loan, Trung Quốc, Hàn Quốc ngắm nghía,
cò kè bớt một thêm hai. Hay khi ruộng đất của mình bị chiếm đoạt để sang
tay cho bọn tư bản đỏ, phải tự đốt mình, hoặc tự cởi truồng ra phản
kháng, v.v… Những lúc đó, người dân miền Nam mới nhớ tiếc những ngày xa
xưa cuộc sống của mình còn được những người lính Cộng hòa bảo vệ. Những
thứ nhỏ hay lớn, mà người dân miền Nam được hưởng trước năm 1975, khi
mất đi đều thấy là đáng quý. Vì tất cả đều được hưởng như những quyền
sống tự nhiên. Ðó là quyền sống có phẩm giá. Những thứ kể trên cộng lại
chính là phẩm giá con người, trước năm 1975 phẩm giá của mình được kính
trọng nhờ những người lính Cộng hòa bảo vệ. Trước năm 1975, đồng bào
chúng ta ở miền Bắc không biết những thứ người miền Nam được hưởng. Họ
không được tự do thông tin, họ bị bưng bít. Họ bị lừa gạt. Nhưng sau
1975, ai có dịp so sánh cũng nhận ra sự thật, từ Dương Thu Hương tới Tô
Hải, Trần Ðĩnh… Cho nên, bây giờ nhớ lại, người dân miền Nam muốn đứng
ra làm nhân chứng, muốn nói dõng dạc, rằng những người lính Cộng hòa rất
đáng được tri ân. Họ rất đáng hãnh diện.
Niềm
hãnh diện còn lớn lao hơn nữa vì được lịch sử cả loài người làm chứng,
từ năm 1989. Bức tường Berlin sụp đổ khiến bộ mặt thật của chế độ Cộng
sản trên toàn thế giới bị lộ ra. Ðó là một chế độ thất bại hoàn toàn về
kinh tế, một chế độ chính trị độc tài man rợ, chỉ đứng vững được vì bắt
dân sống trong tối tăm, dốt nát, và ngày đêm bị công an đe dọa. Chính
người dân sống trong các nước Cộng sản, cả hàng ngũ lãnh đạo tại các
nước đó, đã đứng lên xóa bỏ chế độ vừa bất nhân vừa bất lực này. Các
cuộc cách mạng nhung đó chứng tỏ công chiến đấu, hy sinh của những người
lính Cộng hòa thực là chính đáng. Những ai đã đổ máu để ngăn cản không
cho chế độ Cộng sản bành trướng đều đáng được vinh danh. Tất cả các
chiến sĩ Cộng hòa, những người còn sống, người bị thương, và những người
đã chết, đã giúp người dân miền Nam được ít nhất 20 năm không phải sống
dưới ách độc tài Cộng sản. Nhờ thế, sau năm 1975, đồng bào ngoài Bắc
mới có dịp nhìn và so sánh. Và nếp sống thuần hậu được giữ gìn tại miền
Nam mới còn để lan tràn, đến khi đồng bào miền Bắc cũng biết nói “xin
lỗi”, nói “cảm ơn,” nói “dễ thương”.
Nhưng bây
giờ không phải là lúc nhìn lại quá khứ để than tiếc dân tộc mình không
may mắn như dân Ðông Ðức, dân Nam Hàn. Bốn mươi năm đủ dài để chúng ta
có thể quên quá khứ, xóa bỏ những tình cảm mị hoặc chia rẽ lòng người.
Như anh Hoàng Văn Ðiểm, cựu thiếu úy Thủy quân lục chiến nói trong buổi
lễ Tri ân tại Dòng Chúa cứu thế vừa qua: “Sau 40 năm tôi ước ao nhà nước
đừng chia rẽ lính Việt Nam Cộng hòa và lính Cộng sản; vì chúng ta đều
là dân Việt Nam”.
Thực ra, cái gì đã chia rẽ dân
Việt Nam? Ðó là một chủ nghĩa mà năm 1989 đã bị loài người vạch mặt giả
trá. Ðảng Cộng sản Việt Nam đã “học tập” Stalin, Mao Trạch Ðông, gieo
rắc hận thù, chia rẽ dân Việt hơn 80 năm qua. Bây giờ mọi người Việt Nam
có thể cùng ngẩng đầu lên, nhìn rõ mặt nhau, hướng về tương lai, nhận
rõ đâu là kẻ thù nguy hiểm nhất cho dân tộc. Ðó là đế quốc Trung Hoa đỏ,
đeo cái mặt nạ chủ nghĩa Cộng sản. Chúng ta phải đoàn kết chống lại kẻ
thù chung đó.
Những thương binh Việt Nam Cộng
hòa đáng được tri ân. Nhưng điều quan trọng hơn là chúng ta phải tiếp
tục công việc mà họ đã phải bỏ nửa chừng, từ năm 1975. Phải thực hiện
mục tiêu mà họ đã theo đuổi; là xây dựng một nước Việt Nam tự do dân
chủ. Cuộc chiến tranh đã khiến hai triệu người Việt chết, trong đó có
những người lính miền Nam cũng như các bộ đội miền Bắc. Chúng ta, những
người còn sống, ở miền Bắc cũng như miền Nam, chẳng những mang nợ với
các liệt sĩ đó, mà còn mang nợ hương linh các đồng bào đã chết vì bom
đạn vô tình, hay khi vượt biển tìm tự do. Nói như Abraham Lincoln, tại
nghĩa trang Gettysburg ngày 19 tháng 11 năm 1863: “Chúng ta phải quyết
tâm làm sao cho những người đã chết không phải ngậm ngùi thấy mình chết
vô ích” (That these dead shall not have died in vain).
Bốn
mươi năm sau khi chiến tranh chấm dứt, nếu dân tộc Việt Nam vẫn chưa
được sống tự do dân chủ, chúng ta vẫn còn mang mối nợ lớn với những
người đã chết. Nếu nước Việt Nam vẫn còn nghèo nàn, lạc hậu, thua kém cả
Miến Ðiện tới Campuchia, chúng ta vẫn chưa làm tròn nhiệm vụ của mình.
Nếu quân Cộng sản Trung Hoa còn tung hoành từ Vịnh Bắc Việt tới đáy Biển
Ðông, coi tổ tiên dân Việt không có chút chủ quyền nào, thì những chiến
sĩ đã chết suốt 15 năm chiến tranh, đã chết trong trận Hoàng Sa năm
1974, trận Gạc Ma năm 1988, họ vẫn còn ôm “mối hận ngàn thu”.
Sau
buổi lễ tri ân ở Dòng Chúa cứu thế tuần qua, cuối tuần này chúng ta
phải làm lễ tưởng niệm các chiến sĩ Việt Nam đã hy sinh bảo vệ Hoàng Sa
ngày 19 tháng 1 năm 1974. Ðồng thời, phải truy điệu các chiến sĩ Việt
Nam đã hy sinh khi quân Trung Cộng cướp Trường Sa năm 1988. Tất cả những
người khi chết còn nghĩ mình đang chiến đấu cho dân tộc Việt Nam, đều
đáng được tri ân. Những người đã chết sẽ giúp người còn sống tìm đến
nhau, thương yêu, đoàn kết với nhau. Một giọt máu đào hơn ao nước lã, kể
cả thứ nước lã “16 chữ vàng”.
Có thể nhắc lại
tiếp những lời Abraham Lincoln, sau khi nguyện “không để một ai chết
uổng”, ông nói tiếp: “Chúng ta phải quyết tâm sao cho đất nước này...
được phục sinh trong tự do - và cho chính quyền của dân, do dân, vì dân,
không tiêu tan trên trái đất” (That this nation, under God, shall have a
new birth of freedom - and that government of the people, by the
people, for the people, shall not perish from the earth). Với lời nguyện
này, chúng ta tỏ lòng tri ân những chiến sĩ đã hy sinh. Sẽ đến ngày
nước Việt Nam được phục sinh trong tự do. Theo gương Nguyễn Trãi, lúc đó
chúng ta có thể lại công bố: Hận ngàn thu rửa sạch làu làu!
N.N.D.
Ngày gặp mặt thương phế binh VNCH đầu năm
VRNs (12.01.2015) – Sài Gòn – Hôm nay 12.1, đã diễn ra buổi gặp mặt và phát quà cho hơn 1000 thương phế binh VNCH tại Trung Tâm Mục Vụ thuộc DCCT Sài Gòn.
Buổi gặp mặt có sự hiện diện của cha Vinhsơn Phạm Trung Thành, Giám tỉnh DCCT, và một số linh mục trong Dòng. Ngoài ra còn có quý chức sắc trong Hội Đồng Liên Tôn Việt Nam, như Hòa Thượng Thích Không Tánh, Mục sư Nguyễn Hoàng Hoa, Nguyễn Mạnh Hùng, Lê Quang Du và Chánh Trị Sự Hứa Phi, Bạch Phụng, Nguyễn Kim Lân đại diện cho Cao Đài Chơn Truyền.
Một số quý ân nhân và hơn 50 anh chị em tình nguyện viên thuộc các nhóm khác nhau tham gia làm công việc tiếp đón, hướng dẫn trong buổi gặp mặt.
Ngày họp mặt diễn ra với nhiều hoạt động như giao lưu văn nghệ, phát quà.
Ngày gặp mặt được chia thành hai buổi, sáng và chiều. Buổi gặp mặt ban sáng có khoảng trên 700 ông thương phế binh VNCH, và buồi chiều có khoảng trên 300.
Các tình nguyện viên trợ giúp các ông thương phế binh không tự mình đi lại được
Với số lượng các ông thương phế binh khá đông nên việc dò tên mất khá nhiều thời gian. Mỗi ông thương phế binh có thẻ đeo với thông tin, họ tên và số quân
Các tình nguyện viên mặc áo và đội nón đồng phục. Hơn 50 tình nguyện viên đã tham gia phục vụ trong ngày gặp mặt này.
Các tình nguyện viên phục vụ hết mình: hướng dẫn, đẩy xe lăn, cõng quý ông trên lưng…để giúp các ông lên hội trường tham gia buổi gặp mặt.
Toàn cảnh hội trường, nơi diễn ra buổi họp mặt ban sáng và chiều ngày hôm nay. Ngày gặp mặ được chia thành hai buổi, ban sáng có hơn 700 ông, buổi chiều hơn 500 ông.
Quý chức sắc trong Hội Đồng Liên Tôn đến tham dự buổi gặp mặt nhằm nâng đỡ tinh thần, lắng nghe và chia sẻ với quý ông thương phế binh.
Giao lưu văn nghệ, chia sẻ về đời người lính và một thời oai hùng với bao ước mơ cao đẹp cho quê hương đất nước
Được trân trọng, lắng nghe và gặp gỡ anh em đồng đội là niềm vui lớn nhất trong ngày gặp mặt
Cha Vinhsơn Phạm Trung Thành, Giám Tỉnh DCCT, người trực tiếp tổ chức, điều hành buổi gặp mặt phát các phần quà cho các ông thương phế binh. Mỗi phần quà gồm 1 triệu đồng Việt Nam (~$50USD) và một phần bánh. Số tiền này từ lòng quý mến của nhiều cá nhân đối với người lính VNCH.
Mục sư Hoàng Hoa trao phần quà cho các ông thương phế binh
VRNs