Từ Những Bài Học Đắt Giá Của Lịch Sử Cận Đại Đến Những Triển Vọng Của Tương Lai
Tháng 8 năm 1945, đệ nhị Thế chiến hoàn toàn chấm dứt
từ Âu sang Á. Cuộc chiến ác liệt kéo dài năm năm cùng với những hành động có
tính cách diệt chủng đã để lại không kể xiết điêu tàn tang tóc.
Nhiều đô thị và trung tâm chiến lược ở Đức, Nga Sô và
Nhật Bản đã trở thành những bãi chiến trường đổ nát hay những cánh đồng ma quái
với cả trăm ngàn người chết cùng lúc dưới bom nguyên tử hay những trận mưa
bom. Nhưng rồi hoà bình đã đến. Nhân loại vừa thoát khỏi một cơn ác mộng
dài thở phào nhẹ nhỏm. Một bình minh rạng rỡ đang dâng lên chan hòa muôn ánh
hào quang và hy vọng như bừng sống lại khắp nơi. Ngoại trừ một chổ: Việt Nam,
nơi sự bất hạnh dồn tụ lại như bao nhiêu tảng mây đen cùng nhau kéo đến che phủ
một góc trời. Một nước Việt Nam trước đấy gần như đứng ngoài cuộc chiến. Thật vậy, dù ác chiến diễn ra trên Thái Bính Dương
giữa Mỹ, Nhật, Đông Dương vẫn tương đối được yên ổn với thỉnh thoảng vài vụ
oanh tạc nhỏ của Không lực Hoa Kỳ vào các vị trì và đường giao thông bị nghi
ngờ có quân đội Nhật qua lại. Nay, giữa tháng tám 1945, Nhật Bản
vừa đầu hàng, chiến tranh thế giới hoàn toàn chấm dứt thì Việt Nam lại lên cơn
sốt dữ dội.. Toàn thân rung động vì chưa hồi phục được sau một nạn đói, chết
hơn cả triệu người ở Miền Bắc của đất nước. Một cơn sốt chính trị chưa từng xảy
ra vì cho đến bấy giờ dân Việt chưa có lúc nào được quyết định số phận của mình
trong suốt tám mươi năm dưới sự đô hộ của Pháp. Tháng tám 1945, cuộc nội
chiến Việt Nam bắt đầu. Cuộc nội chiến giữa hai phe quốc cọng với cả khối Công
sản quốc tế lần lượt đứng sau lưng cộng sản Việt Nam như một hậu cứ vũng chắc
và bền bỉ trong lúc vài nước Tây phương đứng đầu là Hoa Kỳ hổ trợ phe quốc gia
chiến đấu để bảo vệ tự do cho dân tộc Việt Nam chống lại sự bành trướng của Đế
quốc đỏ bằng bạo lực của một cuộc xâm lăng công khai và trực diện. Ba
mươi năm sau, đúng ngày 30 tháng tư 1975, cuộc nội chiến chấm dứt trên bình
diện quân sự. Cộng sản hoàn tất cuộc xâm lăng Miền Nam, thực hiện mục tiêu bá
chủ nước Việt Nam, khống chế cả bán đảo Đông Dương. Cũng đúng
ba mươi năm sau ngày thôn tính Miền Nam, cộng sản Việt Nam «trân quý» hơn bao
giờ cả những người Việt quốc gia ở hải ngọai, những «khúc ruột ở xa ngàn dặm»
đã đổ tiền về để cứu giúp đồng bào và quê hương nghèo khổ, có lúc gần suy sụp
dưới sự thống trị của họ. Những Việt kiều ở nước ngoài mà những năm trước
đây họ còn xem như thù địch và gán cho đủ mọi danh từ xấu xa nhất trong kho
tàng văn chương tuyệt vời của họ.
Ba mươi năm nội chiến quốc cọng được tiếp tục bởi ba mươi năm của một cuộc
đổi đời và cuộc «đại chiến thắng mùa Xuân 1975» đã thành công lớn lao trong sự
nghiệp. đào được một cái hố sâu thăm thẳm để chôn vùi tương lai của cả dân
tộc. Không thể nào làm khác hơn, năm 1986, cộng sản buộc lòng «đổi mớỉ »
để mong thoát cảnh khốn cùng vô phương cứu chủa ngọai trừ một phương độc nhất
là chối bỏ chủ nghĩa của họ, một chủ nghĩa mà họ đã thờ phụng và không ngần
ngại hy sinh xương máu của đồng bào để phục vụ cho đến khi mộng vỡ tan tành.
Phương độc nhất ấy là chạy theo kẻ cựu thù đế quốc tư bản, áp dụng chính sách
kinh tế thị trường của chúng nó và van xin đủ mọi thứ, khắp mọi nơi.
Không theo không được vì đây là sinh lộ cuối cùng sau khi con đường cách mạng,
bạo lực và chiến tranh kéo dài ba mươi năm mà đảng Cộng sản Việt Nam vạch ra đã
rõ ràng là một tử lộ cho toàn dân Việt. Đây là bài học lớn nhất, đắt giá
nhất, dành cho người cộng sản Việt Nam bên cạnh những bài học khác mà những
người quốc gia chúng ta cần suy nghiệm, và sau cùng, những bài học mà Hoa Kỳ
cũng như giới trí thức và ngụy trí thức tả khuynh Tây phương nên thành khẩn và
khiêm cung học hỏi để cho lịch sử đừng tái diễn, tránh được phần nào khổ đau
cho nhân loại.
I. NHỮNG BÀI HỌC CỦA LỊCH SỬ CẬN ĐẠI THEO THỨ TỰ THỜI
GIAN CỦA CÁC BIẾN CỐ TỪ 1945
A- Giai Đoạn 1945 – 1954: Từ Độc Lập Đầu Tiên Đến Chia Đôi Đất Nước
Những Nét Chính Của Tình Hình :
1- Các Biến Cố Từ gần 9 giờ tối mồng 9 tháng 3, 1945, trên toàn cõi Đông Dương, quân đội Nhật (còn gọi là quân đội Thiên Hoàng) bất ngờ tấn công cùng lúc các cơ quan đầu não của chính quyền Pháp, các cơ sở quân sự, và cuộc kháng cự của quân Pháp không kéo dài quá một ngày ngọai trừ vài cánh quân thoát được sang Trung Hoa. Ngày 10 tháng 3, đại diện Nhật Hoàng, Đặc sứ Yokohama đến loan báo cho Vua Bảo Đại quyết định của Nhật trao hoàn độc lập cho Việt Nam, tạm thời giới hạn ở Bắc và Trung Kỳ, riêng Nam Kỳ thì Nhật tạm thời kiểm soát cho đến khi hết chiến tranh. Ngày 12 tháng 3, Vua Bảo Đại trao cho đặc sứ Nhật bản tuyên cáo độc lập của nước Việt Nam. Nhà Vua nhờ nhà chức trách Nhật tìm ông Ngô Đình Diệm để mời lập chính phủ nhưng sau ba tuần lễ, đặc sứ Nhật cho biết không tìm được. Thực ra, Nhật không muốn ông Diệm làm Thủ tướng vì biết chắc ông Diệm không phải là người dễ nhượng bộ, dễ thỏa hiệp, có thể gây trỏ ngại cho họ sau này. Ngày 17 tháng 4, ông Trần Trọng Kim , thanh tra tiểu học, lập chính phủ. Ông Kim bị Pháp dọa bắt nên được Nhật đưa sang Singapour tạm trú, nay được Nhật mang về giới thiệu với Vua Bảo Đại. Đây là chính phủ đầu tiên của nước Việt Nam độc lập, qui tụ nhiều nhân vật trí thức khoa bảng như luật sư Trần văn Chương, Bộ trưởng Ngoại giao, luật sư Vũ văn Hiền, Bộ trưởng Tài chánh, luật sư Trịnh đình Thảo, Bộ trưởng Tư pháp, bác sĩ Hồ Tá Khanh, Bộ trưởng Kinh tế, Thạc sĩ Hoàng xuân Hãn, Bộ trưởng Giáo dục, luật sư Phan Anh, Bộ trưởng Thanh niên, bác sĩ Vũ Ngọc Anh, Bộ trưởng Y tế và Cứu tế Xã hội, Kỹ sư Lưu văn Lang, Bộ trưởng Công chánh, Giao thông, y sĩ Trần đình Nam, Bộ trưởng Nội vụ, y sĩ Nguyễn hũu Thí, Bộ trưởng Tiếp tế. Ngày 16 tháng 8, đặc sứ Nhật đến loan báo cho Vua Bảo Đại hay Nhật Hoàng vừa ra lệnh ngưng chiến và giao hoàn Nam Kỳ lại cho Nhà Vua. Ngày hôm sau, nhà ái quốc Nguyễn văn Sâm được Nhà Vua bổ nhiệm làm Khâm sai Nam Kỳ nhưng trên đường về Nam nhậm chức, ông đã bị cộng sản sát hại. Ngày 18, Thủ tướng Trần Trọng Kim kêu gọi các đoàn thể chính trị « đoàn kết trong tinh thần thống nhất đoàn kết quốc gia…» trong lúc Nhà Vua gửi điện văn cho các lãnh tụ các nước Đồng Minh Hoa Kỳ, Anh quốc, Pháp và Trung Hoa Dân quốc xin công nhận nước Việt Nam độc lập. Bức điện văn không được hồi âm, có lẽ vì Vua Bảo Đại và chính phủ bị Đồng Minh xem là đã hợp tác với địch (Nhật Bản). Trong suốt mấy tuần lể quyết định này, giữa lúc cộng sản dưới bảng hiệu Việt Minh họat động ráo riết, đặc biệt ở Hà Nội, chính phủ không đưa ra một biện pháp nào cụ thể để trấn an dư luận đang hoang mang tột độ, cũng không tác động tinh thần công chức và các lực lượng quân sự và cảnh sát dưới quyền, dù không hùng hậu nhưng vẫn thừa sức đối phó với tình thế, chưa kể quân đội Nhật được lệnh của Đồng Minh duy trì an ninh trật tự sẵn sàng hợp tác với chính phủ. Không có được một mạng lưới tình báo, không hay biết gì cả về những họat động của Việt Minh, Nhà Vua và chính phủ mất tinh thần một cách dễ dàng trước những tin đồn đại do Việt Minh tung ra, qua những cán bộ « võ trang tuyên truyền », võ trang thô sơ với một ít súng lục, nhiều cái rỉ rét, thỉnh thỏang bị kẹt đan không xử dụng được. Không kiểm soát được, chính phủ « thả nổỉ » tình hình, đất nước như một cánh đồng vô chủ mênh mông! Theo lời của chính cựu Hoàng Bảo Đại kể lại một cách thành thật, thỉnh thoảng rất thật thà, trong cuốn hồi ký của ông, Con Rồng An Nam (Le Dragon d’Annam) xuất bản năm 1979 tại Pháp, ngày 23 tháng 8 (1945), chính phủ biến đâu mất, để Hoàng Đế một mình trong hoàng cung với vài người cộng sự thân tín và một toán lính giữ cổng ra vào. Ngày hôm trước, viên đại tá chỉ huy quân trấn Nhật ở Huế đến báo cho Nhà Vua là y được lệnh của bộ tư lệnh Đồng Minh bảo vệ hoàng cung và « những người ở bên trong » và y đã ban hành những biện pháp an ninh, đặt các rào cản ở cuối cầu trường Tiền (chận một lối đi chính vào cửa Thượng Tứ và Thành Nội, bên trong là hoàng cung). Nhà Vua từ chối sự bảo vệ, yêu cầu tháo gỡ các rào cản và cho mở cửa ra vào Đại Nội như thường ngày, viện cớ không để cho quân đội ngoại quốc can thiệp và để tránh đổ máu của dân. Tối hôm trước, chủ sự Bưu điện Huế đến trình Nhà Vua một bức điện tín từ Hà nội gửi vào, thỉnh cầu ông vui lòng làm một cử chỉ lịch sử bằng cách trao quyền lại cho «nhân dân» nghĩa là cho người gửi điện tín ký tên một cách vô danh «Ủy ban những người yêu nước đại diện tất cả các đảng phái và tầng lớp nhân dân». Nhà Vua cho hoàng thân Vĩnh Cẩn và ông Phạm khắc Hoè đi săn tin trong thành phố, nhưng không thu lượm được tin tức nào chính xác và không biết ủy ban, tác giả của bức điện tín ở đâu ra và gồm những ai. Bơ vơ trong hoàng cung vắng lặng, Nhà Vua kể tiếp, «không biết làm gì hơn, đã vậy, tôi gửi một điệp văn trong khoảng trống như vứt một cái chai xuống biển… Tôi gởi cho Ủy ban những người yêu nước ở Hà Nội lời phúc đáp của tôi, sẵn sàng lùi bước, sẵn sàng hy sinh tất cả để thực hiện sự đoàn kết và yêu cầu các vị lãnh đạo Ủy ban đến Huế càng sớm càng tốt cho việc chuyển giao quyền hành». Cái chai của Hoàng Đế vứt xuống biển đã được vớt lên lẹ làng và chiều ngày 25 tháng 8, hai đại diện của Việt Minh, Trần Huy Liệu và Cù Huy Cận đã có mặt ở hoàng cung. Khoảng vài nghìn người, hầu hết là công chức và học sinh, được triệu tập khẩn cấp đến chứng kiến buổi lê thoái vị và trao quyền của Nhà Vua. Mới mười lăm tuổi, còn là học sinh trung học, gia đình tôi ở trong Thành Nội cách hoàng cung chỉ một trăm mét trên đường Bộ Học, sau này đổi thành Hàn Thuyên, nên tôi sớm có mặt trong đám đông tập họp trên sân cỏ rộng giữa kỳ đài đồ sộ với lá quốc kỳ treo cao lồng lộng trong gió, và cửa Ngọ Môn, cổng chính của hoàng cung, trên đó, chiều nay, một biến cố lịch sử đang xẩy ra, mở màn cho tấn thảm kịch trường thiên của dân tộc. Chít khăn vàng và bận áo vàng, Hoàng Đế Bảo Đại chính thức thoái vị trao quốc ấn tượng trưng quyền hành cho Trần huy Liệu và được Liệu mời ra Hà Nội làm Cố Vấn cho chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà chính thức ra đời một tuần lể sau, tức ngày 2 tháng 9, 1945. Thật vậy, tấn trường thiên thảm kịch của dân tộc bắt đầu tại cố đô Huế. Hai mặt đông và nam của hoàng cung, hoa phượng vỹ thơ mộng của tuổi học trò nở đầy giữu mùa hè xứ Huế, thơ mộng dịu dàng với mái tóc thề của những đàng nữ sinh nón trắng che mặt thẹn thùng như những đàng bướm trắng tung bay mổi chiều tan học. Màu đỏ thắm của hoa phượng vỹ đã phải nhường chổ cho màu đỏ máu hận thù của những lá cờ đỏ sao vàng xuất hiện ở Huế, từ nay mang trổ lại tên Thuận Hóa, cái tên mà Nhà Nguyễn đã đặt cho thành phố này từ mấy thế kỷ và nay như một sự rểu cợt hay thiếu hiểu biết, cộng sản Việt Minh lại mang ra xử dụng khi Nhà Nguyễn vừa tự chấm dứt với sự thoái vị của Nhà Vua cuối cùng, Bảo Đại. Tháng 9, 1945, quân Pháp trổ lại Việt Nam ngay tại Sài Gòn. Chiến cuộc khởi sự. Dù nước Pháp đã công bố một chính sách mới thay thế qui chế thuộc địa (statut de colonie)ở Nam Kỳ và qui chế bảo hộ (statut de protectorat) ở Bắc và Trung Kỳ bằng một qui chế tương đối tiến bộ hơn dành quyền tự trị nội bộ (autonomie interne) – không được trọn vẹn- cho các quốc gia Việt, Căm-bốt và Lào, chính sách mới này vẫn còn lạc hậu trong tình huống mới ở Việt Nam mà chính phủ và hầu hết các giới chính trị Pháp ở thủ đô Paris kể cả phe tả không thẩm định đúng mức được. Từ ngày 9 tháng 3, 1945 khi chính quyền Pháp bị quân Nhật lật đổ, không những uy quyền mà uy tín của nước Pháp cũng tiêu tan luôn. Dân chúng Việt Nam, muôn người như một, trong đầu hôm sớm mai, và nhất là sau khi Nhật Bản đầu hàng Đồng Minh , trao trả độc lập và chủ quyền hoàn toàn cho Hoàng Đế và chính phủ Việt Nam như đã kể trước, dân chúng từ Bắc đến Nam đều say sưa với niềm hãnh diện của đất nước mình, của tổ quốc mình từ nay không bị một ngoại bang nào lấn ép và khinh rẽ nữa, một tổ quốc, một quốc gia độc lập,tự chủ. Sự kiện quân đoàn viễn chinh Pháp trổ lại Việt Nam được xem như một mưu toan tái lập nền đô hộ củ. Toàn dân, không còn phân biệt xu hướng chính trị, nhất loạt đứng lên đoàn kết chống xâm lăng. Vừa thành lập xong chính phủ được đúng ba tuần lể, Việt Minh cộng sản đã hưởng được ngay cái khí thế chưa bao giờ có của mọi tầng lớp dân chúng quyết tâm đánh đuổi quân thù. Không ai còn để ý đến những chuyện khác nữa. Cuộc kháng chiến chống Pháp thực dân khởi sự từ Nam Bộ (danh xưng mới thay thế cho Nam Kỳ dưới chế độ mới) khi quân đội Pháp phối hợp với quân đội Anh -đến giải giới quân Nhật ở vùng Nam Đông Dương- bất thần xâm nhập các công sở của Ủy Ban Hành chánh Nam Bộ vào tối 22 rạng ngày 23 tháng 9, 1945. Phản ứng của phía Việt Nam hai ngày sau châm ngòi cho một cuộc chiến không tránh được giữa Pháp và Việt Nam. Đến tối 19 tháng 12 năm sau, chiến tranh lan rộng trên toàn quốc. Chính phủ Hồ Chí Minh rút vào rừng tiếp tục lãnh đạo cuộc chiến đấu. Trước đấy, ông Hồ đã ký Hiệp định sơ bộ ngày 6 tháng 3, 1946 cho phép quân đội Pháp đóng quân trên nhiều địa điểm ở Miền Bắc, đổi lại Pháp công nhận Việt Nam là một nước tự do, một thành viên của Liên bang Đông Dương (Fédération Indochinoise) và của Khối Liên Hiệp Pháp (Union Française). Thế nhưng lịch sử của cuộc chiến tranh đầu tiên ở Việt Nam, thường được gọi là Chiến tranh Đông Dương (1945-1954) không đơn giản như nhiều người nhận thấy. Tôi đã ghi chú từ đầu cuộc chiến tranh ba – mươi năm (1945-1975) là một cuộc nội chiến giữ hai phe quốc cọng.Một cuộc nội chiến giữa những người Việt theo chủ nghĩa cộng sản muốn nhuộm đỏ đất nước Việt Nam từ khi đảng Cộng sản Đông Dương được thành lập năm 1930, và những người Việt quốc gia không chấp nhận chủ nghĩa cộng sản, quyết tâm tranh đấu bảo vệ độc lập, tự do cho dân tộc. Sự tham dự của ngoại bang,Pháp,Mỹ,Tàu,Nga v.v….không làm mất tính chất nội chiến này mà chỉ mang thêm, với sự hổ trợ của ngoại bang dành cho mổi phe dài dài theo cuộc chiến, một tính chất chiến lược quốc tế, tóm gọn: cộng sản muốn bành trướng Đế quốc Đỏ xuống miền Đông Nam Á Châu với tên lính tiền phong cộng sản Việt Nam và ngược lại, Thế giới Tự do đứng đầu là Hoa Kỳ muốn ngăn chận làn sóng đỏ ở biên thùy Việt-Hoa sau khi Mao Trạch Đông đã chiếm lĩnh Trung quốc cuối năm 1949. Riêng đối với Pháp, cần phải phân tách cuộc tham chiến ở Việt Nam ra hai giai đoạn. Giai đoạn một , từ lúc trở lại Đông Dương tháng 9, 1945 cho đến giữa năm 1947 họ mong muốn bằng sức mạnh hơn là thuyết phục lôi cuốn Việt Nam vào Liên Bang Đông Dương như một nước tự trị và giai đoạn hai từ 1948 trở đi, càng ngày càng lún sâu vào cuộc chiến họ chỉ còn mong Việt Nam ở lại trong Khối Liên Hiệp Pháp với tư cách một quốc gia liên kết (Etat associé) độc lập, tự do, một công thức tương tự với «Khối thịnh vượng chung» (Commonwealth) qui tụ trên nguyên tắc tự nguyện Anh quốc và những thuộc địa cũ của Đế quốc Anh ngày trước nay đã được trao trả độc lập mà không phải trải qua một cuộc chiến tranh nào cả. Đây là một điểm hết sức quan trọng cần nhấn mạnh trong lịch sử cận đại của thế giới : sau khi Thế chiến thứ hai chấm dứt, hầu hết các nước bị trị của các đế quốc Tây phương đều được lần lượt trao trả độc lập mà không phải phí phạm xương máu, ở Á Châu như Hàn quốc, Nam Dưong, Phi-luật-Tân, Mã Lai, Tân-gia-Ba, Ấn Độ, ở Trung Cận Đông, lần lượt đến các nước Phi Châu ngoại trừ Algérie với những ly do riêng của trường hợp này, nơi mà nhiều thế hệ người Pháp đã định cư, lập nghiệp và từ hơn cả thế kỷ Pháp đã xem như một lãnh thổ, một tỉnh của họ! Đối với Việt Nam, nền độc lập đã được trao trả dù chưa toàn vẹn ngay trước cả khi chiến tranh chấm dứt và giữa tháng 8, 1945 vừa đầu hàng Đồng Minh hôm trước, hôm sau Nhật Bản giao trả nốt Nam Kỳ cho Vua và chính phủ Việt Nam như đã trình bày. Cái gọi là «cách mạng mùa thu 1945» của Cộng sản Việt Nam dưới bảng hiệu Việt Minh chỉ là một vụ đảo chính chính trị dành lấy chính quyền từ một nhà Vua và một chính phủ khiếp nhược Cuộc chiến tranh kế tiếp hoàn toàn không phải là một cuộc chiến tranh dành độc lập vì, như đã trình bày, Việt Nam đã được độc lập rồi và khi quân Pháp trở lại Đông Dương, nếu Vua Bảo Đại và chính phủ của Nhà Vua còn tồn tại, thì chắc chắn sẽ có những cuộc thương nghị rất khó khăn với Pháp nhưng chung cuộc, Việt Nam vẫn duy trì nền độc lập và rất co thể gia nhập Khối Liên Hiệp Pháp lúc bấy giờ.Tiến trìng giải thể các đế quốc Tây phương đã được các nước Đồng Minh chấp nhận trước khi thế chiến chấm dứt và nước đồng minh quan trọng nhất là Hoa Kỳ, đang còn dưới quyền lãnh đạo của Tổng Thống Roosevelt, rất cương quyết trong dự định này, nhất là đối với Đông Dương mà Roosevelt quan tâm đặc biệt và nhiều lúc còn nặng lời nhắc nhỡ nước Pháp. Đây là một trong những nguyên nhân tiềm ẩn của thái độ của nước Pháp, đồng minh nhưng không thân thiện với Hoa Kỳ. Nhưng từ năm 1950, trước làn sóng đỏ đã tràn đến biên giới Việt-Hoa,cuộc chiến hoàn toàn thay đổi tính chất và Hoa Kỳ san sẻ gánh nặng bằng quân cụ, vũ khí đủ loại và tài chánh cho chính phủ Pháp để tăng cường lực lượng chiến đấu chống cộng sản ở Đông Dương trước một kẻ địch bổng nhiên mạnh hẳn lên do sự hổ trợ không giới hạn của Mao trâch Đông. Trung Cọng trở thành một hậu cứ vĩ đại cho Việt Minh. Chiến tranh du kích đã trở thành thứ yếu. Được huấn luyện, trang bị và tiếp liệu đầy đủ, lực lượng quân sự của Việt Minh đã bước vào giai đoạn trận địa chiến đến cấp trung đoàn,tiến lần đến đại đoàn, sư đoàn. Về phía quốc gia, các lực lượng quân sự cũng được tổ chức qui mô. Quân đội quốc gia Việt Nam được thành lập lanh chóng và chiến đấu bên cạnh quân đội Liên Hiệp Pháp ở nhiều mặt trận, đồng thời đảm nhận phần lớn nhiệm vụ bảo vệ diện địa. Cuộc chiến chấm dứt với hiệp định Genève ngày 20 tháng 7 năm 1954 phân chia tạm thời Việt Nam thành hai miền Bắc Nam như chúng ta đã biết với sông Bến Hải ở vĩ tuyến 17 làm ranh giới. Cộng sản đã chiếm được một nửa đất nước. Dù được tự do lựa chọn, không một thường dân nào ở miền Nam ra miền Bắc trong lúc một triệu đồng bào từ Bắc di cư vào Nam để được sống dưới chế độ tự do, một cuộc di cư lớn lao thực hiện trong vòng mười tháng như chưa từng xảy ra trong lịch sử Việt Nam. Bức màn sắt đã hạ xuống trên miền Băc thân yêu của tổ quốc.
1- Các Biến Cố Từ gần 9 giờ tối mồng 9 tháng 3, 1945, trên toàn cõi Đông Dương, quân đội Nhật (còn gọi là quân đội Thiên Hoàng) bất ngờ tấn công cùng lúc các cơ quan đầu não của chính quyền Pháp, các cơ sở quân sự, và cuộc kháng cự của quân Pháp không kéo dài quá một ngày ngọai trừ vài cánh quân thoát được sang Trung Hoa. Ngày 10 tháng 3, đại diện Nhật Hoàng, Đặc sứ Yokohama đến loan báo cho Vua Bảo Đại quyết định của Nhật trao hoàn độc lập cho Việt Nam, tạm thời giới hạn ở Bắc và Trung Kỳ, riêng Nam Kỳ thì Nhật tạm thời kiểm soát cho đến khi hết chiến tranh. Ngày 12 tháng 3, Vua Bảo Đại trao cho đặc sứ Nhật bản tuyên cáo độc lập của nước Việt Nam. Nhà Vua nhờ nhà chức trách Nhật tìm ông Ngô Đình Diệm để mời lập chính phủ nhưng sau ba tuần lễ, đặc sứ Nhật cho biết không tìm được. Thực ra, Nhật không muốn ông Diệm làm Thủ tướng vì biết chắc ông Diệm không phải là người dễ nhượng bộ, dễ thỏa hiệp, có thể gây trỏ ngại cho họ sau này. Ngày 17 tháng 4, ông Trần Trọng Kim , thanh tra tiểu học, lập chính phủ. Ông Kim bị Pháp dọa bắt nên được Nhật đưa sang Singapour tạm trú, nay được Nhật mang về giới thiệu với Vua Bảo Đại. Đây là chính phủ đầu tiên của nước Việt Nam độc lập, qui tụ nhiều nhân vật trí thức khoa bảng như luật sư Trần văn Chương, Bộ trưởng Ngoại giao, luật sư Vũ văn Hiền, Bộ trưởng Tài chánh, luật sư Trịnh đình Thảo, Bộ trưởng Tư pháp, bác sĩ Hồ Tá Khanh, Bộ trưởng Kinh tế, Thạc sĩ Hoàng xuân Hãn, Bộ trưởng Giáo dục, luật sư Phan Anh, Bộ trưởng Thanh niên, bác sĩ Vũ Ngọc Anh, Bộ trưởng Y tế và Cứu tế Xã hội, Kỹ sư Lưu văn Lang, Bộ trưởng Công chánh, Giao thông, y sĩ Trần đình Nam, Bộ trưởng Nội vụ, y sĩ Nguyễn hũu Thí, Bộ trưởng Tiếp tế. Ngày 16 tháng 8, đặc sứ Nhật đến loan báo cho Vua Bảo Đại hay Nhật Hoàng vừa ra lệnh ngưng chiến và giao hoàn Nam Kỳ lại cho Nhà Vua. Ngày hôm sau, nhà ái quốc Nguyễn văn Sâm được Nhà Vua bổ nhiệm làm Khâm sai Nam Kỳ nhưng trên đường về Nam nhậm chức, ông đã bị cộng sản sát hại. Ngày 18, Thủ tướng Trần Trọng Kim kêu gọi các đoàn thể chính trị « đoàn kết trong tinh thần thống nhất đoàn kết quốc gia…» trong lúc Nhà Vua gửi điện văn cho các lãnh tụ các nước Đồng Minh Hoa Kỳ, Anh quốc, Pháp và Trung Hoa Dân quốc xin công nhận nước Việt Nam độc lập. Bức điện văn không được hồi âm, có lẽ vì Vua Bảo Đại và chính phủ bị Đồng Minh xem là đã hợp tác với địch (Nhật Bản). Trong suốt mấy tuần lể quyết định này, giữa lúc cộng sản dưới bảng hiệu Việt Minh họat động ráo riết, đặc biệt ở Hà Nội, chính phủ không đưa ra một biện pháp nào cụ thể để trấn an dư luận đang hoang mang tột độ, cũng không tác động tinh thần công chức và các lực lượng quân sự và cảnh sát dưới quyền, dù không hùng hậu nhưng vẫn thừa sức đối phó với tình thế, chưa kể quân đội Nhật được lệnh của Đồng Minh duy trì an ninh trật tự sẵn sàng hợp tác với chính phủ. Không có được một mạng lưới tình báo, không hay biết gì cả về những họat động của Việt Minh, Nhà Vua và chính phủ mất tinh thần một cách dễ dàng trước những tin đồn đại do Việt Minh tung ra, qua những cán bộ « võ trang tuyên truyền », võ trang thô sơ với một ít súng lục, nhiều cái rỉ rét, thỉnh thỏang bị kẹt đan không xử dụng được. Không kiểm soát được, chính phủ « thả nổỉ » tình hình, đất nước như một cánh đồng vô chủ mênh mông! Theo lời của chính cựu Hoàng Bảo Đại kể lại một cách thành thật, thỉnh thoảng rất thật thà, trong cuốn hồi ký của ông, Con Rồng An Nam (Le Dragon d’Annam) xuất bản năm 1979 tại Pháp, ngày 23 tháng 8 (1945), chính phủ biến đâu mất, để Hoàng Đế một mình trong hoàng cung với vài người cộng sự thân tín và một toán lính giữ cổng ra vào. Ngày hôm trước, viên đại tá chỉ huy quân trấn Nhật ở Huế đến báo cho Nhà Vua là y được lệnh của bộ tư lệnh Đồng Minh bảo vệ hoàng cung và « những người ở bên trong » và y đã ban hành những biện pháp an ninh, đặt các rào cản ở cuối cầu trường Tiền (chận một lối đi chính vào cửa Thượng Tứ và Thành Nội, bên trong là hoàng cung). Nhà Vua từ chối sự bảo vệ, yêu cầu tháo gỡ các rào cản và cho mở cửa ra vào Đại Nội như thường ngày, viện cớ không để cho quân đội ngoại quốc can thiệp và để tránh đổ máu của dân. Tối hôm trước, chủ sự Bưu điện Huế đến trình Nhà Vua một bức điện tín từ Hà nội gửi vào, thỉnh cầu ông vui lòng làm một cử chỉ lịch sử bằng cách trao quyền lại cho «nhân dân» nghĩa là cho người gửi điện tín ký tên một cách vô danh «Ủy ban những người yêu nước đại diện tất cả các đảng phái và tầng lớp nhân dân». Nhà Vua cho hoàng thân Vĩnh Cẩn và ông Phạm khắc Hoè đi săn tin trong thành phố, nhưng không thu lượm được tin tức nào chính xác và không biết ủy ban, tác giả của bức điện tín ở đâu ra và gồm những ai. Bơ vơ trong hoàng cung vắng lặng, Nhà Vua kể tiếp, «không biết làm gì hơn, đã vậy, tôi gửi một điệp văn trong khoảng trống như vứt một cái chai xuống biển… Tôi gởi cho Ủy ban những người yêu nước ở Hà Nội lời phúc đáp của tôi, sẵn sàng lùi bước, sẵn sàng hy sinh tất cả để thực hiện sự đoàn kết và yêu cầu các vị lãnh đạo Ủy ban đến Huế càng sớm càng tốt cho việc chuyển giao quyền hành». Cái chai của Hoàng Đế vứt xuống biển đã được vớt lên lẹ làng và chiều ngày 25 tháng 8, hai đại diện của Việt Minh, Trần Huy Liệu và Cù Huy Cận đã có mặt ở hoàng cung. Khoảng vài nghìn người, hầu hết là công chức và học sinh, được triệu tập khẩn cấp đến chứng kiến buổi lê thoái vị và trao quyền của Nhà Vua. Mới mười lăm tuổi, còn là học sinh trung học, gia đình tôi ở trong Thành Nội cách hoàng cung chỉ một trăm mét trên đường Bộ Học, sau này đổi thành Hàn Thuyên, nên tôi sớm có mặt trong đám đông tập họp trên sân cỏ rộng giữa kỳ đài đồ sộ với lá quốc kỳ treo cao lồng lộng trong gió, và cửa Ngọ Môn, cổng chính của hoàng cung, trên đó, chiều nay, một biến cố lịch sử đang xẩy ra, mở màn cho tấn thảm kịch trường thiên của dân tộc. Chít khăn vàng và bận áo vàng, Hoàng Đế Bảo Đại chính thức thoái vị trao quốc ấn tượng trưng quyền hành cho Trần huy Liệu và được Liệu mời ra Hà Nội làm Cố Vấn cho chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà chính thức ra đời một tuần lể sau, tức ngày 2 tháng 9, 1945. Thật vậy, tấn trường thiên thảm kịch của dân tộc bắt đầu tại cố đô Huế. Hai mặt đông và nam của hoàng cung, hoa phượng vỹ thơ mộng của tuổi học trò nở đầy giữu mùa hè xứ Huế, thơ mộng dịu dàng với mái tóc thề của những đàng nữ sinh nón trắng che mặt thẹn thùng như những đàng bướm trắng tung bay mổi chiều tan học. Màu đỏ thắm của hoa phượng vỹ đã phải nhường chổ cho màu đỏ máu hận thù của những lá cờ đỏ sao vàng xuất hiện ở Huế, từ nay mang trổ lại tên Thuận Hóa, cái tên mà Nhà Nguyễn đã đặt cho thành phố này từ mấy thế kỷ và nay như một sự rểu cợt hay thiếu hiểu biết, cộng sản Việt Minh lại mang ra xử dụng khi Nhà Nguyễn vừa tự chấm dứt với sự thoái vị của Nhà Vua cuối cùng, Bảo Đại. Tháng 9, 1945, quân Pháp trổ lại Việt Nam ngay tại Sài Gòn. Chiến cuộc khởi sự. Dù nước Pháp đã công bố một chính sách mới thay thế qui chế thuộc địa (statut de colonie)ở Nam Kỳ và qui chế bảo hộ (statut de protectorat) ở Bắc và Trung Kỳ bằng một qui chế tương đối tiến bộ hơn dành quyền tự trị nội bộ (autonomie interne) – không được trọn vẹn- cho các quốc gia Việt, Căm-bốt và Lào, chính sách mới này vẫn còn lạc hậu trong tình huống mới ở Việt Nam mà chính phủ và hầu hết các giới chính trị Pháp ở thủ đô Paris kể cả phe tả không thẩm định đúng mức được. Từ ngày 9 tháng 3, 1945 khi chính quyền Pháp bị quân Nhật lật đổ, không những uy quyền mà uy tín của nước Pháp cũng tiêu tan luôn. Dân chúng Việt Nam, muôn người như một, trong đầu hôm sớm mai, và nhất là sau khi Nhật Bản đầu hàng Đồng Minh , trao trả độc lập và chủ quyền hoàn toàn cho Hoàng Đế và chính phủ Việt Nam như đã kể trước, dân chúng từ Bắc đến Nam đều say sưa với niềm hãnh diện của đất nước mình, của tổ quốc mình từ nay không bị một ngoại bang nào lấn ép và khinh rẽ nữa, một tổ quốc, một quốc gia độc lập,tự chủ. Sự kiện quân đoàn viễn chinh Pháp trổ lại Việt Nam được xem như một mưu toan tái lập nền đô hộ củ. Toàn dân, không còn phân biệt xu hướng chính trị, nhất loạt đứng lên đoàn kết chống xâm lăng. Vừa thành lập xong chính phủ được đúng ba tuần lể, Việt Minh cộng sản đã hưởng được ngay cái khí thế chưa bao giờ có của mọi tầng lớp dân chúng quyết tâm đánh đuổi quân thù. Không ai còn để ý đến những chuyện khác nữa. Cuộc kháng chiến chống Pháp thực dân khởi sự từ Nam Bộ (danh xưng mới thay thế cho Nam Kỳ dưới chế độ mới) khi quân đội Pháp phối hợp với quân đội Anh -đến giải giới quân Nhật ở vùng Nam Đông Dương- bất thần xâm nhập các công sở của Ủy Ban Hành chánh Nam Bộ vào tối 22 rạng ngày 23 tháng 9, 1945. Phản ứng của phía Việt Nam hai ngày sau châm ngòi cho một cuộc chiến không tránh được giữa Pháp và Việt Nam. Đến tối 19 tháng 12 năm sau, chiến tranh lan rộng trên toàn quốc. Chính phủ Hồ Chí Minh rút vào rừng tiếp tục lãnh đạo cuộc chiến đấu. Trước đấy, ông Hồ đã ký Hiệp định sơ bộ ngày 6 tháng 3, 1946 cho phép quân đội Pháp đóng quân trên nhiều địa điểm ở Miền Bắc, đổi lại Pháp công nhận Việt Nam là một nước tự do, một thành viên của Liên bang Đông Dương (Fédération Indochinoise) và của Khối Liên Hiệp Pháp (Union Française). Thế nhưng lịch sử của cuộc chiến tranh đầu tiên ở Việt Nam, thường được gọi là Chiến tranh Đông Dương (1945-1954) không đơn giản như nhiều người nhận thấy. Tôi đã ghi chú từ đầu cuộc chiến tranh ba – mươi năm (1945-1975) là một cuộc nội chiến giữ hai phe quốc cọng.Một cuộc nội chiến giữa những người Việt theo chủ nghĩa cộng sản muốn nhuộm đỏ đất nước Việt Nam từ khi đảng Cộng sản Đông Dương được thành lập năm 1930, và những người Việt quốc gia không chấp nhận chủ nghĩa cộng sản, quyết tâm tranh đấu bảo vệ độc lập, tự do cho dân tộc. Sự tham dự của ngoại bang,Pháp,Mỹ,Tàu,Nga v.v….không làm mất tính chất nội chiến này mà chỉ mang thêm, với sự hổ trợ của ngoại bang dành cho mổi phe dài dài theo cuộc chiến, một tính chất chiến lược quốc tế, tóm gọn: cộng sản muốn bành trướng Đế quốc Đỏ xuống miền Đông Nam Á Châu với tên lính tiền phong cộng sản Việt Nam và ngược lại, Thế giới Tự do đứng đầu là Hoa Kỳ muốn ngăn chận làn sóng đỏ ở biên thùy Việt-Hoa sau khi Mao Trạch Đông đã chiếm lĩnh Trung quốc cuối năm 1949. Riêng đối với Pháp, cần phải phân tách cuộc tham chiến ở Việt Nam ra hai giai đoạn. Giai đoạn một , từ lúc trở lại Đông Dương tháng 9, 1945 cho đến giữa năm 1947 họ mong muốn bằng sức mạnh hơn là thuyết phục lôi cuốn Việt Nam vào Liên Bang Đông Dương như một nước tự trị và giai đoạn hai từ 1948 trở đi, càng ngày càng lún sâu vào cuộc chiến họ chỉ còn mong Việt Nam ở lại trong Khối Liên Hiệp Pháp với tư cách một quốc gia liên kết (Etat associé) độc lập, tự do, một công thức tương tự với «Khối thịnh vượng chung» (Commonwealth) qui tụ trên nguyên tắc tự nguyện Anh quốc và những thuộc địa cũ của Đế quốc Anh ngày trước nay đã được trao trả độc lập mà không phải trải qua một cuộc chiến tranh nào cả. Đây là một điểm hết sức quan trọng cần nhấn mạnh trong lịch sử cận đại của thế giới : sau khi Thế chiến thứ hai chấm dứt, hầu hết các nước bị trị của các đế quốc Tây phương đều được lần lượt trao trả độc lập mà không phải phí phạm xương máu, ở Á Châu như Hàn quốc, Nam Dưong, Phi-luật-Tân, Mã Lai, Tân-gia-Ba, Ấn Độ, ở Trung Cận Đông, lần lượt đến các nước Phi Châu ngoại trừ Algérie với những ly do riêng của trường hợp này, nơi mà nhiều thế hệ người Pháp đã định cư, lập nghiệp và từ hơn cả thế kỷ Pháp đã xem như một lãnh thổ, một tỉnh của họ! Đối với Việt Nam, nền độc lập đã được trao trả dù chưa toàn vẹn ngay trước cả khi chiến tranh chấm dứt và giữa tháng 8, 1945 vừa đầu hàng Đồng Minh hôm trước, hôm sau Nhật Bản giao trả nốt Nam Kỳ cho Vua và chính phủ Việt Nam như đã trình bày. Cái gọi là «cách mạng mùa thu 1945» của Cộng sản Việt Nam dưới bảng hiệu Việt Minh chỉ là một vụ đảo chính chính trị dành lấy chính quyền từ một nhà Vua và một chính phủ khiếp nhược Cuộc chiến tranh kế tiếp hoàn toàn không phải là một cuộc chiến tranh dành độc lập vì, như đã trình bày, Việt Nam đã được độc lập rồi và khi quân Pháp trở lại Đông Dương, nếu Vua Bảo Đại và chính phủ của Nhà Vua còn tồn tại, thì chắc chắn sẽ có những cuộc thương nghị rất khó khăn với Pháp nhưng chung cuộc, Việt Nam vẫn duy trì nền độc lập và rất co thể gia nhập Khối Liên Hiệp Pháp lúc bấy giờ.Tiến trìng giải thể các đế quốc Tây phương đã được các nước Đồng Minh chấp nhận trước khi thế chiến chấm dứt và nước đồng minh quan trọng nhất là Hoa Kỳ, đang còn dưới quyền lãnh đạo của Tổng Thống Roosevelt, rất cương quyết trong dự định này, nhất là đối với Đông Dương mà Roosevelt quan tâm đặc biệt và nhiều lúc còn nặng lời nhắc nhỡ nước Pháp. Đây là một trong những nguyên nhân tiềm ẩn của thái độ của nước Pháp, đồng minh nhưng không thân thiện với Hoa Kỳ. Nhưng từ năm 1950, trước làn sóng đỏ đã tràn đến biên giới Việt-Hoa,cuộc chiến hoàn toàn thay đổi tính chất và Hoa Kỳ san sẻ gánh nặng bằng quân cụ, vũ khí đủ loại và tài chánh cho chính phủ Pháp để tăng cường lực lượng chiến đấu chống cộng sản ở Đông Dương trước một kẻ địch bổng nhiên mạnh hẳn lên do sự hổ trợ không giới hạn của Mao trâch Đông. Trung Cọng trở thành một hậu cứ vĩ đại cho Việt Minh. Chiến tranh du kích đã trở thành thứ yếu. Được huấn luyện, trang bị và tiếp liệu đầy đủ, lực lượng quân sự của Việt Minh đã bước vào giai đoạn trận địa chiến đến cấp trung đoàn,tiến lần đến đại đoàn, sư đoàn. Về phía quốc gia, các lực lượng quân sự cũng được tổ chức qui mô. Quân đội quốc gia Việt Nam được thành lập lanh chóng và chiến đấu bên cạnh quân đội Liên Hiệp Pháp ở nhiều mặt trận, đồng thời đảm nhận phần lớn nhiệm vụ bảo vệ diện địa. Cuộc chiến chấm dứt với hiệp định Genève ngày 20 tháng 7 năm 1954 phân chia tạm thời Việt Nam thành hai miền Bắc Nam như chúng ta đã biết với sông Bến Hải ở vĩ tuyến 17 làm ranh giới. Cộng sản đã chiếm được một nửa đất nước. Dù được tự do lựa chọn, không một thường dân nào ở miền Nam ra miền Bắc trong lúc một triệu đồng bào từ Bắc di cư vào Nam để được sống dưới chế độ tự do, một cuộc di cư lớn lao thực hiện trong vòng mười tháng như chưa từng xảy ra trong lịch sử Việt Nam. Bức màn sắt đã hạ xuống trên miền Băc thân yêu của tổ quốc.
Những Bài Học:
Từ một giai đoạn đầy biến động đưa đến cảnh phân chia đất nước như vừa trải
qua, chúng ta có thể rúr ra nhiều bài học vô cùng quan trọng và hửu ích, theo
thứ tự thời gian của các biến cố.
Vua Bảo Đại và chính phủ Trần Trọng Kim(tháng 3-tháng 8,1945): Làm chính trị,đặc biệt trong cương vị
lãnh đạo quốc gia, lãnh đạo chính phủ,là phải giữ vững lòng can đảm, không lùi
bước trước hiểm nguy, không để mất tinh thần trước đe dọa.
Lãnh đạo là tiên liệu những biến chuyển có thể xảy ra để ngăn ngừa trước, để
chuẩn bị đối phó, làm chủ động tình thế và nắm lấy thời cơ. Khi có chính quyền
trong tay, phải liên tục hữu hiệu hóa guồng máy Nhà nước cũng như quân lực,
không ngừng cải tiến, không ngừng sửa sai.. Căn bản trí thức
là một cái vốn quý nhưng tư tưởng, kiến thức phải đi đôi với hành động có kế
hoạch cụ thể nếu không thì e sẽ rơi vào tình trạng của những hủ nho của
một thời xưa. Nếu Vua Bảo Đại và chính phủ Trần Trọng Kim hành sử như
vậy, Việt Minh không thể dành được chính quyền và lịch sử cận đại đã có thể
theo một chiều hướng khác.
Các Đảng Phái Quốc Gia: Đã hoạt động
từ nhiều năm trước, đáng lẽ các chính đảng quốc gia phải ra tay hành động, liên
kết với chính phủ để giữ vững chính quyền, hướng dẫn quần chúng đang hăng say
độc lập tự do, ủng hộ chính quyền tại vị. Dù chính phủ có yếu đi nữa – điều khá
rõ rệt – các chính đảng phải thúc đẫy chính phủ, dùng mọi áp lực để trấn tỉnh
chính phủ và Nhà Vua và cùng nhau làm việc. Chúng ta cũng không quên rằng
Viêt Nam Quốc Dân Đảng rất thân gần như đồng chí với Quốc Dân Đảng Trung Hoa
đang lãnh đạo và quân đội Trung Hoa của Thống Chế Tưởng Giới Thạch đã được Đồng
Minh giao phó trách nhiệm giải giới quân đội Nhật ở Miền Bắc. Một thế lực không
thể lớn hơn lúc bấy giờ cũng như trong suốt thời gian quân đội Trung Hoa đóng ở
ngay thủ đô Hà Nội. Đảng Đại Việt cũng có tổ chức và hoạt động ở Miền Bắc trong
đầu thập niên bốn-mươi. Có lẽ những vấn đề nội bộ của mổi đảng, hợp tác giữa hai
đảng, cộng tác với Vua Bảo Đại và chính phủ Trần Trọng Kim, không được giải
quyết lanh chóng kịp thời chăng trong lúc tình thế biến chuyển rất
lanh như đã trình bày. Một hành dộng đoàn kết nhất trí giữa những nhà lãnh tụ
quốc gia đã không xảy ra trong giờ phút quyết định của lịch sử khiến cho cộng
sản thành công dễ dàng, dễ dàng quá hơn họ đã dự liệu. Đây là
một bài học lớn cho tất cả chúng ta và đặc biệt cho những người trong chúng ta
đang tự gánh giờ đây môt trách nhiệm trước quốc dân.
Cộng sản Việt Nam: Thành công tranh đoạt được
chính quyền tháng 8 năm 1945, Cộng sản Việt Nam bắt đầu dẫn dắt dân tộc vào một
cuộc phiêu lưu gần mười năm, hy sinh hàng trăm ngàn sinh linh, tàn phá
hơn một nửa đất nước cho đến ngày xứ sở bị chia đôi thành hai miền Nam Bắc
tháng 7 năm 1954. Sự tôn thờ mù quáng và áp đặt một chủ nghĩa
ngoại lai trên một dân tộc là một điều cần phải tránh vì trước hết, hành động
ngang ngược này loại bỏ quyền tự do tư duy và lựa chọn của mổi người dân trong nước.
Sự áp đặt chủ nghĩa hay chủ thuyết đã chứng tỏ hậu quả khốc hại của nó với chủ
nghĩa quốc-xã của Hitler và chủ nghĩa cộng sản hay xã hội chủ nghĩa dưới thời
Lénine và Staline rồi đến các lãnh tụ kế tiếp ở điện Cẩm-linh cho đến khi
Gorbatchev lên cầm quyền. Những nước văn minh tiền tiến trong thế giới không
làm như vậy mà chỉ đặt định rõ ràng những mục tiêu không thay đổi và có lợi cho
tất cả mọi người dân trong nước bất luận thuộc khuynh hướng nào : tự do, dân
chủ, công bằng xã hội và phúc lợi của toàn dân. Dân quyền và nhân quyền được cụ
thể hóa trong các mục tiêu này. Đế quốc Nga Sô, các nước cộng sản ở
Đông Âu và Á Phi ngoại trừ Cuba, Bắc Hàn, Trung Cọng, Việt Nam và Lào đã sụp đổ
lanh chóng vì áp dụng một chủ nghĩa sai lầm không phù hợp với nhân tính và
đi ngược lại với sự tiến hóa tất yếu của nhân loại. Đây
là một bài học lớn cho đảng Cộng sản Việt Nam. Tôi chắc họ đã hiểu nhưng vì
quyền lợi riêng tư của những người lãnh đạo,họ không muốn xét lại toàn bộ chế
độ. Sự chần chừ và chậm trể của họ càng làm cho dân uất hận thêm và nguy hiểm
cho chính họ khi dân chúng nhất tề theo nhau đứng lên thực hiện lấy sự thay đổi
chế độ. Thắng một thời, sai một đời, mang tội muôn đời, những
người cầm đầu Cộng đảng Việt Nam cần suy ngẩm đến diễn tiến này của lịch sử.
B- Giai Đoạn 1954-1975 : Từ Di Cư Đến Di Tản
Những Nét Chính Của Tình Hình :
Trở về Hà Nội chưa được bao lâu Cộng sản đã chuẩn bị phát động vụ đấu tố
«địa chủ,cường hào, ác bá » trên Miền Bắc vừa tiếp thu. Số nạn nhân không thể
kiểm kê được rõ nhưng phải kể đến cả trăm ngàn người, một tội ác chống nhân
loại đứng hàng đầu. Áp dụng đúng lời dạy của Mao Trạch Đông, mà cuộc đấu
tố trên lục địa đã giết hại hàng chục triệu người. Dân chúng ở hai tỉnh
Hà Tỉnh, Nghệ An, quê quán của ông Hồ Chí Minh, vốn là lò lửa cách mạng vô sản,
đã từng lập sô-viết Nghệ Tỉnh trong các cuộc nổi dậy từ tháng 5, 1930 đến tháng
tư 1931, dân Nghệ Tỉnh ấy nổi dậy một lần nữa nhưng lần này, để chống đối dữ
dội đến độ cả một sư đoàn quân đội nhân dân phải được phái đến dẹp loạn !
Nhưng rồi đồng bào Miền Bắc cũng không được ở yên trong cảnh khốn cùng.
Cuộc xâm lăng Miền Nam được khởi sự chuẩn bị. Gọng kềm của chế độ xiết
chặc hơn nữa. Đã không bao giờ được ăn no, dân chúng từ đây còn phải thắt
lưng buộc bụng, Cuộc chiến xâm lăng kéo dài mười lăm năm đã gây nhiều tổn phí
không kể xiết về nhân mạng cũng như đã làm tiêu tan không kể hết được tài sản
của dân và của nước. Hàng triệu người đã nằm xuống vì bom đạn, gươm đao, kẻ
sinh Bắc tử Nam vùi thân trong rừng thẳm, ngưởi hy sinh chiến đấu chống
xâm lăng bảo vệ Miền Nam tự do, dân chủ. Tại Miền Bắc, dân phải răm rắp
tuân lệnh Đảng và nhà Nước, và không có một biến động nào đáng kể, ngay cả cái
chết của ông Hồ chí Minh đầu tháng chín 1969 cũng không gây nên xáo trộn đáng
kể trong hàng ngủ lãnh đạo. Ngược lại, từ khi đất nước bị phân chia năm
1954, Miền Nam phải trải qua nhiều biến động nội bộ nghiêm trọng, có lúc gần
tan rã, trở thành một con mồi dể dàng cho cộng sản xâm lược. Hoa Kỳ phải
đổ quân vào để cứu vãn tình hình như chúng ta đã biết. Biến động đáng kể
đầu tiên là mưu toan phản loạn của tướng Nguyễn văn Hinh, Tổng tham mưu trưởng
quân đội quốc gia muốn lật đổ Thủ Tướng Ngô Đình Diệm , hai tháng sau khi
ông Diệm về nước lập chính phủ do sắc lệnh của Quốc Trưởng Bảo Đại bổ
nhiệm ông làm Thủ Tướng với toàn quyền chính trị, hành chính và quân sự. Dân
Tây, vợ Đầm, sĩ quan của quân đội Pháp « biệt phái » qua chỉ huy quân đội quốc
gia từ khi mới thành lập, ông Hinh không chịu khép mình trong kỷ luật quân đội
và kỷ luật quốc gia để phải làm việc dưới quyền của một ông Thủ Tướng không
kiêng nể ông như các Thủ Tướng khác trước đấy, chưa kể ông Diệm vẫn luôn luôn
ra mặt chống Tây thực dân từ khi ông Diệm còn làm Thượng Thư trong triều đình
Huế thời Pháp thuộc. Thất bại, tướng Hinh được Quốc Trưởng Bảo Đại gọi sang
Pháp và ở luôn tại Pháp sau một mưu toan trở về dấy loạn lần thứ hai
nhưng thất bại ngay ở biên giới. Biến cố thứ hai cũng lại là một mưu toan
lật đổ ông Diệm nhưng lần này ông đã là Tổng Thống nền đệ nhất Cộng Hòa.
Cuộc đảo chính hụt này, ngày 11 tháng 11, 1960, lại đưa một số sĩ quan đi tù
hay đi ngoại quốc cùng với vài chính trị gia dính líu đến nội vu. Nhưng
tục ngữ Pháp có câu «có hai thì phải có ba » (jamais deux sans
trois) nên lần này, cuộc đảo chính thành công với sự nhúng tay của chính
phủ Mỹ thời Tổng Thống Kennedy và với sự thực hiện của một số tay sai người
Việt. Ngày 2 tháng 11, 1963, Tổng Thống Diệm cùng bào đệ, ông Ngô Đình
Nhu, Cố Vấn chính trị, bị hạ sát. Hai tuần sau, tại thành phố Dallas, Hoa
Kỳ,Tổng Thống Kennedy bị ám sát. Giai đoạn Ngô Đình Diệm chấm dứt.
Miền Nam suýt rơi vào vực thẳm. Việt Cọng nổi lên dánh phá nhiều
nơi. Hệ thống ấp chiến lược bị phá bỏ bởi chính quyền mới của Hội Đồng
quân nhân cách mạng.Nhiều sĩ quan và công chức chống cọng tích cực dưới chính
quyền cũ bị bắt bớ giam cầm. Nhiều cán bộ cộng sản quan trọng đang bị
giam giữ được thả ra vô điều kiện một cách mờ ám. Nhiều vụ tống tiền và
chiếm đoạt tài sản xảy ra ở nhiều nơi mà nạn nhân bị chụp mủ «làm kinh tài cho
gia đình họ Ngô». Trước tình trạng suy đồi lanh chóng của Miền Nam và một
số tin tức về sự móc nối của vài tướng lãnh trong HĐQNCM với một tổ chức hoạt
động cho lá bài trung lập, cũng đại sú Lodge bật đèn xanh cho một nhóm
quân nhân khác làm một cuộc đảo chính lật đổ nhóm quân nhân «cách mạng 1 tháng
11 » trước. Cuộc đảo chính chớp nhoáng này được thực hiện trong vòng hai
tiếng đồng hồ vào sáng ngày 30 tháng 1, 1964, vỏn vẹn ba tháng sau vụ binh biến
lật đổ nền Đệ nhất Cộng hòa. Ba năm tiếp theo, Miền Nam sống trong một tình
trạng gần như hổn loạn Trong lúc các chiến sĩ quốc gia đổ máu hy sinh trên các
chiến trường lan rộng khắp nơi thì tại thủ đô Sài gòn, một nhóm tướng tá
tranh dành miếng đỉnh chung, hết đảo chính đến chỉnh lý, biểu dương lực lượng,
thanh toán nhau, bắt bớ nhau, phong chức cho nhau, chia chác quyền lợi và quyền
hành với nhau trên cái thân thể càng ngày càng suy nhược héo mòn của đất nước
đang bốn bề thọ địch. Vì vậy mà Hoa Kỳ phải mang gấp quân sang để cứu vãn tình
thế. Từ khoảng mười ngàn với tư cách cố vấn dưới thời Tổng Thống Diệm, quân số
Mỹ càng ngày càng tăng cho đến hơn nửa triệu quân vứa tác chiến,vừa cố vấn, vừa
tiếp liệu. Số thương vong tổng cọng gần sáu mươi ngàn người. Chính nghĩa
của cuộc chiến đấu của quân dân Miền Nam càng dễ bị hiểu lầm và xuyên
tạc. Phong trào phản chiến càng phát triển mạnh đặc biệt ở Hoa Kỳ khiến
cho chính phủ và quốc hội phải nhượng bộ trước áp lực của phong trào.
Cuối cùng, với chính sách đánh cầm chừng, tự chế , không đánh cho địch ngã gục
mà chỉ để mong địch đến bàn hội nghị, Hoa Kỳ chỉ còn một mục tiêu chính: rút
quân về nước, đem được hết tù binh về, quân nhân Mỹ mất tích sẽ từ từ tìm kiếm
sau. Trong tinh thần bằng mọi giá phải chấm dứt sự có măt của quân đội
mình ở Việt Nam, Hoa Kỳ xúc tiến Việt nam hoá chiến tranh để Miền Nam tự lo lấy
số phận của mình. Dưới thời Đệ nhị Cộng Hòa, tuy tình hình nội bộ được ổn
định nhưng cuộc chiến đấu của quân dân Miền Nam càng ngày càng khó khăn trước
sự gia tăng không giới hạn của lực lượng địch được cả Khối Cộng sản quốc tế yểm
trợ tối đa và sự suy yếu của lực lượng quốc gia vì Hoa Kỳ cắt giảm viện trợ
quân sự đến mức không đủ nhiên liệu, đạn dược, vũ khí để thay thế và các quân
cụ khác. Hiệp định Paris ngày 27 tháng 1 năm 1973 được ký kết trong hoàn
cảnh này. Chính phủ VNCH buôc phải ký nếu không thí bị Hoa Kỳ bỏ rơi tức khắc
Một hiệp định gián tiếp mở đường cho cộng sản Bắc Việt xâm lăng Miền Nam vì
không buộc CSBV rút về Bắc hơn một trăm ngàn quân của chúng đã đột nhập vào
Nam. Đúng như vậy, sau khi ký kết, CSBV tấn công khắp nơi xem hiệp định đình
chiến Paris như không có, bao nhiêu quân ở Miền Bắc lục tục kéo vào Nam. Những
lời khẩn thiết của chính phủ VNCH kêu gọi Hoa Kỳ giữ lời hứa của Tổng Thống
Nixon can thiệp nếu CSBV vi phạm hiệp định Paris, đều rơi vào khoảng không. Quốc
hội Hoa Kỳ mà đảng Dân Chủ nắm đa số đã ngăn cấm không cho phép Tổng Thống can
thiệp bằng quân lực ở nước ngoài và tệ hại nếu không phải là tàn nhẫn hơn nữa,
không cho phép tháo khoán số tiền mấy trăm triệu còn lại trong ngân khoản viện
trợ quân sự để cho VNCH mua sắm thêm phương tiện chiến đấu trong những trận
chiến ác liệt đang diễn ra vào những tháng quyết định đầu năm 1975.
Những Bài Học:
Hai thập niên đầy biến động từ 1954 đến 1975 không thể không để lại nhiều
bài học cho chúng ta, cho hậu thế, cho bây giờ đây.
Những Người Quốc Gia: Bài học đầu
tiên của giai đoạn lịch sử này nên được để dành cho những người Việt quốc gia
chúng ta vì trách nhiệm bảo vệ Miền Nam trước đây trước hết là trách nhiệm của
chúng ta, người ít kẻ nhiều với những điều kiện của mổi người lúc bấy giờ.
-quyền lợi của đất nước phải được đặt trên quyền lợi riêng của mổi người,
mổi tập thể. Nói thì dễ nhưng nhiều cá nhân, nhiều tập thể không áp dụng bổn
phận căn bản này của người công dân. Chúng ta phải nhìn nhận rằng nếu chúng
ta có trước đây những vị lãnh đạo đặt quyền lợi của quốc gia trên tất cả thì
Miền Nam chúng ta cũng không thiếu những người có chức quyền xem thường quyền
lợi của quốc gia mà chỉ biết đến quyền lợi của cá nhân
mình.
– dân chúng phải chọn những người lãnh đạo và những người đại diện cho mình
không những có khả năng mà còn phải có đạo đúc, tư cách ; phải nhìn vào quá khứ
để tìm hiểu chứ đừng nghe lời đường mật hứa hẹn hão huyền. Một sự lựa chọn sai
lầm sẽ rất tai hại lâu dài cho cộng đồng, cho quốc gia.
– chúng ta phải tự trang bị tinh thần tự lập, tự cường, phải rửa sạch tinh
thần vọng ngọai và ỷ lại. Có một nước bạn giúp đở chúng ta là một điều tốt,
nhiều lúc còn cần thiết nữa nhưng chúng ta phải luôn luôn nhớ rằng không ai
thương chúng ta, lo cho chúng ta bằng chính chúng ta. Nước nào cũng có quyền
lợi riêng của nước ấy. Nếu quyền lợi của nước bạn một lúc nào đấy không phù hợp
hay ngược lại với quyền lợi của đất nước chúng ta thì chúng ta phải trả giá đắt
sự ỷ lại thiếu sáng suốt của chúng ta.
– trong thời đại bây giờ, trừ vài nước Phi châu còn lạc hậu, không một ai
quan niệm được rằng nền dân chủ của một quốc gia có thể bị hủy hoại vì một biến
động quân sự của một nhóm quân nhân. Nguyên tắc cơ bản của tất cả các nước văn
minh từ hơn cả thế kỷ hay vài thế kỷ nay là sự phụ thuộc của thẩm quyền quân sự
vào chính quyền dân sự (principe de subordination de l’autorité militaire au
pouvoir civil) vì chính quyền dân sự đại diện cho toàn dân, thể hiện chủ
quyền của toàn dân (souveraineté du peuple).
Hoa Kỳ: Hoa Kỳ và đặc biệt đảng Dân Chủ cần phải hiểu và
chúng ta phải kiên nhẫn làm cho họ hiểu rằng khả năng vô địch của họ về quân
sự, khoa học, kỹ thuật, tiềm lực kinh tế dồi dào của họ, tất cả không miễn trừ
cho họ những nỗ lực học hỏi cần thiết để thấu hiểu những giá trị, những khát
vọng, những nhu cầu, những điều kiện đặc thù của mổi dân tộc trong mổi giai
đoạn của lịch sử của dân tộc ấy, biến chuyển không ngừng theo sự chuyển biến
của thế giới. Trong sự thi hành sứ mạng mà Hoa Kỳ tự nhận hổ trợ cho các
dân tộc tranh đấu cho tự do, dân chủ của họ qua lời tuyên bố công khai và long
trọng trước thế giới gần đây của Tổng Thống Georges W. Bush, siêu cường này
không thể phạm phải những sai lầm về nhận định, về thiết kế chính sách đối
ngoại, về sự phân biệt giữa những đối tượng, thù hay bạn của tự do, dân
chủ, của nhân quyền, của sự tiến bộ của nhân loại. Hoa Kỳ không thể hành
sử như một quốc gia tầm thường chỉ tính toán cho những quyền lợi trước mắt và
ngắn hạn nhiều lúc chưa chắc đã có thực để quên đi sứ mạng cao cả của mình với
nhân loại. Những sai lầm của Hoa Kỳ trong những quyết định của họ trong
nửa thế kỷ nay, đặc biệt ở Trung Hoa năm 1949 và ở Việt Nam năm 1963 và 1975 đã
làm cho bàn cờ thế giới thay đổi một cách tai hại và dài hạn, đặt gần một tỷ
rưởi người trong cảnh nghèo khổ và mất tự do dưới sự thống trị của một thiểu số
« tư bản đỏ » dẫm lên trên nhân quyền và nhân vị của con người., và đặt các
nước trong vùng Á Châu Thái Bình Dương trong tình trạng lo ngại và cảnh giác
thường xuyên trước chế độ cộng sản ở Trung Hoa lục địa, hung hản, bá quyền, đe
dọa nền an ninh và kinh tế của toàn vùng. Tuy vậy, nhiều
chánh khách, nhiều lý thuyết gia, kinh tế gia, nhà nghiên cứu chính trị chiến
lược, đủ cỡ đồng thanh tranh nhau ca ngợi hai chế độ cộng sản môn đệ của bạo
chúa Staline nói trên bằng cách tuyên dương những thành quả của hai chế dộ này,
so với…tình trạng của hai quốc gia này trong thời gian đen tối nhát mà hai chế
độ đã tạo nên cách đây ba bốn-mươi năm hơn, khi nhân dân hai nước gần chết khổ
tất cả vì bị đem ra làm con vật thí nghiệm cho các chánh sách xã hội chủ nghĩa
thuần túy nhất.. Nghĩa là so sánh cái tệ hại nhất của các chế độ này gây nên
với cái ít tệ hại hơn bây giờ, thay vì so sánh với các «con rồng
vàng» kế cận đã vươn lên như những con rồng trong thần thoại từ hơn
hai mươi năm nay! Hoa Kỳ và Liên Hiệp Âu Châu cũng đừng quên rằng 90 phần
trăm dân ở Trung Hoa lục địa và ở Việt Nam xã hội chủ nghĩa giờ đây đang sống
xa hẳn dưới mức nghèo khổ nghĩa là không đến một đô la một ngày vì lợi
nhuận trung bình từ 400 đến gần 700 đã bị thiểu số 10 phần trăm có lợi nhuận
cao chia lấy phần lớn. Quảng đại quần chúng này phải có quyền sống đủ no,
đủ ấm, đủ tự do, nhân phẩm được tôn trọng như tất cả mọi người khác trong thế
giới văn minh tiến bộ ngày nay. Thế giới Tây phương nói chung, Hoa Kỳ và
Liên Hiệp Âu Châu nói riêng cần nhìn xuyên qua cái hình thức phô diễn bề ngoài
mỏng manh và phải lắng nghe tiếng kêu gọi xuất phát từ bên trong sâu thẳm của
hơn cả tỷ người cần được giải thoát và được hoàn trả lại các dân quyền và nhân
quyền của họ mà không một đảng nào, một nhà Nước nào có quyền tước đoạt mãi
mãi.
Thêm Một Bài Học Cho Những Người Cộng Sản Việt Nam: Sau khi bá chủ được tất cả Miền Bắc năm 1954, lẽ
đáng công sản phải ngưng nghỉ cho dân hưởng thái bình, xây dựng lại những đổ vỡ
của chiến tranh,phát triển kinh tế, nâng cao mức sống, chờ đợi môt ngày thuận
tiện hai Miền Nam Bắc nói chuyện với nhau tiến tới việc thống nhất đất nước
trong hoà bình, tự do. Không làm như vậy, cộng sản Bắc Việt đã phát động cuộc
chiến thứ hai, quyết xâm lăng Miền Nam, khống chế cà Đông Dương như chúng ta đã
biết. Thêm hai-mươi năm nội chiến để làm gì ? Để thống nhất đất nước ?
Một ngụy biện không chấp nhận được vì, cần phải nhấn mạnh cho những người còn
tin ở ngụy biện này, thống nhất chỉ là và phải là kết quả của một tiến trình
thương thảo giữa hai Miền Nam Bắc, một công cuộc chính trị, một sự đồng thuận
giữa hai bên trong những điều kiện không thiệt hại cho một bên nào để từ đấy
thực hiện một công thức quản trị duy nhất cho quốc gia, một chính quyền chung
cho cả nước. Không làm như vậy mà dùng vũ lực, gây nên cả một cuộc chiến
tranh thì hoàn toàn không phải là một sự thống nhất trong ý nghĩa đúng đắn của
sự kiện lịch sử này mà chỉ là một cuộc xâm lăng trắng trợn.
Đảng cộng sản Việt Nam đang mang trên mình bản án nặng nề nhất của lịch sử. Họ
phải rút ra từ tội lỗi lớn lao của họ một bài học cho chính họ để tạ tội với
quốc dân thay vì tiếp tục chính sách dối trá lường gạt đồng bào trong và ngoài
nước. Từ bài học quá đắt giá này, tôi mong người cộng sản
Việt Nam sẽ biết phục thiện để đi vào con đường chung của dân tộc. Họ cần hiểu
rằng quyền hành họ đang nắm giữ chỉ là một quả bóng bay mà một cơn gió thoảng
mùa hè có thể tách rời khỏi tay họ.
C- Từ Đổi Đời Đến Đổi Mới : 1975 – 1986 Và Tiếp
Theo
Từ Đổi Đời Đến Đổi Mới.
Trưa ba mươi tháng tư 1975, đoàn chiến xa của Hồng quân Nga Sô viện trợ cho
cộng sản Bắc Việt tiến vào thủ đô Sài Gòn và chạy thẳng tới dinh Độc Lập tức
phủ Tổng Thống của Việt Nam Cộng Hoà. Thủ đô Miền Nam đã bỏ ngõ từ chiều hôm
trước. Cuộc chiến tranh dài nhất thế kỷ vừa chấm dứt. Hoà bình trở lại trên một
đất nước đuợc sự thương cảm của thế giới bởi những hy sinh không kể xiết của
một dân tộc vừa thoát khỏi một cuộc chiến tranh dài nhất thế kỷ : ba- mươi
năm. Nhưng thế giới đã không nhìn xa hơn. Ít ai nhận thấy tai ương sắp
xảy ra cho dân tộc Việt Nam bất hạnh này. Hầu hết đều muốn ra đi vì họ biết một
cuộc đổi đời sắp xảy ra. Đúng vậy, bắt bớ, giam cầm, tù đày, cải tạo, cướp nhà,
cướp của đồng loạt và liên tục xảy ra khắp nơi. Miền Nam đã vậy trong lúc dân
chúng Miền Bắc thất vọng, bao nhiêu mong ước Miền Nam ra giải thoát cho họ bỗng
chốc bốc thành mây khói ! Chỉ trong vòng vài tháng, nửa triệu người bị
lùa vào các trại cải tạo, hơn một trăm ngàn người vào các nhà tù, hơn một triệu
người « đi » kinh tế mới, bỏ lại cho Đảng cho Nhà Nước nhà cửa, tài sản
của mình. Chính sách kinh tế xã hội chủ nghĩa tập trung các phương tiện
sản xuất trong tay Nhà Nước, quốc hửu hóa tất cả các xí nghiệp tư doanh trước
đây, triệt hạ thành phần « tư sản mại bản »… đã lanh chóng tê liệt hóa nền kinh
tế vốn tương đối thịnh vượng của Miền Nam, đến mức mọi người phải ăn đói, bửa
có bửa không ! Rõ ràng là một cuộc đổi đời đang được thực
hiện. Thế giới bên ngoài đã bắt đầu theo dõi tình hình bi thảm đang
diễn ra tại Miền Nam Việt Nam cùng lúc với những vụ vượt biên, vượt bể, vượt cả
đại dương của hàng trăm ngàn người mà một số lớn đã tử nạn dọc đường hay bị
cướp biển hảm hại. Lương tâm nhân loại bắt đầu xúc động. Một
số nhân vật Tây phương đã hết lời ca ngợi cuộc giải phóng Miền Nam, thống nhất
nước Việt Nam, đã tỉnh ngộ, bắt đầu hối hận về sự lầm lạc của mình như nhà
triết học Jean Paul Sartre. Cuộc trắc nghiệm các chính sách mới của chế
độ mới từ 1975 đã hoàn toàn thất bại. Từ Mạc tư Khoa, Gorbatchek đã cho
Hà Nội biết Nga Sô không thể tiếp tục viện trợ cho Việt Nam nữa. Tập đoàn lãnh
đạo cộng sản hiểu rằng đã đến lúc phải đoạn tuyệt với chủ nghĩa, giáo
điều, tất cả, để thoát ra khỏi cái mồ chôn mà họ đã tự đào lên để tự chôn mình
và chôn luôn cả dân tộc. Đã đổi đời, bây giờ phải đổi mới! Đại Hội
Cộng đảng thứ sáu họp tháng 12,1986 quyết định từ bỏ kinh tế xã hội chủ nghĩa,
áp dụng kinh tế thị trường, được ráp thêm cái đuôi « theo định hướng xã hội chủ
nghĩa » để níu kéo lại một số đặc quyền của Nhà Nước, duy trì nhiều xí nghiệp
quốc doanh và cũng để vớt vát thể diện bị tiêu hao nặng nề bởi sự trở cờ 180
độ. Chính sách đổi mới kéo theo những thay đổi trong các chánh sách áp dụng lân
nay trong nông nghiệp, kỹ nghệ, thương mãi, hủy bỏ nhiều sự kiểm soát trong sự
lưu thông, phân phối hàng hóa sản xuất, cho phép hưởng lợi cá nhân, phát triển
các dịch vụ. Những luật lệ đầu tiên về đầu tư dành cho người ngoại quốc
được ban hành lôi cuốn nhiều doanh nhân các nước ngoài đổ tới nghiên cứu thị
trường, khởi sự hoạt động. Việt kiều ở hải ngoại bắt đầu về thăm quê
hương, và càng ngày càng đông, đem về nhiều ngoại tệ. Nhưng « đổi mới
» chỉ giới hạn trong lãnh vực thuần túy kinh tế. Chính trị
vẫn như trước nghĩa là vẫn độc đảng, độc trị. Và «đổi mớỉ» tạo nên những
vấn đề mới trên phương diện xã hội. Mọi người chen chúc nhau, xô đẩy nhau để
làm tiền, để kiếm sống, để làm giàu, bằng mọi cách, không còn phân biệt điều
tốt, điều xấu. Một xã hội thả lỏng, các giá trị tinh thần, đạo lý, đạo đức
không còn được ai nhắc nhở đến nữa. Từ trên xuống dưới, từ cấp lãnh đạo
cao nhất cho đến cán bộ thấp nhất, mọi người thi nhau làm tiền một cách trắng
trợn. Tệ nạn tham nhủng được hệ thống hóa, lan tràn khắp nơi, từ trung
ưong đến địa phưong, trong chính quyền, trong quân đội, trong các công ty quốc
doanh, ở bất cứ nơi nào có thể kiếm ra tiền. Trong lúc nhờ tham nhủng,
một giai cấp mới, tư bản đỏ và tư sản đỏ, được thành hình và phát triển lanh
chóng thì đại đa số dân chúng ở ngoài vòng ảnh hưởng trực tiếp của « đổi mớỉ »
hoặc ở nông thôn xa xôi không tiếp cận với các đô thị, các thành phố, tiếp tục
nghèo khổ, một số ít được khá hơn phần nào nhưng số đông không có gì thay đổi,
chưa kể nhiều gia đình khốn đốn hơn phải bán con, phải để mẹ hay vợ ra đi lao
động ở nước ngoài để chồng con ở lại quê nhà. Tỷ lệ trẻ con suy dinh
dưỡng đạt mức báo động, số trẻ em bỏ học đạt mức đáng lo ngại. Chưa bao
giờ có trong lịch sử một cảnh tương phản xã hội khiêu khích như vậy giữa những
nhà giàu hàng chục, hàng trăm triệu Mỹ kim xây dựng tài sản một cách bất chính
và những gia đình không kiếm được cái ăn hằng ngày vì không kiếm được việc làm,
không được ai giúp đở kể cả Nhà Nước Xã Hội Chủ Nghĩa.
Những Bài Học Cho Ai ?
Từ đổi đời đến đổi mới, giai đoạn cuối cùng của lịch sử cận đại, chúng ta
có thể rút ra vài bài học cụ thể tiếp giáp ngay với hiện tại trước mắt.
Những người cộng sản trong nước: họ đã tạo nên một cuộc đổi đời, tưởng thực hiện
được giấc mơ xã hội chủ nghĩa : một thiên đường ở trần gian. Mười năm sau, họ
đã vở mộng. Lãnh đạo một nước không phải là lãnh đạo một cuộc chiến tranh. Xây
dựng và kiến tạo không cùng một lãnh vực với xử dụng vũ lực. Một chủ thuyết
kinh tế dựa trên sự phủ nhận và bãi bỏ động lực thu lợi cá nhân không thể
nào ứng dụng thành công được vì trái với tâm lý tự nhiên của con người luôn
luôn muốn làm ra tiền để cải tiến đời sống của mình., một nhu cầu thường xuyên
của bất cứ ai. Từ chủ thuyết trên, cộng sản chủ trương làm chung, ăn chung,
nghĩa là tập trung các phương tiện sản xuất trong tay tập thể, trong tay Nhà
Nước, khiến cho không ai chịu trách nhiệm rõ rệt về thành quả của hoạt động mà
ngược lại, ai cũng muốn dành một phần lớn cho mình. Mặt khác, mất quyền sở hửu
phương tiện sản xuất của mình, làm việc mà không hưởng được kết quả trọn vẹn
của công sức mình, chắc chắn không ai làm việc hết mình. Năng xuất thấp, hiệu
quả kém là chuyện không tránh được. Số phận của các xí nghiệp Nhà Nước vì vậy
đã được an bài . Với kinh nghiệm đắt giá của nền kinh tế xã hội mác-xít,
cộng sản đã ôm chầm lấy kinh tế thị trường nhưng, như đã kể, còn ráp thêm cái
đuôi tai hại « theo định hướng xã hội chủ nghĩa », làm hỏng phần lớn hiệu quả
của chính sách cứu rỗi này. Tóm lại, cần phải cắt gấp cái đuôi tai hại ấy để
loại bỏ những ảnh hưởng xấu của nó. Ngoài ra, phải đổi mới chính trị
nghĩa là phải thực hiện tiến trình dân chủ hóa , trả lại cho dân các dân quyền
và nhân quyền mà không một quyền lực nào có thể tước đọat mãi mãi đươc. Phải
thành hình một Nhà Nước pháp trị, thượng tôn luật pháp, một hệ thống luật pháp
đúng với những tiêu chuẩn của luật pháp văn minh hiện hành trong thế giới chứ
không phải một mớ luật lệ, nghị quyết, pháp lệnh phản dân chủ, phản nhân quyền,
thủ tiêu các quyền tự do căn bản. Đây là bài học tối quan trọng mà các nhà
lãnh đạo cộng sản Việt Nam phải rút tỉa từ kinh nghiệm hai-mươi năm qua để áp
dụng bây giờ vì lợi ích của quốc gia. dân tộc.
Đồng Bào Trong Nước: Nạn nhân của cuộc đổi đời, đồng bào trong nước đã thoát chết đói nhờ
những người bạn củ trở lại kịp thời. Chính sách kinh tế thị trường đã mở đường
cho những nhà kinh doanh Âu Á Mỹ Úc lần lần trở lại làm ăn và dọn đường cho
đồng bào ở hải ngoại về thăm quê hương đất nước. Thoát chết đói nhưng
chưa phải là sống đủ no, đủ ấm, đủ tự do cho tất cả mọi người từ thôn quê đến
thành thị. Dân tộc Việt Nam phải được quyền sống xứng đáng như các dân
tộc khác trên thế giới văn minh tiến bộ ngày này.Sự chịu đựng nhẫn nhục chỉ có
tác dụng khuyến khích lòng tham quyền cố vị và kéo dài vô hạn định chế độ độc
tài đảng trị. Đồng bào phải đứng lên đòi hỏi đảng cộng sản trả lại các quyền tự
do, dân chủ cho đồng bào. Dân tộc ta luôn luôn tôn trọng các tín
ngưỡng, tôn thờ Thượng Đế, cầu Trời như đấng chí linh, khấn Phật như đấng siêu
phàm, tôn kính tổ tiên, ông bà, tạo nên những truyền thống tốt đẹp mà chúng ta
có bổn phận gìn giữ và bảo vệ bằng mọi giá. Luật pháp của chế độ cộng sản
vô thần duy vật và con đẻ cuối cùng của nền luật pháp rừng rú ấy, Pháp lệnh về
tôn giáo, phải được hủy bỏ. Nơi cửa Phật, nơi Thánh đường, nơi Thánh thất, không
ai có quyền xâm phạm, kiểm soát, rình mò, phong tỏa. Việc truyền đạo và hành
đạo là một hành động tự do của mọi người, nhà tu hành, giáo sĩ các tôn giáo,
người thường dân, bất cứ ai, có thể thực hiện bất cứ nơi nào bởi không có một
lý do nào để hạn chế. Tài sản của các giáo hội đã có từ xưa phải được
hoàn trả lại vô điều kiện,các sự thất thoát hư hỏng phải được đền bù vì một Nhà
Nước, một chính quyền bình thường không thể cướp đoạt tài sản của dân, của một
tập thể, nhất lại là một tập thể tôn giáo mà đặc tính tuyệt đối là vô vụ lợi và
có lợi ích công cọng như cả thế giới đã công nhận từ nhiều thế kỷ.
Đồng bào phải muôn người như một đòi hỏi, nếu cần thì mạnh dạn tranh đấu, cho
tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoàn toàn như vừa trình bày. Và cũng như đã trình
bày, đây là cả một vấn đề bao trùm những truyền thống quý báu và tốt đẹp nhất
của dân tộc Việt Nam chúng ta, không phân biệt lương giáo, không phân biệt tín
ngưỡng. Mùa Xuân 2005 này, cuộc tranh đấu bất bạo động thứ ba trong Cộng
đồng các quốc gia độc lập do Nga chủ trì cũng đã thắng lợi nhanh chóng và
quá dễ dàng. Dân chúng Kyrgzystan không đến vài ngàn người do đảng đối lập tổ
chức để phản đối cuộc bầu cử gian lận đã kéo thêm được người hùa theo ủng hộ la
lối,cảnh sát ngăn chận không cho họ kéo đến trụ sở quốc hội nhưng họ vẫn tiến
tới. Không thể đẩy lui đoàn người biểu tình và không muốn xử dụng vũ khí, lực
lượng cảnh sát đành để cho dân chúng chiếm quốc hội và cứ thế, đoàn người hồ
hởi này kéo đến phủ Thủ Tướng, dinh Tổng Thống. Không có một sự kháng cự nào cả
của cảnh sát và quân đội, Tổng Thống đã lanh chân qua nước ban trốn luôn. Hai
vụ tranh đấu trước của dân Ukraine và Georgia, gọi là cách mạng da cam và cách
mạng hoa hồng cũng diễn ra gần giống vậy, người dự biểu tình đông hơn và
thời gian tranh đấu dài hơn nhưng trong cả ba vụ vừa kể, không có đổ máu, kết
quả tốt đẹp. Tại sao ở Việt Nam lại không thể xảy ra như vậy ? Sự sợ hãi
không còn lý do tồn tại nữa vì, rất giản dị, không anh cảnh sát nào, không anh
lính nào dại dột xả súng bắn vào dân để, hoặc bị dân nổi giận tràn đến trả thù
ngay toi mạng, hoặc mang tội giết người nếu cuộc nổi dậy thành công. Thế
giới ngày nay không như thế giới mấy chục năm trước. Không sợ hãi, nhất
định thành công.
Đồng Bào Hải Ngoại: Để tránh một cuộc đổi đời, chúng ta đã
phải rời quê hương đi tìm một chân trời tự do. Do cuộc đổi mới, thế cùng lực
kiệt, cộng sản Việt Nam đã tự động thay đổi qui chế của chúng ta, từ thù địch
bỏ nước ra đi thành khúc ruột ngàn dặm Nghị quyết số 36 của cộng sản hàm chứa
một sự biến chuyển tư tưởng tương tự, không hơn, không kém, một sự dối trá
tuyệt đối khỏi cần bỏ công phân tách mổ xẻ. Về thăm quê hương, thăm
cha mẹ già đang mỏi mắt chờ con, không phải là những chuyện đáng trách nhưng
nhất định đừng để cho cộng sản xử dụng như những con tin. Ngược lại, một người
về thăm quê phải mang theo một thông điệp đầy đủ ý nghĩa của thế giới bên ngoài
và của chính cộng đồng người Việt ở hải ngoại. Thông điệp ấy là đã đến lúc đồng
bào chuẩn bị đứng lên đòi hỏi dân chủ, tự do, no ấm. Đồng bào ở bốn
phương trời, thế giới khắp nơi sẽ tiếp tay ủng hộ cuộc tranh đấu của đồng bào
quốc nội. Ngọn sóng thần dân chủ, tự do đang lần lượt lôi cuốn những bức
màn sắt rét rỉ còn sót lại.
II- NHỮNG TRIỂN VỌNG CỦA TƯƠNG LAI
A- Việt Nam Trong Chính Sách Đối Ngoại Của Hoa Kỳ
Nhiều đồng bào chúng ta ở trong nước cũng như ơ hải ngoại, ngay tại Hoa Kỳ,
suy đoán tương lai của quê hương qua nhận thức của mình về thái độ của Hoa Kỳ
đối với Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Phương pháp suy đoán này không hẳn là không
đúng vì một cách tổng quát, ảnh hưởng của Hoa Kỳ đối với những chuyển biến lớn
trên thế giới khá rõ rệt. Nhưng không phải là Hoa Kỳ muốn gì cũng được. Và
truớc hết cần phải tìm hiểu thực sự Hoa Kỳ muốn gì ở Việt Nam trong nhiệm kỳ
hai của Tổng Thống Georges W. Bush. Như chúng ta đã biết, nhà lãnh đạo
Hoa Kỳ có tuyên bố ít lâu sau khi được tái cử là ông sẽ hổ trợ cho các dân tộc
đứng lên tranh đấu cho tự do dân chủ của nước họ. Một lời tuyên bố có tính cách
chung, không ám chỉ một nước nào nhưng chắc chắn đã làm cho nhiều nước e ngại
dù chưa đến nổi lo ngại. Về vấn đề Việt Nam, ngày 21 tháng 3 vừa qua, Đại
sứ Mỹ ở Hà Nội, Michael W. Marine, tiếp xúc với cộng đồng người Việt tại San
Francisco,. Mục đích, theo tôi nghĩ, vưà là để chuẩn bị cho cuộc viếng thăm
trong vài tháng tới của Phan văn Khải, Thủ Tướng của cộng sản Bắc Việt nhưng
quan trọng hơn, vừa gián tiếp cho chúng ta biết những nét chính của chính sách
của chính phủ Bush hiện thời.Một sự chuẩn bị như vậy, nói chung, trong
cách thức làm việc của bộ ngoại giao các nước không có gì lấy làm lạ. Đối với
nội vụ ở San Francisco, bộ Ngoai Giao Hoa Kỳ phải lo hơn nữa vì Khải muốn đến
thăm toà Tổng lãnh sự của chế độ Hà Nội tại đây. Và ai cũng biết tại đây cũng
như ở Vùng Vịnh (Bay area) bao quanh, cũng như ở quận Cam (Orange county) ở Nam
California, nơi có người Việt đông nhất ở hải ngoại, nhiều thành phố không tiếp
các « nhân vật » của cộng sản Việt Nam và cờ vàng ba sọc đỏ của quốc
gia Việt Nam vẫn phất phới bay. Bộ Ngoại Giao dưới thời Colin Powell đã
bực mình về chuyện này nhưng không làm gì được bởi tính cách tự trị nội bộ của
các thành phố dựa trên nguyên tắc phân quyền rộng rãi của Liên bang Hoa Kỳ.
Những rục rịch chuẩn bị của đại sứ Mỹ làm cho nhiều đồng bào ta nghĩ rằng
ông Bush đã thiên về phía cộng sản Hà Nội. Sự lo ngại này có phần đúng
trong lúc này, không phải vì ông Bush thiên về bên nào nhưng vì ông và chính
phủ của ông làm việc theo một chương trình hành động trong đó, bên cạnh những
vấn đề ưu tiên của Hoa Kỳ (bình định và tái thiết Irak, chống khủng bố trên nội
địa Hoa Kỳ và trên toàn cầu, thực hiện lộ trình hoà bình ỏ Trung Cận Đông, ngăn
chận chương trình chế tạo vũ khí nguyên tử của Iran, của Bắc Hàn, đẩy mạnh công
cuộc củng cố chính quyền dân cử Afganistan và tái thiết nước này, vụ rút quân
của Syrie khỏi Liban v.v.) còn có những vấn đề chiến lược từng vùng (Thái bình
Dương, Âu Châu, Trung Cận Đông) hoặc toàn cầu, và cố nhiên trên tất cả, là các
vấn đề thiết yếu nội bộ của siêu cường này như năng lượng, an sinh xã hội, thâm
thủng ngân sách, thiếu thăng bằng gia tăng của cán cân ngoại thương, tỉ lệ
khiếm dụng,nạn chuyển dịch xí nghiệp ra ngoại quốc, tỉ lệ tăng trưởng, tỉ lệ
gia tăng vật giá v.v. Trong những vấn đề chiến lược từng vùng của thế
giới, nổi bật đặc biệt trong những ngày gần đây là vấn đề Trung quốc, một vấn
đề đã được đặt ra từ hơn nửa thế kỷ nay như đã ghi trên chứ không phải mới mẻ
gì nhưng thái độ hung hăng của Bắc Kinh đối với Đài Loan vừa rồi tiếp theo
những vụ dành đất, tranh dành các đảo ở biển Nam hải,dành hải phận ở Vịnh Bắc
Việt, bắn chết ngư phủ Việt Nam làm cho tình hình trong vùng căng thẳng
phần nào và đòi hỏi Hoa Kỳ biểu lộ thái độ một cách rõ rệt hơn. Hà Nội chỉ mong
có vậy cũng như nhièu quốc gia ở Đông Á , nơi mà an ninh và hoà bình khó bảo
đảm được nếu Hoa Kỳ đứng ngoài cuộc trong lúc hai chế độ cộng sãn Trung Hoa và
Bắc Hàn đang còn ngự trị trên hai quốc gia này. Từ 1950, một số đầu óc ở
Mỹ đã nghĩ đến việc biến ông Hồ Chí Minh thành một Tito ở Á Châu nhưng mọi
người đã biết, ông Hồ không bao giờ là Tito mà ngược lại đã nhuộm đỏ cả Đông
Dương, thi hành đúng chủ trương bành trướng của quan thầy Staline.. Giờ đây,
Hoa Kỳ lại muốn dùng cộng sản Bắc Việt đóng vai trò của Tito một lần nữa, có lẽ
vì không có ai khác để làm cái đê ở biên giới phiá Nam của Trung
Hoa. Chúng ta phải công nhận và cầu mong Hoa Kỳ thực hiện được và
tốt chiến lược bao vây (stratégie d’endiguement) đắp đê phòng lũ lụt này
vì quyền lợi tối thượng của nước ta, một quyền lợi vượt lên trên tất cả những
quyền lợi khác chừng nào nước láng giềng vĩ đại của chúng ta chưa được quản trị
bởi một chế độ dân chủ, sống hoà điệu với cộng đồng thế giới. Vấn đề thực
sự đặt ra cho chúng ta là làm sao chứng tỏ cho Hoa Kỳ hiểu rằng những người Việt
không cộng sản, những người Việt yêu chuộng tự do, dân chủ, hiện ở trong nước
hay ở ngoài nước, có đầy đủ khả năng, có đầy đủ quyết tâm , có đầy đủ lương tâm
và đạo đức, có nhiều hơn tầng lớp lãnh đạo cộng sản hiện thời, tất cả những
điều kiện cần thiết để xây dựng một vận hội mới dân chủ, tự do, hoà bình, tiến
bộ cho nước Việt Nam và từ đấy, góp phần tích cực và hửu hiệu vào công cuộc bảo
vệ an ninh và hoà bình cho Đông Nam Á Châu và Thái Bình Dương. Chúng ta
phải cùng nhau cố gắng tạo nên một hính ảnh tốt đẹp của cộng đồng người Việt
Nam để xóa bỏ một số định kiến không được tốt đẹp mà một phần dư luận ngoại
quốc đang còn lưu giử từ trong dĩ vãng của chúng ta. Chúng ta phải tranh thủ
không ngùng thiện cảm và lòng tin cậy của thế giới, điều kiện tiên quyết của sự
hổ trợ dành cho cuộc tranh đấu cho dân chủ, tự do, cho dân quyền và nhân quyền
của dân tộc Việt Nam.
B- Những Triển Vọng
Trước hết chúng ta, ở trong nước cũng như ở ngoài nước, cần phải ý thức một
cách sâu sắc và rõ rệt rằng số phận của chúng ta, tương lai của đất nước chúng
ta, của quê hương chúng ta, do chính chúng ta định đoạt. Sự hổ trợ của bạn bè
năm châu bốn bể luôn luôn đến sau, để giúp đở và tiếp tay cho chúng ta chứ hoàn
toàn không phải để thay thế chúng ta. Một thái độ ỷ lại vào
người ngoài, vào nước ngoài chỉ mang lại sự khinh rẻ và từ chối của chính những
người mà chúng ta chờ đợi họ giúp đỡ. Chúng ta cần mọi sự hổ
trợ từ bên ngoài và chúng ta phải tỏ rõ xứng đáng với những sự hổ trợ ấy. Triển
vọng xấu – Có nghĩa là tình trạng mà chúng ta đang chứng kiến ở quê nhà và tóm
lược ở trên sẽ không thuyên giảm và còn có thể tệ hại hơn nữa. Về chính
trị, vẫn độc đảng, độc tài, độc trị. Dân quyền và nhân quyền tiếp tục bị tước
đoạt. Nạn tham nhũng càng ngày càng tồi tệ hơn. Bất công xã hội, cách biệt giàu
nghèo, sẽ không giảm bớt mà còn gia tăng. Việt Nam vẫn ngồi lì ở vị trí áp chót
nghèo nhất thế giới. Bức tranh đen tối này sẽ còn mãi nếu không xảy ra
một sự thay đổi toàn diện, thể chế chính trị, cơ cấu công quyền, nhân sự lãnh
đạo. Chờ đợi sự thức tỉnh của những người lãnh đạo hiện thời để thực hiện
một cuộc cải cách sâu rộng sẽ là một mơ ước hão huyền. Đất nước sẽ tuột
dần xuống vực thẳm. Nếu đồng bào không đứng lên đòi hỏi dân chủ hóa chế
độ, trả lại quyền dân cho dân.
Triển Vọng Khá Mơ Hồ: một số người trông đợi ở thời gian. Lớp lãnh đạo lớn
tuổi hiện thời sẽ qui tiên. Lớp trẻ hay trung niên có tư tưởng rộng rải
hơn và có nhiều cơ hội tiếp xúc với thế giới văn minh , có trình độ học vấn cao
hơn, sẽ thay thế lớp lãnh đạo cũ và chế độ tự nó sẽ biến đổi. Lý luận này không
phải là huyền ảo nhưng gần ba mươi năm nay, rồi hai mươi năm nay, rồi mười năm
nay, lãnh đạo qui tiên thì có nhưng chế độ xã hội chủ nghĩa vẫn ỳ ra đấy, tham
nhũng, thối nát càng tiến mạnh, tiến nhanh! Triển Vọng Sáng Sủa: Chúng ta
đang có một triển vọng sáng sủa hơn bao giờ cả vì tình hình trong nước cũng như
tình hình thế giới đều thuận lợi cho tiến trình dân chủ hóa Việt
Nam. Trong nước, thuận lợi vì trước hết, lòng dân đã chán nản
ngoai trừ một thiểu số được hưởng đặc quyền, đặc lợi như đã trình bày. Những
nhà trí thức, những cựu đảng viên cao cấp, những cựu tướng tá, nhiều nhà văn,
nhà báo đến cả nông dân nhiều nơi, thị dân ở ngay Sài Gòn cũ cũng chỉ trích, đẳ
kích Đảng, Nhà Nước không tiếc lời, thậm chí tấn công cảnh sát, công an, không
còn sợ hải như trước nữa. Vụ cuối cùng,trong tuần vứa qua ngay tại đại lộ Trần
Hưng Đạo, giữa Sài Gòn-Chợ Lớn, bốn trăm người qua đường đã tụ họp nhau đánh
cảnh sát, đốt xe chỉ vì một vụ bắt phạt lưu thông không đáng kể, chẳng qua chỉ
vì sự dồn nén uất hận lâu ngày. Cảnh sát phải rút lui. Tại tỉnh Thái
Bình, nông dân cũng nổi lên đánh lại lực lượng công an trong một vụ phản kháng
vì bị cướp đoạt đất đai. Vài vụ vừa kể chỉ để nói lên sự thay đổi từ tâm
lý sợ hải phục tòng đến tâm lý đề kháng nhiều lúc dến bạo động. Và một khi dân
chúng đã phẩn nộ tập họp thành đám đông và nhân viên công lực không giải tán
được nữa thì lúc ấy chế độ không còn ai bảo vệ nữa. Các vụ giải thể các
chế độ cộng sản từ Nga Sô đến các nước chư hầu ở Đông Âu, các vụ gọi là cách
mạng hoa hồng, da cam , hoa tulipe mới đây tại các Cộng Hoà sô viết của Nga Sô
cũ đều đã diễn tiến như vậy. Trước khi sụp đổ, Nga Sô, thành trì và mẫu
quốc của Khối Cộng Sản quốc tế, hùng mạnh về quân sự tương đương với Hoa Kỳ,
dày dặc một mạng lưới mật vụ, công an, cảnh sát bao trùm cả nước, đã tồn tại
bảy-mươi-bốn năm và sản xuất ba thế hệ thanh niên quàng khăn đỏ, Nga Sô kiên cố
và vĩ đại ấy mà Tây Âu khiếp sợ và Hoa Kỳ không dám thốt một lời cản ngăn khi
Hồng quân tràn qua Hung-Gia-Lợi và Tiệp Khắc đè bẹp cuộc nổi dậy của hai dân
tộc này, Nga Sô ấy đã tan biến trong khoảnh khắc khi dân chúng ở Moscou đứng
lên đòi giải thể chế độ, khi họng súng của một chiến xa đi đầu thay vì nhả đạn
vào đám đông, đã được cắm vào một cánh hoa hồng và những người lính tuổi hai
mươi non trẻ đã ôm chầm những người phản kháng, nước mắt tự do tuôn rơi trên
má. Các chế độ chư hầu đều cùng một số phận và cùng một lộ trình tương tự
ngoại trừ ở Roumanie có máu đổ vì lãnh tụ độc tài cưỡng lại lòng dân nên bị xét
xử lanh chóng để một trang sử được lật qua.
Con đường đi tới tự do càng ngày càng mở rộng cho mọi dân tộc. Chỉ
cần đứng dậy lên đường !
LS. LÊ TRỌNG QUÁT
Làm hay không làm chính trị cho Quê Hương ?
BBT:
Thật rất hay là bài viết dưới đây đúng là bài học dành cho Tiến sĩ
Nguyễn Đình Thắng, người đã viết bài “Tôi không làm chính trị” vừa mới
đăng tải trên Ba Cây Trúc ngày hôm qua. Với nhiều ông thầy góp công dạy
như vậy thì ông tiến sĩ nhà ta có thể mở mắt ra để biết rằng ông thực sự
đang làm chính trị mà ông vẫn ngây thơ không biết. Chúc Tiến Sĩ Nguyễn
Đình Thắng mở thêm trí tuệ.
Làm hay không làm chính trị cho Quê Hương ?
Lê Trọng Quát
Chính trị là gì ?
Làm hay không làm, tham gia hay không tham gia chính trị
Chính trị với người Việt ở hải ngoại
Chúng ta không thể làm ngơ được nữa
Nói với thế hệ trẻ, con cháu Lạc Hồng
* * * * *
Ls Lê Trọng Quát |
Ts Nguyễn Đình Thắng |
" Tôi không làm chính trị
". Câu trả lời ngắn gọn đã một thời ở đầu môi của một số người Việt khi
được mời hay được kêu gọi tham gia một hoạt động, một công tác liên
quan đến cuộc chiến đấu bảo vệ tự do của Miền Nam Việt Nam trước tháng
05 năm 1975.
Cũng
câu trả lời ngắn gọn này được lặp lại bởi số người ấy hay được xử dụng
bởi một số người của một thế hệ khác, lâu sau 1975, khi họ được gọi hổ
trợ hay tham gia cuộc tranh đấu nhằm dân chủ hóa và hiện đại hóa nước
Việt Nam, mang lại tự do cho mọi người, công bằng trong xã hội, để xây
dựng một vận hội mới tươi sáng cho quê hương của họ.
Cả
trong hai giai đoạn trước và sau 1975, câu trả lời cô đọng này hàm súc
một ý nghĩa lớn, mang lại những hậu quả lớn và vì vậy cần được bàn đến
một cách nghiêm chỉnh, tương xứng với tầm quan trọng của nó.
«Tôi
không làm chính trị» là gì ? Và ngược lại, « Vì sao tôi làm chính trị,
tôi tham gia chính trị ?» như nhiều người khác quả quyết. Ở đây, tôi
muốn hiểu tham gia chính trị là làm chính trị dưới một hình thức và
trong một phạm vi nào đấy, chứ không có môt sự phân biệt nào đáng kể
giữa hai cụm từ này.
I – Chính trị là gì ?
Nhưng
trước hết, chính trị là gì mà người thích kẻ không như vậy. Được định
nghĩa khá rõ ràng ở các quốc gia nhưng ngay ở những nước có văn hóa cao,
người ta vẫn có những nhận thức đôi lúc khác nhau về từ ngữ này. Chúng
ta sẽ không để mất quá nhiều thì giờ cho việc định nghĩa từ ngữ mà chú
trọng đến sự lựa chọn một thái độ, của người Việt ở trong nước hay đang ở
nước ngoài : làm chính trị hay không làm chính trị.
Chính trị bao gồm một lãnh vực hết sức rộng lớn như nhiều người hiểu và các tự điển đông tây đều gần cùng một định nghĩa.
Trước
hết, chính trị là mọi việc liên quan đến công cuộc trị nước an dân.
Trong một phạm vi rộng hơn, chính trị là các tương quan giữa nhiều quốc
gia, giữa các quốc gia và các định chế quốc tế.
Chính
trị cũng là các hoạt động liên quan đến công vụ trong một nước. Các lý
thuyết tổ chức một quốc gia, các thể chế, các chủ nghĩa, các cương lĩnh
của các chính đảng đều ở tuyến đầu của địa hạt chính trị.
Nhưng
chưa hết, chính trị còn là một khoa học, một nghệ thuật chuyên về việc
quản trị một quốc gia, tham gia hay điều khiển một chính phủ, chính trị
cũng là tổng hợp những sự cố của một nước : tình hình chính trị, sinh
hoạt chính trị, bối cảnh chính trị, nền chính trị v.v….
Theo
ngôn từ mác-xít, chính trị là phần chính của thượng tầng kiến trúc
(superstructure) (1), gồm những chủ thuyết và cơ cấu đầu não của một
quốc gia xây dựng trên hạ tầng cơ sở (infrastructure) qui tụ những lực
lượng và tương quan sản xuất tạo thành căn bản vật chất của xã hội. Tách
khỏi cái ngôn từ sặc mùi đối đầu giai cấp này, hạ tầng cơ sở là hệ
thống đường sá, cầu cống, phi trường, hải cảng….tất cả những phương tiện
và cấu trúc dùng cho việc giao thông vận tải và rộng hơn cho sự hoạt
động của một nền kinh tế quốc gia.
Tóm
lại, ít có một từ ngữ nào rộng nghĩa hơn từ ngữ chính trị, bao trùm
nhiều lãnh vực quan trọng liên quan đến một quốc gia, các định chế quốc
tế và cả thế giới nói chung.
II – Làm hay không làm, tham gia hay không tham gia chính trị.
Định
nghĩa rộng rải và rõ ràng của từ ngữ chính trị được thông dụng và chấp
nhận khắp nơi, làm sáng tỏ vấn đề tham gia hay không tham gia, làm hay
không làm chính trị, đối với môt người trong cộng đồng, trong quốc gia
của họ, trong thế giới (chính trị quốc tế), và đặc biệt đối với chúng
ta, người Việt ở trong nước hay người Việt đang ở hải ngoại vì bất cứ
môt lý do gì. Đặc biệt vì chúng ta là một trong vài dân tộc bất hạnh
nhất trên địa cầu, đã phải chịu đựng một cuộc chiến tranh lúc ác liệt,
lúc tạm ngưng, ròng rã ba mươi năm trời rồi , tiếng súng lặng im, chịu
đựng tiếp một chế độ hà khắc từ ba mươi năm nay và giờ đây thiết tưởng
đã đến lúc cần phải thay đổi.
Thế
nhưng, trước khi đề cập đến chuyện của chính chúng ta, hãy tìm hiểu vì
sao vấn đề làm hay không làm chính trị, tham gia hay không tham gia
chính trị cũng được đặt ra ở khắp nơi trên thế giới. Tìm hiểu vì, ngoài
những lý do riêng của chúng ta, các lý do khác đều chung chung giống
nhau, loài người vẫn được mệnh danh từ lâu là những “con vật chính trị“.
Thật
vậy, với định nghĩa vừa trình bày, không ít thì nhiều, ở nước nào cũng
vậy, ai cũng tham gia chính trị, trực tiếp hay gián tiếp, dưới hình thức
này hay hình thức khác, qua những hành động trong cuộc sinh hoạt hằng
ngày. Ai cũng có những quan hệ ràng buộc mình với xã hội, với quốc gia
của mình, những bổn phận cũng như những nhiệm vụ.
Hành
sử những quyền công dân trong một nước dân chủ như bầu cử , ứng cử vào
các chức vụ dân cử là một thể hiện rõ rệt nhất của sự tham gia chính
trị. Đại đa số dân chúng các quốc gia dân chủ tham gia việc nước qua
hình thức thông dụng này.
Tranh
đấu chống lại gian lận bầu cử, đòi hỏi quyền ứng cử, công khai vận động
cho một hay nhiều ứng cử viên tức là làm chính trị, dấn thân chính trị,
phục vụ và bảo vệ nền dân chủ của quốc gia. Không có những thành phần
năng động và can đảm này, nhiều nước kém mở mang đã có thể trở thành nạn
nhân của những chế độ độc tài hay không thoát khỏi được các chế độ quân
phiệt. Sự biến đổi quan trọng trong chiều hướng dân chủ hóa ở Châu Mỹ
la-tinh trong ba thập niên vừa qua là một bằng chứng không chối cải được
của sự kiện lịch sử này.
Phát
biểu một ý kiến, xác định một lập trưòng về một vấn đề liên quan đến
quyền lợi của xứ sở, của dân tộc, của cộng đồng thế giới là tham gia
chính trị bằng sự bày tỏ một tư tưởng, một quan điểm của một người dân
trong một nước dân chủ, tự do.
Hoạt động trong một tổ chức, một đoàn thể, một đảng phái chính trị tức
là làm chính trị với mức độ dấn thân (engagement, commitment) để thực
hiện và phục vụ một lý tưởng, một hoài bảo, một mục đích vượt lên trên
quyền lợi cá nhân của mình. Sự cấu tạo một nền dân chủ đích thực bắt
nguồn từ đây vì sự học hỏi và thực tập dân chủ đã được diển ra phần lớn
trong khu vực, trong môi trường chủ yếu này.
Giữ
một trọng trách trong chính quyền, tham dự chính phủ, là làm chính trị
bởi sự san sẻ quyền hành và thụ lãnh trách nhiệm trước những cơ cấu đại
diện quốc dân. Nói chung, khi con người đã tiến đến thời kỳ tổ chức sinh
sống thành một cộng đồng một xã hội, một quốc gia thì hầu hết đều tham
gia chính trị để góp phần của mình vào sự tồn tại và phát triển của quốc
gia mình. Tham gia tích cực, tham gia với ý thức sâu xa hay nhiều lúc
tham gia mà không biết hay không cần biết mình tham gia vì trong nhiều
trường hợp một sự tán đồng hay bất đồng, hay ngay cả sự giử im lặng
trước một hành vi một sự cố xảy ra trong nước hay trong thế giới đã là
một thái độ chính trị, nghĩa là một sự tham gia ở một mức độ nào đấy,
công khai hay âm thầm, lặng lẽ.
Bên
cạnh sự tham gia chính trị của đại đa số, cố nhiên còn lại những người
không muốn “dính” đến, không muốn liên hệ đến bất cứ việc gì ngoài
chuyện “làm ăn” sinh sống của họ và chủ trương đóng kín cửa với thế giới
bên ngoài. Họ chỉ cần sống với họ trong cái võ ốc mà họ tin là kiên cố,
mặc cho “thời tiết“ xã hội, chính trị bên ngoài đổi thay sau bức tường
cách nhiệt mong manh, giả tạo. Trong cái thế liên lập (interdépendance,
interdependence) của các quốc gia ngày nay, một nước không thể tự tách
riêng ra để tồn tại một mình được thì một cá nhân càng không thể tự giam
mình trong cái vũ trụ tí hon của mình được. Vươn ra khỏi cái phạm vi
hạn hẹp của mình, kết hợp với xã hội chung quanh mình, san sẻ những mối
lo chung, những hy vọng chung, thực hiện những dự án, những công cuộc
lợi ích chung, chia xẻ những ngọt bùi chung, đấy là tham gia chính trị,
làm chính trị. Và chính cái năng lực chính trị tổ chức được thành xã
hội, thành quốc gia đã tạo nên sự phân biệt lớn lao giữa con người và
con vật dù cả hai đều là những sinh vật, một thời xa xưa trong tiền sử
không khác gì nhau mấy.
Thế
nhưng, qua bao nhiêu thời đại, từ khi ý thức chính trị còn sơ đẳng cho
đến khi phát triển đến cao độ, sáng tạo nên những qui luật trị nước an
dân thì bên cạnh những người làm chính trị tốt có lý tưởng, năng lực và
đạo đức đã góp phần vào những công trình xây dựng nên sự hưng thịnh của
quốc gia, phúc lợi cho thế giới thì cũng không thiếu những chính trị gia
hoạt đầu, những kẻ lợi dụng lòng tin của dân chúng gởi gắm nơi mình,
những kẻ dùng bạo lực tranh đoạt quyền thế hảm hại đồng bào, những kẻ
dùng tà thuyết lường gạt nhân dân, những kẻ bất lương tham nhũng hợp tác
với những kẻ tòng phạm “không làm chính trị“ nhưng biết làm tiền bằng
mọi cách kể cả bán rẻ lương tâm và danh dự.
Từ
xưa đến nay, từ Âu sang Á, ở các nước độc tài cũng như ở các nước dân
chủ, phường chính trị gia kể trên không thiếu. Đành rằng trong nghề nào
và ở bất cứ đâu cũng có “con sâu làm rầu nồi canh” nhưng con sâu trong
nồi canh chính trị càng lớn mạnh, hậu quả càng tai hại cho một xã hội,
một quốc gia. Thành kiến bất lợi của một số người dành cho người làm
chính trị và cho cả việc chính trị theo nghĩa họ hiểu, bắt nguồn một
phần lớn từ loài sâu bọ này.
Nhưng
không phải vì hiện tượng sâu bọ này mà sự tham gia chính trị, sự dấn
thân chính trị giảm bớt hào quang, một vầng hào quang kết hợp bằng lý
tưởng phục vụ công ích, bằng sự chấp nhận và thực thi những dòi hỏi khắt
khe về đạo đức, bằng những nỗ lực làm việc và phục vụ một chính nghĩa,
bằng những đóng góp và hy sinh vật chất và tinh thần, bằng sự chấp nhận
những hiểm nguy không thiếu, tất cả cho sự thành công của một đại cuộc.
Tham gia chính trị, làm chính trị là chấp nhận một thách đố chống nghịch
cảnh, vượt ra khỏi cái tôi nhỏ bé của cá nhân mình, hoà mình với mọi
người để cùng nhau phục vụ cho cộng đồng, cho xứ sở của mình, cho thế
giới mà mình và đất nước của mình phải là một thành phần xứng đáng và
hửu ích có khả năng mang lại phần đóng góp chứ không chỉ ngửa tay xin xỏ
suốt đời.
Tham
gia chính trị, làm chính trị là tự ý gánh lấy một phần trách nhiệm đối
với quốc gia dân tộc, chống lại thái độ đứng ngoài cuộc, đóng vai trò
“quan sát viên vô tư “ trong lúc đối tượng được quan sát chính là xứ sở,
quê hương mình đang ở trong cơn hoạn nạn và đang khẩn thiết cần đến
mình để vượt thoát và vươn lên.
Lâu
trước 1975, trong thập niên năm mươi, thành phần“trùm chăn này“ đã được
ngụy trang dưới nhiều hình thức để che đậy sự nhát sợ của một số người,
làm giảm thiểu phần nào khả năng chống Cọng để bảo vệ tự do lúc bấy
giờ. Họ không thích cộng sản, họ lo sợ cộng sản chiếm hết Miền Bắc
(trước hiệp định Genève tháng 07, 1954 lực lượng Cộng sản còn được gọi
là Việt Minh chỉ chiếm giữ một phần lãnh thổ ở thôn quê và một số ít
tỉnh ở Miền Bắc và Miền Trung) và Miền Nam Việt Nam nhưng họ không tham
gia chính trị vì sợ mang màu sắc chống Cộng, có thể bịết đâu một ngày
nào đấy bị trả thù. Tiếc thay cho họ, sự khôn ngoan và phòng xa chu đáo
không giúp họ tránh khỏi cảnh ngộ chung của toàn dân, năm 1954 đất nước
phân đôi, một triệu người di cư từ Bắc vào Nam và từ tháng tư đen năm
1975 hàng triệu
III – Chính trị với người Việt ở hải ngoại.
Khi
nói với người Việt ở hải ngoại về vấn đề này, tôi muốn ám chỉ tất cả
những người gốc Việt hiện ở ngoài Việt Nam, dù họ mang quốc tịch nào,
miễn là họ còn tưởng nhớ đến quê hương, trung thành với nguồn gốc và còn
ấp ủ trong lòng tình đồng bào Việt Nam ruột thịt. Và cũng trong phạm vi
mở rộng của vấn đề “ làm gì cho quê hương“, tôi sẽ không phân biệt
những người ra đi trước hay sau 1975 vì những lý do có thể giống nhau ,
có thể khác nhau tùy theo hoàn cảnh, tùy theo trường hợp của mổi người,
mổi gia đình, và tùy theo tình thế biến chuyển không ngừng của đất nước
trong hơn nửa thế kỷ khổ nạn với mấy lần vật đổi sao dời.
Lắm
lúc trong một cuộc đời, người ta không làm chủ được số phận của mình.
Nhưng điều quan trọng là cố gắng tối đa, không vội nản lòng trước khó
khăn trở ngại, không chỉ biết lo cho mình mà còn phải san sẻ nổi lo
chung của dân tộc.
Tôi
muốn dành vài hàng ngắn ngủi để nhắc lại sơ qua một việc nhỏ nhưng có ý
nghĩa tương tự như câu chuyện ngày hôm nay, tại mục này: chính trị với
người Việt ở hải ngoại. Hoàn cảnh có khác nhau và nhiều năm tháng đã
trôi qua nhưng câu chuyện như mới diễn ra ngày nào vì nhiều người trong
cuộc vẫn còn đây như giáo sư Lê Mộng Nguyên và nơi hội họp vẫn còn đó,
nguyên vẹn ở đường Monge, quận 5 thành phố Paris. Tôi đến thủ đô nước
Pháp một ngày đầu thu 1959, chỉ một mình sau khi phái đoàn Quốc Hội Việt
Nam Cộng Hòa mà tôi là một thành viên rời Nhã Điển (Athènes) thủ đô của
Hy Lạp và hội nghị Liên Hiệp Quốc Tế Nghị Sĩ vừa bế mạc. Mục đích duy
nhất là nói chuyện, đúng hơn là tranh luận, với sinh viên Việt Nam mà
một số đáng kể là thân Cộng hay đảng viên cộng sản thật sự trong tổ chức
Liên Hiệp Việt kiều. Thời ấy, các sinh viên này rất hung hãn nhất là
đạo luật về an ninh quốc gia vừa được ban hành ở Miền Nam để trừng trị
các hoạt động phá hoại, khủng bố. Mặt Trận giải phóng Miền Nam thành
hình sau đấy. Công tác này chỉ là một sáng kiến của tôi, một hành động
tự nguyện và được Tổng thống Ngô Đình Diệm chấp thuận. Tôi muốn thực
hiện một cuộc tiếp xúc trực tiếp giữa những người Việt ở trong nước và
ngoài nước, đặc biệt giữa những người trẻ dấn thân ở bên này và bên kia
chiến tuyến, với sự mong ước, có lẽ là tham vọng, thuyết phục những
người trí thức trẻ tuổi đang nghiêng về phía bên kia trở về với chính
nghĩa quốc gia, trở về với lý tưởng tự do dân chủ.
Còn
là một thanh niên chưa đến ba mươi tuổi lớn lên giữa thời tao loạn, tôi
đã và đang làm nhiều nghề (giáo sư, luật sư, chủ bút và chủ báo,….) và
cũng đã trải qua nhiều thử thách, tù đày, gian khổ. Có lẽ nhờ vậy chăng
mà tôi đã quen và vẫn muốn đương đầu với nghịch cảnh thay vì tránh né
khó khăn miễn là phục vụ được lý tưởng của mình.
Sau
khi đắc cử Dân Biểu quốc hội và được bầu vào các chức vụ Phó Trưởng
Khối Liên Minh Xã Hội (từ năm thứ hai của pháp nhiệm, tôi làm Trưởng
Khối) và Chủ Tịch Ủy Ban Lao Động- Xã Hội-Y Tế ( từ năm sau, tôi lần
lượt giử chức vụ Chủ Tịch các Ủy Ban Nội Vụ, Quốc Phòng), tôi nhận thấy
cần thừa dịp phó hội ở Hy Lạp,sang thẳng Paris để thực hiện một công tác
“giải độc” ở hải ngoại chắc chắn không phải là dễ dàng vì ai cũng biết
nơi đây là trung tâm hoạt động mạnh nhất của Cộng sản Việt Nam ở Âu
Châu, đặc biệt của giới sinh viên và thợ thuyền Việt kiều trong tổ chức
Liên Hiệp Việt kiều thời ấy.
Tôi
đã thảo luận công khai, trực tiếp với các sinh viên đủ mọi thành phần,
quốc gia, thân Cọng, cộng sản thực sự, thảo luận mọi vấn đề liên quan
đến tình hình đất nước, đời sống của sinh viên, thảo luận trên căn bản
mà tôi đề nghị: quyền lợi chung của xứ sở và tình tự dân tộc. Vì giới
hạn của bài này và vì không phải chổ nên tôi không thể kể lại chi tiết ở
đây nhưng có thể tóm tắt là buổi họp rất sôi nổi, “phe “ thân Cộng và
Cộng không áp đảo được như họ vẫn thường làm trong các vụ hội thảo mà
cuối cùng họ chịu lặng im thấy rõ.
Đại
Sứ VNCH, bác sĩ Phạm khắc Hy mời tôi ở lại Pháp ít lâu để tổ chức những
buổi thảo luận tương tự ở các tỉnh nhưng tôi phải về nước vì nhiều công
việc đang chờ đợi tôi.
Bao
nhiêu nước đã chảy qua dưới cầu từ độ ấy. Một cuộc đổi đời đã diễn ra.
Ngược lại với sự thay đổi vị thế trong nước mà anh bộ đội ở rừng rú và
tên cán bộ công an nằm vùng ở Sài gòn đã trở thành cảnh sát chỉ đường
giao thông của thành phố tạm thời mang tên “bác", tại hải ngoại, trên
toàn khắp thế giới, con cháu của “ bác” biến đâu mất, kể cả các đại diện
ngoại giao cũng núp lén cố thủ trong các công ốc của nhiệm sở.
Họ
cẩn thận tránh né cũng phải vì ba triệu người Việt ở khắp nơi không
thích họ, nhiều người còn hận thù, chuyện rủi ro có thể xảy ra cho họ
nếu ai đó thổi mạnh hòn than đỏ ấp ủ dưới lớp tro tàn mỏng manh. Mất
chính quyền, mất chủ quyền ở trong nước bởi bạo lực của một cuộc xâm
lăng trắng trợn, ngược lại ở ngoài nước, dân Việt Nam đã thành công lớn,
đã thắng lợi lớn trong cả hai phạm vi tinh thần lẫn vật chất.
Từ
Mỹ Châu, Úc Châu đến Âu Châu, Á Châu, cộng đồng người Việt quốc gia đã
hiên ngang công khai làm sáng tỏ trở lại trước công luận thế giới, chính
nghĩa của cuộc đấu tranh bị hiểu lầm và bị xuyên tạc trước đây bởi đạo
quân thứ năm của cộng sân quốc tế, bởi những trí thức và ngụy trí thức
tả khuynh ở Tây phương, đặc biệt trong giới truyền thông đại chúng, báo
chí và truyền hình của Hoa kỳ, của Tây Âu, nghĩa là của cái được mệnh
danh là Thế giới Tự do (!) thời bấy giờ.
Tại
Hoa Kỳ, lần lượt gần bảy-mươi thành phố ở khắp các vùng trong Liên bang
chính thức công nhận lá cờ quốc gia Việt Nam nền vàng ba sọc đỏ là biểu
tượng của cộng đồng người Việt trong lúc vài thành phố quan trọng có
đông người Việt ở Nam California quyết định không bảo đảm an ninh cho
các viên chức của chính quyền Hà Nội mà họ khuyến cáo không nên lai vãng
đến. Hành động có ý nghĩa đặc biệt này quả thật là hiếm hoi trong lịch
sử bang giao quốc tế mà Hoa Kỳ muốn dành cho người Việt định cư trên đất
nước của họ để bày tỏ sự tôn trọng của họ đối với sự lựa chọn chính trị
hàng đầu của người Việt bất chấp qui lệ nếu không phải là qui ước ngọai
giao.
Cộng
đồng người Việt mà đại đa số là đồng bào tỵ nạn cộng sản và con cháu
của họ, lớn lên hoặc sinh trưởng tại hải ngoại, đã thành công rực rỡ
trên đất tạm dung. Tư cách, tài năng của người Việt đều được công nhận
khắp nơi. Tỷ lệ học giỏi ở trung học và đại học ở Hoa Kỳ cũng như ở Âu
Châu ngang với hoặc cao hơn tỷ lệ của dân bản xứ trong lúc tỷ lệ tội
phạm ít hơn hẳn so với mọi sắc dân khác. Khoảng ba trăm ngàn chuyên viên
đủ ngành đang hoạt động, lợi nhuận tương đương với dân bản xứ cùng
trình độ.
Nhưng
một điểm đáng chú ý- và cũng là một vấn đề cần xét lại – là trong năm
vừa qua người Việt ở hải ngoại đã gửi hoặc mang về nước ba tỷ đô la Mỹ,
bằng tổng số ngoại viện và quan trọng hơn nữa là bằng tiền mặt. Riêng
khu vực thành phố Sài – gòn củ đã chiếm hơn một tỷ tám trăm triệu. Một
vấn đề cần xét lại vì ngoài những trường hợp trợ giúp nhân đạo hay bà
con, bạn hữu túng thiếu cần giúp đỡ, chúng ta không thể cung ứng phương
tiện nuôi dưỡng một chế độ độc tài, độc đảng, tham ô nhũng lạm, áp bức,
bất công, Một chế độ đang bị thế giới văn minh lên án, môt chế độ mà
chính những người cộng sự còn lương tri, những nhà trí thức trong nước,
những cựu đảng viên cộng sản cao cấp đã thức tỉnh, những nông dân nghèo
khổ ở châu thổ sông Hồng, những đồng bào sắc tộc ở Cao Nguyên thậm chí
đến những chiến binh đã chiến đấu hy sinh cho chế độ suốt một cuộc đời,
tất cả đã chống đối công khai, không sợ hãi, không lùi bước. Vì tất cả
đã đi đến giới hạn cuối cùng của khả năng chịu đựng, của sự nhẫn nhục và
trên hết, vì tất cả đã nhận thức nguy cơ của một quốc gia đang thoái
hóa với các giá trị tinh thần đạo đức truyền thống của dân tộc bị suy
sụp trước sự đăng quang thách thức của thế lực kim tiền,, một thứ kim
tiền thủ đắc một cách bất chính và bất lương trên thảm cảnh của đại đa
số sống chật vật dưới rất xa mức nghèo khổ.
Đồng
bào chúng ta ở hải ngoại lẽ nào làm ngơ trước đồng bào ruôt thịt trong
nước đang bị gọng kềm của chế độ xiết chặc, lẽ nào im lặng trước những
người bất chấp đe dọa hiểm nguy đang đứng lên tranh đấu cho tự do, dân
chủ và quyền sống xứng đáng của con người.
Con
người của thế kỷ hai-mươi-mốt mà đời sống đang được phát triển toàn
diện, tinh thần và vật chất, ở hầu hết các quốc gia trên thế giới ngày
nay, con người mà dân Việt đang mơ ước và có quyền mơ ước được như vậy.
Chính bạn ở hải ngoại là con người ấy mà đồng bào ruột thịt của bạn ở
quê hương đang mơ ước.
Bạn
đang ở Hoa Kỳ, nước giàu mạnh nhất thế giới, với tổng sản lượng nội địa
tính theo đầu người (produit intérieur brut par personne PIB – gross
domestic product per capita GDP) là 44.469 đô-la hay 34.207 euros tinh
theo mãi lực (parité du pouvoir d’achat PPA , purchasing power parity
PPP), bạn đang ỏ Âu Châu, khu vực đồng euro với 31.035 đô-la Mỹ hay
23.874 euros theo những con số chính thức vào tháng giêng 2005 của những
cường quốc phát triển nhất. Trong cùng lúc, bà con của bạn ở quê nhà có
lợi nhuận trung bình một năm tính rộng nhất vẫn dưới 500 đô - la Mỹ,
thấp khoảng sáu lần lợi nhuận trung bình của người dân Thái Lan kế cận
và thấp hơn nhiều lần nữa so với lợi nhuận của người dân Đại Hàn, Đài
Loan, khỏi phải sánh với ngưòi dân xứ Hoa Anh Đào mà lợi nhuận (33.165
đôla Mỹ) cao gấp bảy-mươi lần lợi nhuận của dân ta ! Cùng một giống
người “da vàng mũi tẹt”, cùng sinh sống trên miền Đông Á, họ đã vượt
Việt Nam ngày nay quá xa trên mọi lãnh vực, văn hóa, chính trị, khoa học
kỹ thuật, kinh tế, xã hội …và không một ai trong bọn họ muốn tranh dành
cái “đỉnh cao của trí tuệ loài người “ mà các vị lãnh đạo Cộng sản Bắc
Việt đã, không cười rởn và rất nghiêm chỉnh, tự gán cho mình vào cuối
thập niên bảy-mươi khi họ hoàn tất sự nghiệp cách mạng vĩ đại đưa dân
tộc Việt Nam trở về thời đại đồ đá!
Từ
cái hố sâu xa cách lợi nhuận thăm thẳm này, chúng ta không còn phải
ngạc nhiên trước tình trạng cơ cực của đại đa số đồng bào ở khuất lấp
trong nông thôn và trong xó hẻm của các đô thị. Một tình trạng không thể
che đậy được bởi cái bề ngoài hào nhoáng và đồ sộ của các khách sạn
quốc tế, những tiệm ăn sang trọng mùi vị thơm ngon, những khiêu vũ
trưòng rực rỡ ánh đèn màu, tất cả dành cho người ngoại quốc , một số ít
Việt kiều giàu có về thăm quê (số đông không đến được những nơi này vì
quá đắt ngay đối với họ) và đặc biệt cho các nhà “tư bản đỏ “, cán bộ
cao cấp của “đảng ta “ và những kẻ làm ăn với chúng. Trên vỉa hè trước
mặt, các em bé đang tranh nhau xin tiền và xin ăn chút dư thừa! Xa hơn,
kín đáo hơn, các em bé khác đang phải bán mình để nuôi thân và nuôi cha
mẹ, những bậc sinh thành đã không tìm ra được việc làm để nuôi con, đành
phải ăn vội bát cơm chan nước mắt tủi nhục với con, căm hờn với chế độ
đã tạo nên cuộc đổi đời nhục nhã, tang thương này. Xa hơn nữa, ở nước
láng giềng Căm-Bốt, có những em bé Việt mới tám tuổi hoặc lớn hơn nhưng
vẫn còn vị thành niên đã được cha mẹ bán đi hoặc đưa đến đây hiến dâng
trinh tiết rồi hành nghề mãi dâm để nuôi gia đình. Và càng xa hơn nữa, ở
tận Trung Đông, ở Đông Âu, ở tận Đại Hàn, Đài Loan v.v….nhiều bà mẹ
Việt Nam đã được xuất cảng lao động đến đấy để làm người giúp việc ở tư
gia, một số còn bị lợi dụng tình dục, đau xót tủi nhục đến tột cùng,
thương nhớ chồng con không kể xiết nhưng họ không còn sự lựa chọn nào
hơn giữa ra đi để kiếm sống, và ở lại để cả gia đình cùng khốn đốn vì
khó kiếm được việc làm. Người phụ nữ Việt lại còn phải trải qua những
ngày đen tối khác khi nhiều thiếu nữ vì nghèo khổ phải chấp nhận lấy
chồng để cha mẹ được một số tiền nhỏ - vài trăm đô la Mỹ- rồi theo chồng
về Trung Hoa hay Đài Loan sống như tôi tớ trong nhà chồng hoặc trong
một số trường hợp bị ép làm những điều đồi phong bại tục.
Tình
trạng chính trị , kinh tế, xã hội, vừa được tóm lược không phải để bêu
xấu một chế độ vì chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam đã không thể dấu
diếm che đậy gì được nữa mà chỉ để nhắc nhở và kêu gọi đồng bào Việt ở
hải ngoại làm một cái gì cho quê hương, cho đồng bào ruột thịt trong
nước, cho tương lai của dân tộc.
IV - Chúng ta không thể làm ngơ được nữa.
Cùng
nhau chúng ta phải chung sức vận dụng khả năng tối đa của mình để tranh
đấu cho sự phục hồi tự do, dân chủ, cho sự tôn trọng nhân quyền, cho sự
tôn trọng tự do tín ngưỡng và hành đạo của các tín đồ, hoàn trả vô điều
kiện tài sản của tất cả các giáo hội Phật Giáo, Thiên Chúa Giáo, Tin
Lành, Phật Giáo Hoà Hảo, Cao Đài Giáo, Đạo BàLa Môn …
Chúng
ta phải tranh đấu tại hải ngoại bằng mọi cách hửu hiệu nhất, công khai
hay tiềm ẩn, trực tiếp hay gián tiếp,cả bề rộng lẫn bề sâu,để công luận
thế giới công khai nhìn nhận tình trạng của một dân tộc tám-mươi triệu
người bị khống chế và đàn áp bởi một chế độ độc tài, độc đảng xây dựng
bằng bạo lực, một dân tộc trong suốt ba mươi năm nay, kể từ ngày Cộng
sản Bắc Việt thôn tính Miền Nam Việt Nam, không được biết một cuộc bầu
cử tự do và trung thực nào cả. Một sự nhìn nhận và theo dõi của thế
giới, tạo áp lực mạnh trên chế độ, mở đường lúc cần thiết cho một sự can
thiệp như thế giới đã từng can thiệp và sẽ can thiệp ở nhiều nơi mà dân
chúng trong nước bị đàn áp bởi chính quyền của nước họ.
Chúng
ta phải hổ trợ tối đa các hoạt động của đồng bào trong nước đòi hỏi tự
do, dân chủ, đặc biệt của những nhà trí thức, những người cộng sản củ
đang thất vọng và phẫn uất với chế độ đã phản bội họ, những nông dân ở
Miền Bắc đã đứng lên chống lại cán bộ cướp ruộng, cướp đất của họ và
đánh đuổi bọn Công An đến giải tán họ.
Trước
cái khí thế đáng khâm phục của đồng bào đang dâng lên chống lại cường
quyền, chúng ta phải ngăn tránh mọi hành động vô tình hay gián tiếp tiếp
tay củng cố một chế độ đã và đang tận tình khai thác cái thân thể đã
héo mòn và suy nhược của Đất Nước cho cái túi tham không đáy của những
kẻ cầm đầu và thừa hành của chế độ.
Chúng
ta không để cho Cộng sản Hà Nội biến chúng ta thành một loại con tin
chỉ vì chúng ta muốn về thăm quê hương. Nếu vì những lý do gia đình hết
sức đặc biệt mà phải về trong một thời gian ngắn thì mổi một người trở
về ấy phải tìm mọi cách thuận lợi và hửu hiệu nhất để thông báo cho đồng
bào trong nước biết rằng nhiều cường quốc và lực lượng dân chủ trên thế
giới đang tố cáo và cảnh cáo nghiêm khắc chính phủ Hà Nội về những
chánh sách và hành động thô bạo vi phạm dân quyền và nhân quyền, kiểm
soát chặc chẻ và đàn áp các tôn giáo. Các cường quốc và lực lựng dân chủ
này đứng đầu là Hoa Kỳ sẽ không ngần ngại tiếp tay hổ trợ cho các dân
tộc đứng lên tranh đấu cho tự do dân chủ của họ như Tổng Thống Georges
W. Bush đã tuyên bố long trọng để mở đầu nhiệm kỳ thứ hai này của ông.
Hơn
bao giờ hết, đồng bào Việt ở hải ngoại phải đóng góp công của, năng
lực, tài trí của mình vào sự nghiệp xây dựng một vận hội mới tự do, dân
chủ, hoà bình và tiến bộ cho Quê Hương .Hơn lúc nào hết, chúng ta phải
cảnh giác trước các mưu mô, các thủ đoạn của Cộng đảng nhằm lung lạc
tinh thần, chia rẻ hàng ngũ chúng ta.
Chính
nghị quyết hớ hênh số 36 của bộ Chính trị Cộng đảng Hà Nội đã tự vạch
trần các âm mưu ấy khi đưa ra những luận điệu tuyên truyền nịnh bợ rẻ
tiền đối với Việt kiều đồng thời xen lẫn một lời hù dọa trẻ con lỗi thời
và lạc chổ với những người chống lại họ đang ở nước ngoài và là công
dân của các nước ấy ! Và rất đỗi lạ lùng khi họ đòi giúp đỡ cho Việt
kiều , hầu hết ở Âu Mỹ, nơi mà người dân có lợi nhuận trung bình từ
sáu-mươi-lăm đến một trăm lần nhiều hơn lợi nhuận của đồng bào ta ở quê
nhà, mà Đảng ta và Nhà Nước ta không hề đếm xỉa đến và đành đoạn bỏ
quên.
* * * * *
V - Nói với thế hệ trẻ, con cháu Lạc Hồng
Trong
cộng đồng người Việt ở hải ngoại, ngoài sự thành công của các bậc cha
anh, thế hệ trẻ trên dưới ba mươi đã làm rạng danh cho dân tộc Việt ở Âu
Châu cũng như ở Mỹ Châu, Úc Châu trên phương diện học vấn và cũng đã
hội nhập khá dễ dàng các quốc gia nơi họ trưởng thành.
Tôi
muốn nói thêm vài lời với các bạn trẻ ấy, với thế hệ lớn lên hoặc sinh
trưởng ở hải ngoại. Nói thêm vì các cháu chưa biết nhiều hay chỉ biết
quê hương qua những tin tức của báo chí và cac phương tiện truyền thông
khác, qua những lời kể lại của những người nào đấy, cố nhiên với những
nhận định của họ, có thể phản ảnh đúng sự thật, có thể không vì thiếu
tính khách quan. Hoặc có thể các cháu có về thăm quê hương nhưng chưa đi
đến nhiều nơi trong nước mà chỉ có thì giờ thăm vài thắng cảnh, vài di
tích lịch sử, thăm bà con và sống vài hôm ở vài đô thị lớn như Hà Nội,
Sài Gòn, v.v ... Nhưng các cháu không có đủ thì giờ và người hướng dẫn
để quan sát tận nơi và nhiều nơi, đời sống thực, kham khổ, của nhiều
giới đồng bào, xa cách và tương phản với cảnh tượng phồn hoa, thịnh
vượng giả tạo, bề ngoài, phô trương lố bịch như một sự thách thức không
kiềm chế và kiêu căng đối với thân phận hẩm hiu của đại đa số, của quảng
đại quần chúng , nghĩa là của hơn bảy-mươi triệu người tức hơn 87 %
tổng số dân tám-mươi triệu người trong nước.
Mười
triệu người may mắn hầu hết ở thành thị, một ít ở nông thôn, gồm ở đỉnh
cao nhất, giới “tư bản đỏ “ giàu từ vài chục triệu đến nhiều trăm triệu
đô la Mỹ. Các nhà tư bản này là các cấp lãnh đạo đảng Cộng sản và Nhà
Nước, các cán bộ có quyền thế và đía vị trong suốt hệ thống dọc và ngang
của chính quyền và trong các xí nghiệp quốc doanh. Bên cạnh tư bản đỏ
là giới tư bản “vòng ngoài” chỉ đường mách nước, cộng tác làm ăn chia
phần, cũng giàu có như tư bản đỏ.
Không
như các cháu ở nước ngoài phải cố gắng học hành,xin trợ cấp, học bổng,
vay mượn và nhiều lúc phải làm việc thêm đặng có đủ tiền “ăn học“ở bậc
đại học, không thiếu các con cháu của các nhà tư bản nói trên đang ở bậc
trung học phổ thông đã được gửi đi du học ở Âu Mỹ, tiêu xài không giới
hạn, vượt hẳn con nhà giàu ngoại quốc, như muốn trả thù cho thời kỳ bố
mẹ còn là vô sản thứ thiệt, một thời kỳ mà họ không dám nhắc đến nữa vì
sợ bị các đồng chí củ lên án phản bội lý tưởng và bỏ rơi hàng ngủ !
Trong
lúc ấy, tại Thái Bình ổ Miền Bắc, Quảng Nam ở Miền Trung, Cà Mâu ở tận
cuối Miền Nam và khắp các nơi khác, nhiều chục ngàn em bé đang còn ở bậc
tiểu học đã phải bỏ học trong niên khóa 2004-2005 này vì cha mẹ các em
không “ chạy “ ra tiền để đóng góp cho trường!
Các
cháu đang ở kinh đô ánh sáng Paris, các cháu đang làm việc ở trong một
toà nhà chọc trời lộng lẫy ở New York hay Chicago , làm sao các cháu
quên đành đi được các em bé đáng thương này và các em bé khác đang ăn
xin trước các khách sạn, đang chạy theo xin tiền các du khách hay đang
bán thân để nuôi cha mẹ già như đã kể trên. Cũng như các cháu, các em bé
bất hạnh này mang cùng với cháu, với tất cả cộng đồng Việt Nam ở hải
ngoại, một giòng máu Lạc Hồng, nhưng vận số rủi ro đã để các em ra đời
dưới bầu trời xã hội chủ nghĩa của quê hương.
Nhiệm
vụ của tất cả chúng ta, cao niên, trung niên và thanh nữ, thanh niên
như các cháu là phải góp phần tích cực và đắc lực vào công cuộc tìm kiếm
và thực hiện một giải pháp khả dĩ mang lại tự do, dân chủ cho đất nước,
mở đường cho một vận hội mới tươi sáng cho toàn thể dân tộc.
Không
có một cơ hội nào thuận lợi hơn, không có một vinh dự nào xứng đáng hơn
là được cống hiến mọi nỗ lực và khả năng của chúng ta vào sự nghiệp lớn
lao này, vào lúc này, khi mà trong nước cũng như ở khắp thế giới những
huyền thoại về Hồ Chí Minh, về chiến tranh
chống
Mỹ, chống tư bản đế quốc, về thiên đàng hứa hẹn của Đảng v.v ... đã sụp
đổ và tan biến như một luồng gió độc thổi qua và những sự thật của lịch
sử đã được phơi bày và kiểm chứng mà không còn ai chối cải được nữa ,
và đặc biệt hơn nữa, khi mà giờ đây diễn biến hoà bính đang chuyển động
mạnh, sẽ dẫn đến mục đích cuối cùng: dân chủ hoá nước Việt Nam.
Ngoài
việc lo cho đời sống cá nhân và gia đình, mổi một chúng ta vẫn có thể
luôn luôn vươn mình lên để theo đuổi và thực hiện một lý tưởng cho cuộc
đời , và còn lý tưởng nào cao đẹp hơn, thiết thân hơn, thiêng liêng hơn
là phục vụ cho quê hương, cho giống nòi của mình. Trưởng thành xa tổ
quốc, các cháu sẽ gặp được nơi môi trường phục vụ này những cơ hội gần
gủi với nguồn gốc, xa tránh được nổi lo âu lạc mất căn tính (perte
d’identité, loss of identity) điều mà bất cứ ai lớn lên ở xứ lạ quê
người cũng có thể cảm nhận một ngày nào đó khi bơ vơ như lạc lỏng giữa
những người có thể là bạn bè gần gủi nhưng màu da, chủng tộc khác nhau
chưa kể phong tục tập quán nhiều lúc không giống nhau và chắc chắn không
cùng một ngôn ngữ.
Tiếp
đến nhưng chưa phải là lý do cuối cùng, từ phương vị một chuyên viên dù
tài giỏi chăng nữa nhưng luôn luôn thúc thủ trong địa hạt chuyên môn
của mình ở nước ngoài mà người tài không thiếu trong các quốc gia phát
triển, các cháu có thể trở thành những thành phần quan trọng trong việc
tái thiết và hiện đại hóa xứ sở, trở thành những nhân vật góp phần hoạch
định các kế hoạch, các chính sách của Nhà Nước Việt Nam tương lai, và
biết đâu, và tại sao không, trở thành những người lãnh đạo của một Nhà
Nước mà các cháu và cha,mẹ, anh, chị, em của các cháu sẽ cùng đồng bào
trong nước đứng lên xây dựng trong tiến trình dân chủ hóa quê hương, một
tiến trình đang được đẩy mạnh và không một thế lực nào ngăn cản được.
Dân
số Việt Nam đã bắt đầu vượt quá tám-mươi triệu. Nếu được dân chủ hoá,
hiện đại hoá, canh tân hóa, lành mạnh hóa, nếu được lãnh đạo bởi những
người yêu nước, thương dân, có khả năng, có đức độ, chắc chắn quê hương
của chúng ta sẽ chiếm được một địa vị xứng đáng trong cộng đồng các nước
văn minh tiền tiến trong thế giới.
Các
cháu phải tham dự, phải dành chổ trong cuộc hành trình về nguồn và
hướng tới bến vinh quang này, một cuộc hành trình đòi hỏi nhiều nỗ lực
nhưng đầy phấn khởi và chứa chan hy vọng ở tương lai.
Hẵn
nhiên, các cháu tiếp tục như thường lệ công việc nghề nghiệp của mình
tại quốc gia các cháu đang cư ngụ cho đến ngày các cháu tự quyết định
lấy tương lai theo tình hình mới của quê hương. Nhưng giờ đây, sự tham
gia hoạt động chỉ đòi hỏi ở các cháu quyết tâm đóng góp tài trí và tâm
huyết của các cháu vào công cuộc chung của những người muốn biến đổỉ
hiện trạng của nước nhà bằng một đường lối tranh đấu quả cảm, kiên trì,
bằng những phương thức dân chủ công khai trước thế giới đang nhìn thẳng
vào Việt Nam và sẵn sàng hổ trợ khi cần thiết.
Các
cháu không thể giam giữ tuổi trẻ của mình trong cái vỏ ốc nhỏ bé để
hưởng thụ và tự mãn với vài tiện nghi vật chất rồi chôn vùi cả cuộc đời
như một kẻ vô danh lạc lõng trong cái xã hội mà các cháu đã hội nhập.
Đã
đến lúc các cháu phải lựa chọn giữa một cuộc đời tầm thường và phí phạm
như vậy và một cuộc đời hào hứng, đầy ỳ nghĩa và hữu ích cho các cháu,
cho quê hương của các cháu, một cuộc đời mà các cháu có quyền hãnh diện
và có thể mang lại vinh quang xứng đáng cho chính các cháu.
* * * * *
Làm chính trị, tham gia chính trị hay không, giữa lúc quê hương đang chờ đợi ?Thiết tưởng chúng ta đã trả lời minh bạch.
Câu trả lời của những người Việt ở hải ngoại mà tâm tư luôn luôn hướng về quê hương, đất tổ, với niềm tin bất diệt ở một tương lai sáng lạng của nước Việt Nam tự do, dân chủ, hòa bình, tiến bộ, nối tiếp lại với những truyền thống nhân bản, hòa ái, đạo đức, và quyết tâm mạnh tiến trên con đường canh tân toàn diện sau khi cái vòng ngoặc tai ương của lịch sử được khép lại vĩnh viễn.
Paris, đầu Xuân Ất Dậu, 2005
Lê Trọng Quát
(1) Vài danh từ có nghĩa chuyên môn được dịch kèm theo Pháp ngữ và Anh ngữ thể theo lời yêu cầu của một số độc giả không quen nhiều với các danh từ Hán Việt.
-Xin lưu ý : Nhiều năm đã trôi qua nhưng vấn đề chính yếu trình bày vẫn còn nguyên tính cách thời sự và trong hiện tình ở quê hương, sự dấn thân của mọi người yêu nước, yêu chuộng tự do, dân chủ, đặc biệt các bạn trẻ, cần phải được khẩn thiết đặt ra một cách toàn diện hơn bao giờ cả. Những số liệu ghi trong bài cần được cập nhật theo hiện tại.
Paris, tháng 7, 2013
Phong Trào Dân Tộc Tự Quyết Việt Nam
33 Panorama 95800 Cergy – France – ltqvina@gmail;com – Tél. 01 3422 1861
Kính thưa Ngài Thủ Tướng Canada
Stephen Harber,
Trích chiếu: Lời kêu gọi cho quyền Dân Tộc Tự Quyết Việt Nam.
Kính thưa Thủ Tướng,
Đã hai lần, bức màn sắt rủ xuống Việt Nam.
Lần thứ nhất, tháng 8, 1945, đảng cộng sản Việt Nam đã áp lực Vua Bảo Đại thoái vị khi nhà Vua vừa thu hồi độc lập hoàn toàn cho quốc gia sau khi quân đội chiếm đóng Nhật Bản đầu hang Đồng Minh. Tiếp theo, chiến tranh Việt Nam, thường được gọi là chiến tranh Đông Dương vì lan qua Cam Bốt và Lào, chấm dứt với Hiệp Định Giơ-Neo ngày 20 tháng 7, 1954, chia đôi nước Việt Nam thành hai phần Nam Bắc, ranh giới ở vĩ tuyến 17. Thay vì thành lập một chế độ dân chủ đặng cho dân chúng tham gia tổng tuyển cử thống nhất đất nước chiếu theo Hiệp Định, cộng sản Bắc Việt đã thiết lập một chế độ độc tài kiểu Staline, nhận chìm Miền Bắc Việt Nam trong một biển máu với hơn một trăm nghìn nạn nhân qua một cuộc cải cách ruộng đất dã man, dài nhất trong lịch sử ( 1953-1956).
Gần một triệu người Miền Bắc kinh hoàng đã phải nắm lấy cơ hội đầu tiên do Hiệp Định Giơ Neo cung ứng để vào Nam, tạo thành một cuộc di cư quan trọng nhất chưa từng xẩy ra trong lịch sử nước này. Nhưng cộng sản Việt Nam vẫn chưa thỏa mản tham vọng quyền lực , chuẩn bị ráo riệt cuộc chiến thứ hai với mục tiêu cuối cùng: thôn tính Miền Nam, bành trướng qua Lào và Cam Bốt.Vì vậy, hiệp ước vãn hồi hòa bình đầu tiên đã bị nhanh chóng vi phạm, lôi cuốn dân tộc Việt vào tấn thảm kịch thứ nhì,sẽ kéo dài hai thập niên nữa:1956-1975!
Lần thứ hai, ngày 30 tháng tư 1975, chúng hoàn tất cuộc xâm lăng Việt Nam Cộng Hòa, dẫm nát Hiệp Định Paris ngày 27 tháng giêng 1973 “ chấm dứt chiến tranh và tái lập hòa bình ở Việt Nam” và Văn kiện cuối cùng ( Acte final) ngày 2 tháng 3, 1973 mà chúng đã ký cam kết dưới danh xưng Chính Phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa cùng với mười một chính phủ khác – Pháp,Hoa Kỳ, Anh quốc, Nga Sô, Trung Cọng, Gia –Nã –Đại, Ba lan, Việt Nam Cộng Hòa (Miền Nam VN), Nam Dương, Hung -Gia -Lợi, và Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam ( công cụ của cộng sản Bắc Việt, bị chúng giải tán sau khi thôn tính Miền Nam VN) – với sự hiện diện của Tổng Thư Ký Liên hiệp Quốc, “cam kết bảo đảm chấm dứt chiến tranh, duy trì hòa bình ở Việt Nam, tôn trọng các quyền quốc gia căn bản của nhân dân Việt Nam và quyền tự quyết của nhân dân Miền Nam Việt Nam, và đóng góp cùng bảo đảm nền hòa bình ở Đông Dương………” Và vì vậy, từ gần bốn mươi năm nay, nhân dân Việt Nam tưởng niệm ngày bi thảm 30 tháng tư 1975, ngày từ đấy xứ sở của họ đã trở thành một nhà tù vĩ đại làm nhớ đến nhà tù – goulag – Nga Sô của hai thập niên năm mươi, sáu mươi thế kỷ trước. Sau khi “ giải phóng “ Miền Nam, non 500.000 người Miền Nam VN, công chức, quân nhân, y sĩ, ký giả, nhà văn, tu sĩ, của “ chế độ củ” bị tống giam trong khoảng một trăm trại giam mạo danh trại “cải tạo”, nơi mà hàng ngàn người đã chết vì kiệt sức, tra tấn, hành hạ. Thời gian giam giữ lao động khổ sai trung bình từ tám đến mười năm nhưng người chiếm kỷ lục dài hạn là ông Nguyễn Hữu Cầu mới được trả tự do sau ba –muơi - bảy năm tù ! Đứng bên cạnh ông, người tù nổi tiếng Nelson Mandella chỉ là một bóng mờ.
Cùng lúc, ở ngoài các trại giam, người dân nào cũng có thể bị đánh đập, bắt bớ, giam cầm vì bất cứ lý do nào, dù chỉ nói lên một lời bất đồng ý kiến với một chính sách của chính phủ, của đảng cộng sản, hay một sự trưng dụng đất đai mà không bồi thường thỏa đáng.
Hàng ngàn vụ như vậy vi phạm trầm trọng các nhân quyền và dân quyền căn bản đã bị các nạn nhân, các tổ chức bảo vệ nhân quyền tố cáo với các chính phủ dân chủ trên thế giới, với Liên Hiệp Quốc, và gần đây với Hội Đồng Nhân Quyền nhưng thật là trớ trêu tột cùng, Cộng Hòa Xã Hội Chủ nghĩa Việt Nam cũng vừa vào an tọa chính thức trong chiếc ghế của họ trong Hội Đồng ! Sự trả tự do cho vài công dân bị kết tội một cách phi pháp và đã bị giam cầm nhiều năm chỉ nhằm xoa dịu dư luận quốc tế trong lúc sự đàn áp gia tăng khắp nước. Ai có thể tin rằng những người Việt yêu nước biểu tình chống hành động xâm chiếm của Trung Cọng – chiếm quần đảo Hoàng Sa và một phần quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền hợp pháp của Việt Nam từ nhiều thế kỷ nay – lại bị ngay chính quyền đương hành trừng trị nghiêm khắc ?
Quả thật là quá đáng ! Một chính sách khủng bố của Nhà Nước như vậy phải được chấm dứt.Gần khắp nơi trong nước, từ bắc chí nam, nông dân và thị dân, thợ thuyền và trí thức, sinh viên trẻ và cán bộ già cộng sản thức tỉnh,tướng lãnh và sĩ quan hưu trí và thất vọng của Quân Đội Nhân Dân VN, các tu sĩ Phật giáo, Công giáo,Tin Lành, Hòa hảo, Cao Đài, tất cả đều cùng nhau đòi hỏi tự do và dân chủ. Toàn dân Việt Nam nhất quyết hơn bao giờ cả tranh đấu giành lại quyền dân tộc tự quyết thiêng liêng từ tay lãnh đạo cộng sản và sẳn sang chấp nhận mọi hy sinh. Họ dư biết rằng phải đổ máu mới được tự do. Nhưng họ không bao giờ quên rằng các quyền lực kể trên của thế giới này còn nợ họ sự thực hành lời cam kết trong Hiệp Định Paris “ bảo đảm sự tôn trọng các quyền căn bản của dân tộc Việt Nam, kể rõ: nền độc lập, chủ quyền, sự thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam cùng quyền tự quyết của nhân dân Miền Nam Việt Nam ……! Một sự cam kết cần phải luôn luôn nhắc lại vì đấy chính là một hiệp ước quốc tế không bị vô hiệu hóa bởi thời gian (prescription par le temps- statute of time limitation) và Hiệp Định Paris nói riêng không thể xem là xưa củ ,lỗi thời ( caduc – lapsed ) vì sự đề kháng kiên trì không ngưng nghĩ của dân chúng Việt Nam trong nước và ở hải ngoại suốt các thập niên qua chống lại bạo quyền cộng sản xâm lược, tố cáo chúng công khai vi phạm trắng trợn Hiệp Định Paris 1973.
Quả vậy, mọi hiệp ước quốc tế phải được tôn trọng, qui luật căn bản của luật pháp quốc tế, nếu không được áp dụng thì thế giới của chúng ta chắc chắn sẽ bị phó mặc cho hổn độn, bất ổn kinh niên, cho lý lẽ của kẻ mạnh áp đảo kẻ yếu đối với cá nhân cũng như các dân tộc.
Kính thưa Thủ Tướng,
Được biết Ngài là một trong những nhà lãnh đạo hiếm hoi cùa thế giới, binh vực các dân tộc bị áp bức đổng thời là đại diện một quốc gia quan trọng ký kết Văn kiện cuối cùng ( Acte final) của Hiệp Định Paris 1973, nên với tư cách Quốc – Vụ -Khanh trong Nội Các của Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa đã ký kết hai văn bản ghi trên, và thay mặt cho dân tộc khốn khổ chúng tôi, tôi thành khẩn thỉnh cầu Ngài can thiệp mạnh mẻ với các vị lãnh đạo các chính phủ đồng ký Văn kiện cuối cùng đặng thi hành sự cam kết bảo đảm quyền tự quyết của dân tộc Việt Nam gồm có, như HĐ và Văn kiện xác định: tổng tuyển cử tự do, dân chủ đặng quyết định thể chế chính trị cho quốc gia, thống nhất xứ sở, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, các quyền căn bản của công dân.
Xin Ngài Thủ Tướng thể nhận nơi đây sự tôn kính và lòng tri ân sâu xa của dân tộc Việt Nam chúng tôi.
Pháp Quốc, ngày 1 tháng 12, 2014
TM. Phong Trào Dân Tộc Tự Quyết Việt Nam
Chủ Tịch
Lê Trọng Quát
Quóc-Vụ-Khanh Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa Đệ Nhị
Chủ Tịch các Ũy Ban Nội Vụ, Quốc Phòng Quốc Hội VNCH Đệ Nhất
Hội Thẩm Viện Bảo Hiến VNCH Đệ Nhất
Hội Nghị Bàn Tròn về Biển Đông, Hiệp Định Paris 73 và TPP, Phần # 2
Hội Nghị Bàn Tròn về Biển Đông, Hiệp Định Paris 73 và TPP, Phần # 1
Hội Nghị Bàn Tròn về Biển Đông, Hiệp Định Paris 73 và TPP, Phần # 2
************************************
PHONG TRÀO DÂN TỘC TỰ QUYẾT VIỆT NAM — CƯƠNG LĨNH
Hơn lúc nào hết, Việt Nam đang đứng trước một
nguy cơ nghiêm trọng.
Các cuộc gây hấn của Trung Cọng tăng gia trên lãnh thổ
và lãnh hải, đặc biệt trên vùng đặc quyền kinh tế, chiếm cứ quần đảo Hoàng sa
và một phần quần đảo Trường Sa.
Trên lục địa, từ Bắc chí Nam, từ Cao nguyên Trung Phần
đến vùng Duyên hải, các xí nghiệp Trung Cọng phát triển hoạt động, lập thành
những cộng đồng tự trị hành chính trên thực tế như họ đang ở trên đất nước họ.
Nhiều chục nghìn mẫu rừng ở những khu vực có tính cách
chiến lược vùng biên giới đã được cho họ thuê dài hạn gần cả trăm năm khiến cho
những cựu tướng lãnh cộng sản cũng phải lo ngại cho nền an ninh quốc gia.
Nước Việt Nam đã tự đặt mình trong một tình trạng gần
như phân chia quyền lực với chúng, tệ hại hơn cả thời triều cống Trung Hoa các
thế kỷ xưa và nhắc nhở lại một nghìn năm bị Tàu đô hộ cho đến năm 1428
được Lê Lợi – trở thành vua Lê của triều đại Hậu Lê – giải thoát sau một
cuộc trường kỳ mười năm chiến đấu oai hùng đánh đuổi quân Minh ra khỏi bờ
cõi.
Mưu toan tái chiếm nước ta cũng bị vua Quang Trung
(tức Nguyễn Huệ) đánh bại năm 1789, đại quân Thanh – triều đại Mãn Thanh- tan
nát. Nhắc lại lịch sử chỉ để nhấn mạnh đến mối đe dọa ngày càng trầm trọng do
chính sách bành trướng của Trung Cọng ở Đông Nam – Á, nơi mà nước ta bởi vị trí
địa lý có thể trở thành nạn nhân đầu tiên.
Trước tình trạng khẩn trương này, đồng bào ta biểu
tình chống lại chúng, đòi hỏi giới lãnh đạo quốc gia phải bảo vệ hữu hiệu
toàn vẹn lãnh thổ. Nhưng đồng bào đã được chính thức trả lời mà không, phải
chờ đợi : một cuộc đàn áp thô bạo.Mọi người đều kinh ngạc bởi thái độ của
nhà cầm quyền, một thái độ không thể hiểu khác hơn là một sự khuất phục
hoàn toàn kẻ thù.
Trong lúc ấy, bộ máy Nhà Nước tiếp tục khống chế dân
chúng, chà đạp các dân quyền và nhân quyền căn bản.Tệ nạn tham nhũng vẫn được
hệ thống hóa, hố sâu được đào sâu hơn giữa những nhà « tư bản đỏ »,
triệu phú, tỉ phú đô la Mỹ, và các tầng lớp nông dân, thợ thuyền sống dưới mức
nghèo khổ, các thị dân không có việc làm khốn cùng, tuyệt vọng.
Nền kinh tế quốc gia được tóm thu thành một nước cung
cấp nhân công rẻ tiền may quần áo và đóng giày cho các nhà đầu tư ngoại quốc
trong lúc các nước dân chủ trong vùng Đông Á đã thực hiện những bước tiến vượt
bực đến tương lai như Thái Lan, Tân- Gia- Ba, Mã –Lai, không kể Nhât bản, Đại
Hàn đã được liệt vào những nước phát triển lớn của thế giới. Giữa Việt Nam ngày
nay – một thời được gọi là Hòn ngọc Viễn Đông – và những nước láng giềng không
cộng sản, sự so sánh thật não lòng : áp bức và nghèo khổ ở nước ta, dân
chủ và thịnh vượng ở nước bạn!
Chúng tôi, những người yêu nước, yêu dân chủ ở hải
ngoại, cương quyết và liên đới kết hợp với đồng bào trong nước, đã chịu
đựng trong 70 năm ách cộng sản ở Miền Bắc, hay 40 năm một chế độ lỗi thời lạc
hậu ở Miền Nam, chúng ta tất cả, quyết định cùng đứng lên tranh đấu chống lại
chế độ cộng sản đặng giành lại quyền tự quyết của dân tộc.
Chỉ từ khi ấy chúng ta mới thiết lập được
một chính thể dân chủ đủ khả năng vận dụng tất cả sinh lực quốc gia để bảo
vệ và tái thiết xứ sở.
1- Chế độ « Xã Hội chủ nghĩa » của đảng CSVN
đã chứng tỏ vô cùng tồi tệ cần phải được thay thế bởi một chế độ dân chủ
qua một cuộc tổng tuyển cử tự do, do một thẩm quyền độc lập với chính
quyền hiện hữu tổ chức và đặt dưới sự giám sát quốc tế. Tất cả mọi người
Việt ở trong hay ở ngoài nước đều đương nhiên có quyền tham dự vô điều
kiện.
2- Chúng tôi giới thiệu với đồng bào cử tri tương lai
chính thể Cộng Hòa để đồng bào chọn lựa, một chính thể đã được áp dụng tại
các cường quốc dân chủ từ hơn hai thế kỷ nay, tại hầu hết các quốc gia trên thế
giới từ ngày đệ nhị thế chiến chấm dứt, và được luôn luôn công nhận là một bảo
đảm hoàn hảo nhất cho sự thể hiện ý muốn của nhân dân, của nền dân chủ, tự do,
bình đẳng,của tình đồng bào huynh đệ.
3- Xuất hiện sơ khai từ hai-mươi- lăm thế kỷ trong
thời cổ La – Mã, Hy –Lạp, chính thể Cộng Hòa đã trải qua bao nhiêu thăng trầm
của lịch sử thế giới, định đoạt số phận của nhiều quốc gia lớn nhỏ, cứu thoát
nhiều dân tộc khỏi sự tàn bạo của các nhà độc tài.
Dù bị Cộng Sản gây chiến, chính thể Việt Nam Cộng Hòa
ở Miền Nam đất nước đã bảo đảm được cho dân một thời kỳ dân chủ, tự do, thịnh
vượng cho đến cuối tháng tư định mệnh 1975, bị các đồng minh bỏ rơi, phải ngả
gục dưới hỏa lực của quân thù cộng sản Việt và cộng sản quốc tế.
4- Nhưng Việt Nam Cộng Hòa không vĩnh biệt. Như con
phượng hoàng thần thoại sống lại từ tro tàn của nó, Đệ Tam Cộng Hòa sẽ ra
đời vì ngày tàn của chế độ cộng sản đã gần kề. Một sự cáo chung không tránh
được vì uất hận, dân chúng sẽ nổi lên chống những kẽ đã áp bức họ, vì yêu nước
đồng bào sẽ nổi lên chống những kẻ đặt quyền lợi của đảng trên sự
tồn vong của đất nước, vì bị bỏ rơi những người vô sản sẽ nổi dậy chống
những đồng chí cũ đã phản bội và bỏ mặc họ trong khốn cùng và tệ hơn nữa,
còn phô bày khoe khoang trước mắt họ khối tài sản không kể xiết của chúng.
5- Một đời sống mới sẽ khai mở với chính thể Đệ Tam
Cộng Hòa, xây dựng trên nền tảng đồng tâm nhất trí của toàn dân, kết hợp
tất cả các tầng lớp xã hội, không phân biệt tín ngưỡng, nguồn gốc, không phân
biệt quá khứ tập thể hay cá nhân, cùng nhau xiết chặt hàng ngũ bảo
vệ tổ quốc, tái thiết quốc gia.
Nhằm thực hiện mục đích tối thượng này, một quyết định
« Tha Thứ toàn thể » -ngoại
trừ những kẻ đã mưu toan nhuộm máu cuộc cách mạng dân chủ của toàn dân -sẽ được ban bố như quốc gia Nam Phi đã khôn ngoan hòa
giải được dân tộc của họ, tránh được sự tự hủy sau những thế kỷ người da
đen bị người da trắng đô hộ và kỳ thị nặng nề.
6- Nước Việt Nam mới sẽ xây dựng tương lai của mình
theo khuôn mẫu một nền dân chủ tân tiến đã được thế giới nhìn nhận như một bảo
đảm cho các quyền tự do cá nhân, nhân quyền và dân quyền, và sẽ chọn lựa một
thể chế chính trị khả dĩ duy trì được ổn định chính trị mà không hạn chế các
quyền chính đáng của đối lập ngõ hầu ngăn chận mọi mưu toan chuyên chế độc tài
của một người hay một đảng phái.
Một tổng- thống -chế hay đại-nghị-chế hay một công
thức hỗn hợp phù hợp với các thực tại của xứ sở sẽ được quốc dân chọn lựa.
7- Về tái
thiết quốc gia, trách vụ hàng đầu sẽ là biến đổi tình trạng thoái hóa hiện tại
của xứ sở, một nước chuyên cung cấp nhân công rẻ tiền may quần áo và đóng giày thành một nền kinh tế sản xuất kỹ nghệ
và dịch vụ, đặc biệt về kỹ thuật mới khả dĩ tạo được nhiều giá trị thặng dư,
tăng gia lợi nhuận đáng kể cho nhân công và đẩy mạnh công cuộc canh tân và tiến
bộ.
Chính sách kinh tế quốc gia sẽ là tự do kinh doanh,
khích lệ cạnh tranh, khả năng sản xuất hoàn hảo và sáng tạo cùng lúc quyền tư
hữu được tuyệt đối tôn trọng.
Quốc gia đặc biệt tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các
giới nông dân, thợ thuyền trở thành sở hữu chủ ruộng đất, nhà cửa và phương
tiện sản xuất của riêng mình đặng chấm dứt tình trạng nghèo khổ kinh niên
và kiến tạo một kiểu mẫu tư sản đại chúng cho đại đa số đồng bào.
8- Là một nước sản xuất gạo, Việt Nam phải nổ lực
nhiều để gia tăng phẩm chất của gạo, cải thiện việc tồn trử, lưu giử và chuyên
chở. Việc nghiên cứu và nắm vững thị trường quốc tế ngũ cốc cũng như kỹ
thuật thương mải hóa khối lượng gạo sản xuất phải là mối quan tâm hàng
đầu của các cơ cấu trách nhiệm của công quyền và tư nhân. Nhờ những
nỗ lực này, lợi nhuận của nông dân chắc chắn sẽ tăng gia.
Về ngành ngư nghiệp, vấn đề chính yếu hẳn nhiên là
sách lược gây hấn của Trung Cọng mà giải pháp sẽ nằm trong khuôn khổ chính sách
đối ngoại và quốc phòng tóm lược sau đây.
9- Yêu chuộng hòa bình và mong muốn thắt
chặt quan hệ hữu nghị với tất cả các quốc gia trên thế giới trên căn bản
cùng tôn trọng quyền lợi và chủ quyền của mỗi bên, phù hợp với luật pháp quốc
tế, nước Việt Nam tương lai sẽ góp phần tối đa của mình vào công cuộc duy trì
an ninh và hòa bình trong vùng Đông- Nam- Á, Á Châu và thế giới.
10- Đối vời Cộng Hòa Nhân Dân Trung
Quốc (CHNDTQ), quốc gia Việt Nam tái khẳng định long trọng chủ quyền của
mình trên hai quần đảo Hoàng sa và Trường Sa, đã được thế giới -kể cả Trung Hoa
Dân Quốc- công nhận từ nhiều thế kỷ. Sự chiếm cứ bởi Trung Cọng, bất hợp
pháp bằng vũ lực, quần đảo Hoàng Sa năm 1974 và một phần quần đảo Trường Sa năm
1988 phải chấm dứt và nguyên trạng trước đấy phải được tái lập.
Mọi tranh chấp trên biển phải được giải quyết chiếu
theo Định ước Liên Hiệp Quốc về luật biển 1982 chứ không phải bằng bạo lực.
Dân tộc Việt Nam luôn luôn muốn làm bạn với các dân
tộc trên thế giới, đặc biệt với các nước láng giềng, đương nhiên với dân tộc
Trung Hoa mà Việt Nam sẵn sàng hợp tác một cách ngay thẳng vì quyền lợi chung
của hai nước. Chính như vậy màTrung Hoa Dân Quốc và Quốc Gia Việt Nam và
tiếp theo là Việt Nam Cộng Hòa đã có những tương quan ưu đãi với nhau
trong lợi ích chung cho đến năm 1975.
11- Hoa Kỳ
ở bên kia bờ Thái Bình Dương cũng như hầu hết các quốc gia Á Châu – Thái Bình
Dương luôn luôn là thân hữu của Việt Nam dù bao nhiêu biến động của lịch sử đã
xẩy ra. Nền an ninh và thịnh vượng
của cả vùng rộng lớn này của thế giới đòi hỏi sự liên kết của tất cả các quốc
gia trong vùng, một sự liên kết mà hình thức và nền móng cần được tìm
kiếm, thích ứng với các đặc tính địa phương và tránh được những hiểm trở phức
tạp của công cuộc lớn lao này.
12- Đã có
một thời chiến tranh thì phải có một thời hòa bình ngự trị.Tuy vậy, bởi tình trạng địa lý chính trị của mình và
với kinh nghiệm đầy những biến cố bi thảm, Việt Nam hậu cộng sản sẽ làm hết sức
mình để duy trì hòa bình đồng thời nỗ lực tối đa để bảo vệ tổ quốc trên
lãnh thổ và trên biển khơi. Một
nền quốc phòng hữu hiệu sẽ được thực hiện đồng thời với một hệ thống kháng
chiến sẽ được tổ chức bao trùm cả nước, từng làng xã, từng đô thị, khiến cho sự
chiếm đóng của quân thù không tồn tại được bởi chúng phải trả giá quá đắt về
nhân mạng.
Dù rằng được xây dựng trên chính thực lực của mình,
nền quốc phòng của ta sẽ có lợi ích lớn nếu trở thành một thành tố cơ hữu của
một tổ chức phòng thủ chung cho vùng Đông – Nam – Á hoặc Đông – Á Châu đặng
bảo đảm tập thể và hữu hiệu an ninh và hòa bình cho vùng đất tương
lai này của địa cầu.
13- Thế
nhưng, một trọng trách khác nữa là tái thiết Việt Nam, nhằm tái kiến trúc mô
hình xã hội, một xã hội tha hóa và thoái hóa đến cực điểm bởi chế độ cộng sản
độc tài toàn trị mà mục đích cuối cùng của cuộc đời là « làm
tiền ».Tất cả mọi phương cách làm được tiền đều
tốt, từ tệ nạn tham nhũng hệ- thống-hóa từ cấp cao nhất đến cấp thấp trong bộ
máy chính quyền cho đến vô số trọng tội và khinh tội không bị trừng phạt vì can
phạm là cán bộ đảng ta. Khỏi cần nói đến sự phân quyền vì chỉ có một
quyền lực độc nhất : Cộng đảng mà điều 4 quái đản của hiến pháp Việt Nam
đã khẳng định quyền lực tối cao và duy nhất của nó trên cả quốc gia và dân
tộc ! Một nước không luật pháp nếu không kể những văn bản lập pháp và
lập qui được ban hành thuận lợi cho những người lãnh đạo hay cần thiết để trừng
trị dân chúng, Việt Nam Xã Hội Chủ Nghĩa không phải là một quốc gia pháp trị.
Những bọn côn đồ được chính phủ tuyển dụng để hành hung những người đối
lập hay bị nghi là đối lập, gợi lại cảnh tượng bọn đâm thuê chém mướn (mafiosi)
ngày nào ở Nữu -Ước. Những phiên tòa chỉ có bề ngoài rải rác nhiều nơi để
xử nhanh chóng tu sĩ, sinh viên, nghệ sĩ, nhà báo đã bày tỏ ý kiến của họ không
thuận lợi cho chính phủ hay cho Đảng hoặc chỉ nói lên sự bất bằng của họ.Tấm
ảnh của linh mục Nguyễn văn Lý bị bịt miệng bởi bàn tay trơ trẻn của một tên
cảnh sát trước viên « thẩm phán » làm cho linh mục không thể tự
biện hộ, đã được truyền đi khắp thế giới và nói lên rõ ràng thế nào là tự
do tín ngưỡng và công lý ở nước Việt Nam.
14-Thật vậy, tái kiến trúc xã hội Việt Nam là
thiết yếu, cần phải thực hiện ngay sau khi thoát khỏi ách cộng sản. Lành mạnh
hóa các tập tục, tái võ trang tinh thần đặng thay đổi bầu khí vẩn đục của xã
hội. Nền văn hóa bị siết chặt trong gọng kìm cộng sản sẽ được giải thoát.
Tự do ngôn luận và tư tưởng được hoàn trả lại cho toàn dân, sáng tạo nghệ thuật
và văn hóa nói chung sẽ được khuyến khích xứng đáng.
Giáo dục sẽ được từ đây giải thoát mãi mãi khỏi các
giáo điều tai hại cộng sản – xã hội chủ nghĩa và trở lại với các nền
tảng xây dựng từ dưới thời Đệ Nhất Cộng Hòa : nhân bản, khai phóng,
khoa học – kỹ thuật, và đại chúng, mục tiêu hàng đầu của bộ môn này.
15-Nhưng một đại công trường công tác xã hội phải
nối tiếp sự biến đổi mô hình
xã hội vừa kểdù phải vận dụng nhiều nổ lực tài chánh
lớn lao mà chỉ có một sự liên đới quốc gia gương mẫu mới thực hiện được và thực
hiện trong nhiều giai đoạn kế tiếp. Đây chính là tổ chức an sinh xã hội, không
thể thiếu vắng trong một quốc gia của thế kỷ 21 mà nền Đệ Tam Cộng Hòa tương lai không thể chối từ được. Tập tục cổ truyền của nước ta đại gia đình nhiều
đời tương trợ nhau thật đáng khâm phục nhưng các khó khăn kinh tế hiện thời
không cho phép nhiều gia đình thi hành được. Quốc gia và cộng đồng dân tộc phải
cùng nhau gánh vác bổn phận tương trợ các công dân cần được tương trợ :
những người cao niên không có lợi tức hoặc đau ốm, những người tàn tật, những
người thất nghiệp đang tìm công việc làm hay huấn nghệ.
Sau cùng, một hệ thống y tế bảo vệ sức khỏe cho tất cả
mọi người phải được sớm thực hiện và miễn phí cho những người có lợi tức
kém. Hơn tất cả các lãnh vực khác, sự liên đới quốc gia có một vai trò
quyết định trong công cuộc an sinh xã hội lớn lao này mà phẩm chất
của đời sống và phẩm giá của mỗi người Việt Nam sẽ tùy thuộc vào đấy.
16- Trước hiểm họa quân thù xâm lăng và với mục đích
cứu quốc, chúng ta yêu cầu các nhà lãnh đạo Cộng Sản Việt Nam phải trả lại,
không chờ đợi nữa, quyền tự quyết cho dân tộc, một quyền thiêng liêng mà các
chính phủ ký kết Hiệp Định Paris 1973 – gồm chính phủ VN Dân Chủ Cộng Hòa
(Miền Bắc), một công cụ của họ, và chính phủ Việt Nam Cộng Hòa (Miền Nam)
của chúng ta– đã công nhận và bảo đảm cho Việt Nam Cộng Hòa và toàn thể Việt
Nam đặng thực hiện thống nhất đất nước theo một tiến trình dân chủ và hòa
bình như minh thị trong Hiệp Định.
Lịch sử sẽ phán xét thái độ của lãnh đạo Cộng sản VN
nhưng ngay từ bây giờ toàn dân sẽ phản ứng với tất cả quyết tâm cần thiết đặng
cứu nguy tổ quốc và thay đổi số phận của mình.
Paris, ngày 9 tháng 9. 2014
TM. PHONG TRÀO DÂN TỘC TỰ QUYẾT VIỆT NAM
CHỦ TỊCH,
LS LÊ TRỌNG QUÁT
Quốc Vụ Khanh Chính Phủ Đệ Nhị VNCH
Chủ Tịch Ủy Ban Quốc Phòng,Trưởng Khối Dân Biểu
Liên Minh Xã HộiQuốc Hội Đệ Nhất VNCH
Hội Thẩm Viện Bảo Hiến Đệ Nhất VNCH
Bewegung fürs Selbstbestimmungsrecht des vietnamesischen Volkes
Politische Plattform
Mehr denn je steht Vietnam vor einer unheimlichen Gefahr.
Die agressiven Handlungen Chinas auf unserem Lande und See, vor allem in den wirtschaftlichen Meereszonen Vietnams, nehmen zu. Unsere Paracels-Inseln und einen Teil der Spratley-Inselngruppe wurden bereits von China mit Gewalt okkupiert.
Überall im Lande, vom Norden bis zum Süden und vom Hochland bis zur Meeresküste gedeihen die chinesischen Firmen. Sie formieren sich zu autonomen Verwaltungsgemeinschaften, als ob sie sich tatsächlich in ihrem eigenen Land befinden würden.
Zehntausende Hektaren von Wälden in den strategischen Grenzgebieten wurden an die Chinesen dauerhaft zum Teil bis zu einhundert Jahren gepachtet.
Es scheint so aus, dass die kommunitischen Regierenden in Vietnam ihre Macht und Interessen mit denen in China teilen würden. Die heutige Lage sieht schlimmer aus als die einstige Zeit, in der Vietnam für eintausend Jahre lang die chinesische Herrschaft erdulden musste.
Der letzten Okkupation des Landes durch China hat Lê Lợi – der künftige König der Späten Lê-Dynastie - 1428 nach einem zehnjährigen heldenhaften Widerstankampf ein Ende gesetzt.
Der Versuch Chinas, sich Vietnam 1789 nochmals einzuverleiben, wurde endlich von Kaiser Quang Trung zunichte gemacht.
Die Geschichte des Landes wird hiermit kurz zur Erinnerung gebracht, um einfach zu betonen, dass die chinesische Expansionspolitik im Südostasien nach wie vor eine lebendige Bedrohung, vor allem für Vietnam als sein direktes Nachbarland, darstellt.
Angesichts dieser äußerst gefährlichen Lage demonstrierte das Volk gegen die Regierenden. Es forderte sie auf, nötige Maßnahmen zu ergreifen, um die nationale Souveränität wirksam zu verteidigen. Sie antworteten ihm aber brutal mit Schlagstöcken, wilden Festnahmen und hohen Gefängnisstrafen. Diese ungewöhnliche Reaktion kann als eine versteckte Kapitulation vor dem Feind verstanden werden.
Der regierende Machtapparat hört nicht auf, das Volk zu erniedriegen. Menschen- und Bürgerechte werden von ihm mit Fuß getreten. Die Korruption wird verstaatlicht und systematisiert. Die soziale Trennung zwischen den armseligen Schichten wie Bauern, Arbeitern, arbeitslosen Stadtbewohnern und den Roten Kapitalisten mit Millionen und Milliarden US Dollars vergrößert sich zusehends von Tag zu Tag.
Die vietnamesische Volkswirtschaft versteht sich als einen Apparat, der nichts anderes als billige Arbeitskräfte an ausländische Investoren im Textil- und Schumachereisektor anbietet. Während die Nachbarländer im Südostasien wie Thailand, Malaysia, Singapur – ohne dabei Japan und Korea zu nennen, weil sie bereits zu den großen Industrieländern der Welt gehören – große Schritte nach vorn in die prospierende Zukunft gemacht haben, bleibt Vietnam weiterhin im erbärmlichen Entwicklungsstadium mit Armut und Unterdrückung.
Aus Liebe vom Land und Volk Vietnams bekräftigen wir im Ausland hiermit die Solidarität mit unseren Kompatrioten im Inland, die bereits seit Jahrzehnten lang die
kommunistische Joch ertragen müssen. Gemeinsam stehen wir alle auf und kämpfen entschieden gegen dieses unzeigemäße Regime, um uns das nationale Selbstbestimmungsrecht zurückzuerobern.
1.Der „real-existierende Sozialismus“ der Kommunistischen Partei Vietnams hat sich als gescheitert gezeigt. Er muss durch ein demokratisches Regime ersetzt werden. Eine freie, allgemeine Wahl aller In- und Auslandvietnamesen wird sich darüber entscheiden. Sie wird durch eine unabhängige Instanz unter der internationalen Kontrolle organisiert.
2. Wir stellen unseren künftigen Wahlberechtigten die Republik als Regierungsform der Zukunf vor. Diese bewährte Form ist seit über 200 Jahren von den industrialisierten und seit dem Ende des Zweiten Weltkrieges von den meisten Ländern der Welt praktiziert. Sie gilt als das effektivste Mittel zur Garrantie der freien Willenäußerung, der Demokratie, der Freiheit, der Gleichheit und der Brüderlichkeit unter der Bevölkerung.
3. Diese Regierungsform erschien zum ersten Mal im römischen und griechischen Altertum, nunmehr seit 25 Jahrhunderten. Sie hat sich durch unzählige Momente der Weltgeschichte bewährt, das Schicksal unzähliger Staaten entschieden und viele Völker aus der Gewaltherrschaft der Tyranen befreit.
Trotz den kriegerischen Auseinandersetzungen mit den Kommunisten aus dem Nordvietnam hat die Republik (Süd)vietnam seinen Bürger/innen zwanzig Jahre lang Demokratie, Freiheit und Wohlstand angeboten, bis sie im April 1975 aufgrund des Rückzuges der Allierten der Invasion der vietnamesischen und internationalen Kommunisten nicht standhalten konnte.
4. Die Republik Vietnam (RVN) verschwindet aber nicht für immer. Wie der mystische Adler ist er wieder aus seinen Aschen lebendig. Die Dritte Republik wird sicher kommen, weil das Ende des kommunistischen Regimes bereits vor der Tür steht. Aufgrund des uferlosen Zornes des Volkes gegen seine Unterdrücker wird dieses Ende unvermeidbar sein. Das Volk duldet aus Vaterlandsliebe keine Menschen, die das Interesse der Partei über das Schicksal der Nation stellen. Das enttäuschte Proletariat wird seine einstigen Weggefährten in die Flucht treiben, weil diese, einmal Macht und Geld reichlich angeeignet, nun das gemeinsame Ideal verraten und ihre Kameraden in die Not getrieben haben.
5. Ein neues Leben, das sich auf der bürgerlichen Konsens stützt, öffnet sich mit der Dritten Republik. Sie eint das Volk, ohne dabei dessen Religion, soziale Schicht, Abstammung und Vergangenheit zu unterscheiden. Alle solidarisieren sich für die Verteidigung und den Wiederaufbau des Landes.
Zur Durchführung dieses ultimativen Ziels proklamiert der Staat – wie einst in Südafrika - einen „Schuldenerlass für Alle“, ausgenommen für diejenigen, die gewalttätig gegen die demokratische Revolution des Volkes vorgegangen sind.
6.Das neue Vietnam baut seine Zukunft auf einer modernen Demokratie auf, welche von der Welt als geeignete Garantieform für individuelle Freiheitsrechte, für Menschen- und Bürgerrechte anerkannt worden ist. Es wird sich für ein politisches Regime entscheiden, das einerseits die politische Stabilität bewährt, andererseits die berechtigten Belangen der Opposition gewährt, um die mögliche Diktatur eines Menschen oder einer Partei zu verhindern.
Das Volk wird sich über eine passende Regierungsform (präsidiale, parlamentarische oder
eine gemischte Form) selber entscheiden. 7. Die primäre Aufgabe im Wiederaufbau des Landes ist der desolaten Wirtschaftslage ein Ende
zu setzen. Die derzeitige Wirtschaft basiert auf der billigen Textilweiterverarbeitung und Schuhmacherei; sie wird durch die Dienstleistungen und eine industrielle Produktion mit moderner Technik ersetzt, mit dem Ziel, dabei mehr Mehrwert zu produzieren, mehr Gewinn
für Arbeiter/innen zu gewinnen und somit mehr Investitionsmöglichkeiten für den Staataufbau zu bekommen. Der Staat fördert Freihandel, spornt Wettbewerb und Kreativität an. Das Eigentumsrecht wird absolut respektiert.
Der Staat schafft alle nötigen Voraussetzungen vor allem für die Bauer und Arbeiter, damit sie selber Eigentümer der Felder, Häuser und Produktionsmitteln werden und sich dadurch aus ihrer chronischen Armut befreien.
8. Als ein Reis produzierendes Land bemüht sich Vietnam, die Reisqualität zu erhöhen sowie dessen Lagerungs- und Transportsmöglichkeit zu verbessern. Die Forschung des internationalen Getreidemarktes und der Exporttechnik gehört als oberste Aufgabe den zuständigen Behörden und privaten Organisationen. Mit diesen Bemühungen nimmt der Gewinn bei den Bauern sicher zu.
Auf dem Fischereisektor stehen wir vor einer schwerwiegenden Aggressionspolitik Chinas,
die im Rahmen der folgenden Außen- und Verteidigungspolitik gelöst werden muss. 9. Vietnam will in friedlicher und freundschaftlicher Beziehung, die auf der Grundlage des gegenseitigen Respekts von nationalen Interessen und Souveränität und im Einklang mit den internationalen Gesetzen hergestellt wird, mit allen Ländern der Welt leben. Es wird alles
Mögliche zur Bewahrung der Sicherheit und des Friedens im Südostasien tun. 10. Gegenüber der Volksrepublik Chinas bekräftigt Vietnam nochmals seine nationale Souveränität über die zwei Inselgruppen Paracels und Spratley. Diese Souveränität wird seit Jahrhunderten von der Welt – auch von der Republik von China (ROC) – anerkannt. Die militärische und illegale Eroberung Chinas auf Paracels in 1974 und auf einen Teil der
Spratley in 1988 muss beendet und der frühere Status quo wieder hergestellt werden. Das Seerechtsübereinkommen der Vereinten Nationen von 1982 (UNCLOS) und der Deklaration über einen Verhaltenskodex im Ostasiatischen Meer (DOC) sind die Grundlage zur friedlichen Lösung jeglicher Konflickte. Das Volk Vietnams hätte gern alle Völker in der Welt, vor allem die in seinen Nachbarländern, als Freunde haben. Es ist stets bereit, mit China fürs gemeinsame Interesse zusammenzuarbeiten. In der Vergangenheit bis 1975 konnte das Königreich Vietnam und danach die Republik Vietnam (RVN) eine sehr gute Beziehung mit der ROC halten.
11. Die Vereinigte Staaten von Amerika auf der anderen Seite der Pazifik und fast alle Asienländer im pazifischen Raum sind immer gute Freunde Vietnams, trotz mehreren unerwünschten Ereignissen in der Vergangenheit. Der Sicherheit und Prosperität des ganzen Pazifikraumes wegen, müssen wir ein passendes Solidaritäts- und Kooperationsmodell entwickeln, das die Partikularität einzelnen Landes gewähren und zugleich die möglichen Kooperationshindernisse ausschließen kann.
12. Nach der Kriegszeit kommt nun eine Zeit des Friedens. Wegen seiner geopolitischen Lage und seinen tragischen Erfahrungen bemüht sich das künftige Vietnam mit aller Kraft dem Weltfrieden beizutragen. Es wird sich aber auch mit aller Kraft bemühen, seine Souveränität im Lande und auf dem Meer zu sichern. Eine wirksame Verteidigungspolitik mit vernetzten Widerstandzellen überall im Lande wird einer Fremdokkupation Vietnams unmöglich machen.
13. Eine weitere wichtige Aufgabe ist der Wiederaufbau des Landes, um das bisherige –äußerst korrupte – Gesellschaftsmodell, das sich ausschließlich durch Geld entscheiden lässt, neu zu gestalten. Alles Mittel zum Geld wird von den Machthabern gut geheißen. Die sytemische Korruption gedeiht auf allen Ebenen, deren Hauptbetreiber, die alle hohen Funktionäre sind, die Justiz nicht mit Strafen belegen kann. Es gibt keine staatliche Gewalteinteilung, denn der 4. Artikel des Grundgesetzes sichert der Kommunistischen Partei Vietnams einzig die höchste Machtbefugnis zu. Die Sozialitische Republik Vietnam ist kein rechtsstaatlicher
Staat, denn die Gesetze werden zugunsten der Machthaber und als Strafmitteln für die Bevölkerung erlassen. Die (vermutlichen) Oppositionellen werden von den staatlich gezahlten Mafiosi verfolgt. Es werden überall im Lande die Scheinprozesse eröffnet, um die mutigen Geistlichen, Künstler, Studenten, Journalisten... mundtot zu machen. Das weltbekannte Bild des Pfarrers Nguyen Van Ly, der von einem Volkspolizisten in einer Prozessverhandlung handtätlich mundtot gemacht wurde, zeigt, wie die Religions- und Redefreiheit im sozialistischen Vietnam eigentlich ist.
14. Der gesellschaftliche Umbau ist eine dringende Aufgabe, die gleich nach der Befreiung aus dem kommunistischen Joch durchgeführt werden muss. Die bisherigen Pratiken des Volkes müssen ändern. Es soll mit einem neuen Geist bewaffnet werden, damit es die verschmutzten Reliken der sozialistischen Gesellschaft reinigen kann. Das Kulturleben wird von der bisherigen Last befreit; die Rede- und Gedankenfreiheit dem Volk zurück gegeben; die Kreativität in Kunst und Kultur im Allgemein reichlich gefördert. Das Schulwesen wird von nun an für immer vom giftigen Dogma des Kommunismus befreit; die basalen Erziehungselemente in der Zeit der Ersten Republik Vietnam (RVN) wie Humanismus, Offenheit, Wissenschaftlichkeit und Allgemeinheit werden wieder eingeführt.
15. Eine gewaltige Sozialarbeit wird dem Umbau folgen. Dieses Unternehmen wird für das Volk sicher sehr kostspielig, langwierig und anstrengend sein. Sie ist jedoch unverzichtbar für die künftige Dritte Republik, denn es geht hier um ein soziales Wohlfahrtgebot, das sowieso einen festen Platz im modernen Staat des 21. Jahrhundertes einnimmt. Die Vietnamesen leben in Großfamilien und unterstützen einander seit Generationen. Das ist eine gute Tradition. Aber der heutige Umfang des Wirtschaftslebens sprengt allen Rahmen der Großfamilie. Der Staat und die nationale Gemeinschaft müssen daher gemeinsam die soziale Last übernehmen: Hilfe für mittellosen Alten, Kranken, Behinderten, Arbeitslosen, Arbeitssuchenden, Auszubildenden.
Endlich muss ein medizinisches Sytem so bald wie möglich etabliert werden, um die Gesundheit der Bürger/innen zu fördern und die der Mittellosen kostenfrei zu versorgen. Hier spielt die staatliche Solidarität eine entscheidende Rolle, wovon die Lebensqualität und die Menschenwürde aller Bürger/innen abhängen.
16. Angesichts der Invasionsgefahr durch den Feind und für die Rettung der Nation fordern wir die kommunistischen Machthaber dazu auf, dem vietnamesischen Volk ungezögert sein Selbstbestimmungsrecht zurück zu geben. Es geht hier um ein heiliges Recht, das von den mitunterschreibenden Staaten beim Abschluss des Pariser Abkommens in 1973 – darunter auch den Regierenden von Nord- und Südvietnam – anerkannt wurde. Das Abkommen hat die Souverainität Südvietnams sowie einen friedlichen Vereinigungsprozeß für das ganze Land garantiert.
Die Geschichte wird über die Entscheidung der kommunistischen Regierenden verurteilen. Ab sofort handelt jedoch das Volk Vietnams mit Entschiedenheit zur Rettung der Nation und zur Umwandlung seines eigenen Schicksals.
Paris, den 09.09.2014
Für die Bewegung fürs Selbstbestimmungsrecht des vietnamesischen Volkes Der Präsident Le Trong Quat Ehm. Staatsminister der Republik Vietnam (RVN)
Ehm. Leiter des Innen- und Verteidigungsausschusses im Parlament, RVN
Ehm. Berater des Verfassungsschutzes, RVN