Download 2 tác phẩm của Trần Trung Đạo: Chính Luận Trần Trung Đạo và Khi Bài Hát Trở Về
Trần Trung Đạo (Danlambao) - Ngày 30 tháng 4, ngoài tất cả ý nghĩa mà chúng ta đã biết, còn là ngày để mỗi chúng ta nhìn lại chính mình, ngày để mỗi chúng ta tự hỏi mình đã làm gì cho đất nước, và đang đứng đâu trong cuộc vận hành của lịch sử hôm nay. Mỗi người Việt Nam có hoàn cảnh sống khác nhau, quá khứ khác nhau, tôn giáo khác nhau và mang trên thân thể những thương tích khác nhau, nhưng chỉ có một đất nước để cùng lo gánh vác. Đất nước phải vượt qua những hố thẳm đói nghèo lạc hậu và đi lên cùng nhân loại. Không ai có quyền bắt đất nước phải đau nỗi đau của mình hay bắt đất nước phải đi ngược chiều kim lịch sử như mình đang đi lùi dần vào quá khứ. Sức mạnh của dân tộc Việt Nam không nằm trong tay thiểu số lãnh đạo CSVN. Tương lai dân tộc không nằm trong tay thiểu số lãnh đạo CSVN. Sinh mệnh dân tộc Việt Nam do chính nhân dân Việt Nam quyết định. Và do đó, con đường để đến một điểm hẹn lịch sử huy hoàng cho con cháu, chính là con đường dân tộc và không có một con đường nào khác.
*
Những ngày còn nhỏ, tôi bị ám ảnh bởi câu hỏi tự mình đặt ra “Tại sao chiến tranh diễn ra tại Việt Nam mà không phải tại một quốc gia nào khác?”
Tôi lớn lên ở Đà Nẵng. Đường phố quê hương tôi trong khoảng thời gian từ 1968 đến 1972 có rất nhiều lính Mỹ. Những chiến tàu nhập cảng Tiên Sa chở đầy chiến xa và súng đạn mang nhãn “Made in USA”. Những đoàn xe vận tải hiệu Sealand, RMK gần như chạy suốt ngày đêm từ nơi dỡ hàng ngoài bờ biển đến các kho quân sự chung quanh Đà Nẵng. Tiếng gầm thét của các phi cơ chiến đấu có đôi cánh gắn đầy bom, lát nữa, sẽ được ném xuống một nơi nào đó trên mảnh đất Việt Nam. Những câu lạc bộ, được gọi là “hộp đêm”, mọc đầy hai bên bờ sông Hàn. Mỹ đen, Mỹ trắng chở hàng quân tiếp vụ đi bán dọc chợ Cồn, chợ Vườn Hoa.
Phía trước Tòa Thị Chính Đà Nẵng, trước rạp hát Trưng Vương hay trong sân vận động Chi Lăng, gần như tháng nào cũng có trưng bày chiến lợi phẩm tịch thu từ các cuộc hành quân. Những khẩu thượng liên có nòng súng cao, những khẩu pháo nòng dài, rất nhiều AK 47, B40, súng phóng lựu đạn và hàng khối đạn đồng vàng rực. Sau “Mùa hè đỏ lửa” trong số chiến lợi phẩm còn có một chiếc xe tăng T54 được trưng bày rất lâu trước Tòa Thị Chính. Không cần phải giỏi ngoại ngữ, chỉ nhìn nhãn hiệu tôi cũng biết ngay chúng là hàng của Trung Quốc và Liên Xô.
Nhìn viên đạn của Nga và Tàu, tôi nghĩ đến trái tim của người lính trẻ miền Nam, giống như khi nhìn chiếc chiến đấu cơ của Mỹ cất cánh tôi chợt nghĩ đến các anh lính từ miền Bắc xấu số đang di chuyển bên kia sông Thu Bồn. Vũ khí là của các đế quốc. Không có khẩu súng nào chế tạo ở miền Nam hay miền Bắc. Các bà mẹ Việt Nam chỉ chế tạo được những đứa con và đóng góp phần xương máu.
Vũ khí của các đế quốc trông khác nhau nhưng nạn nhân của chúng dù bên này hay bên kia lại rất giống nhau. Nếu tháo đi chiếc nón sắt, chiếc mũ vải xanh, hai người thanh niên có mái tóc đen, vầng trán hẹp, đôi mắt buồn hiu vì nhớ mẹ, nhớ em chẳng khác gì nhau. Dù “con đường Duy Tân cây dài bóng mát” hay “mặt hồ Gươm vẫn lung linh mây trời” cũng là quê hương Việt Nam và nỗi nhớ trong tâm hồn người con trai Việt ở đâu cũng đậm đà tha thiết.
Người lính miền Nam chết vì phải bảo vệ chiếc cầu, căn nhà, xóm làng, góc phố thân yêu của họ. Nếu ai làm một thống kê để hỏi những lính miền Nam còn sống hôm nay, tôi tin không ai trả lời muốn “ăn gan uống máu quân thù” miền Bắc. Họ chỉ muốn sống yên ổn trong hòa bình để xây đắp lại mảnh đất họ đã “xin chọn nơi này làm quê hương” sau khi trải qua quá nhiều đau thương tang tóc. Họ phải chiến đấu và hy sinh trong một cuộc chiến tự vệ mà họ không chọn lựa.
Dân chủ không phải là lô độc đắc rơi vào trong túi của người dân miền Nam mà phải trải bằng một giá rất đắt. Tham nhũng, lạm quyền, ám sát, đảo chánh diễn ra trong nhiều năm sau 1960. Có một dạo, tấm hình của vị “nguyên thủ quốc gia” chưa đem ra khỏi nhà in đất nước đã có một “nguyên thủ quốc gia” khác. Nhưng đó là chuyện của chính quyền và nhân dân miền Nam không dính líu gì đến đảng Cộng Sản miền Bắc.
Dân chủ ở miền Nam không phải là sản phẩm của Mỹ được đóng thùng từ Washington DC gởi qua nhưng là hạt giống do Phan Chu Trinh, Bùi Quang Chiêu, Nguyễn Phan Long, Phan Văn Trường, Nguyễn An Ninh và rất nhiều nhà cách mạng miền Nam khác gieo xuống hàng nửa thế kỷ trước đã mọc và lớn lên trong mưa bão. Không chỉ miền Nam Việt Nam mà ở đâu cũng vậy. Nam Hàn, Ấn Độ, Thổ Nhĩ Kỳ, Phi Luật Tân và nhiều quốc gia khác, dân chủ đã phải trải qua con đường máu nhuộm trước khi đơm bông kết trái.
Khác với người lính miền Nam, người lính miền Bắc chết vì viên thuốc độc bọc đường “thống nhất đất nước”. Chị Đặng Thùy Trâm bị giết ở Quảng Ngãi đã uống viên thuốc đó. Anh Nguyễn Văn Thạc, tác giả của hồi ký “Mãi mãi tuổi hai mươi” bị giết ở Quảng Trị đã uống viên thuốc đó. Cô bé Trần Thị Hường 17 tuổi và chín cô gái ở Ngã Ba Đồng Lộc bị bom Mỹ rơi trúng ngay hầm đã uống viên thuốc đó. Họ không biết đó là thuốc độc. Không biết thì không đáng trách. Nhà văn Dương Thu Hương trải qua một thời thanh niên xung phong nhưng chị may mắn còn sống để nhắc cho các thế hệ trẻ Việt Nam hôm nay biết “chế độ ngoài Bắc là chế độ man rợ vì nó chọc mù mắt con người, bịt lỗ tai con người.”
Tại sao chiến tranh diễn ra tại Việt Nam mà không phải tại một quốc gia nào khác?
Thật không công bằng cho đảng nếu tôi chỉ dùng tài liệu trong các thư viện ở Mỹ để chứng minh âm mưu xích hóa Việt Nam của đảng CSVN.
Tôi sẽ trích những câu do đảng viết ra. Theo quan điểm lịch sử của đảng CSVN chiến tranh đã xảy ra bởi vì “Ở miền Nam, lợi dụng sự thất bại và khó khăn của thực dân Pháp, đế quốc Mỹ đã nhảy vào để thay chân Pháp nhằm biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mỹ.”
Không ai hình dung “thuộc địa kiểu mới” hình dáng ra sao và đảng cũng chưa bao giờ giải thích một cách rõ ràng.
Sau Thế chiến thứ hai, hàng loạt quốc gia trong đó có những nước vốn từng là đế quốc, đã nằm trong vòng ảnh hưởng kinh tế và cả chính trị của Mỹ. Chẳng lẽ 18 nước châu Âu bao gồm Tây Đức, Áo, Bỉ, Pháp, Ý, Anh, Hòa Lan v.v... trong kế hoạch Marshall chia nhau hàng trăm tỉ đô la của Mỹ để tái thiết đất nước sau thế chiến thứ hai đều trở thành những “thuộc địa mới” của Mỹ hay sao? Chẳng lẽ các nước Á châu như Nam Hàn, Nhật Bản, Đài Loan được viện trợ không những tiền của mà còn bằng cả sức người để xây dựng lại đất nước họ là “thuộc địa mới” của Mỹ hay sao?
Chuyện trở thành một “căn cứ quân sự” của Mỹ lại càng khó hơn.
Chính sách vô cùng khôn khéo của chính phủ Thổ Nhĩ Kỳ dùng Đệ Lục Hạm Đội Mỹ làm hàng rào bảo vệ đất nước Thổ ngăn chặn làn sóng đỏ Liên Xô xâm lược là một bài học cho các lãnh đạo quốc gia biết mở mắt nhìn xa. Mặc dù là một nước trung lập trong thế chiến thứ hai, để lấy lòng Mỹ, lãnh đạo Thổ đã tình nguyện gởi 5500 quân tham chiến bên cạnh Mỹ trong chiến tranh Triều Tiên. Quân đội Thổ chiến đấu anh dũng nhưng cũng chịu đựng tổn thất rất nặng nề. Một nửa lực lượng Thổ đã chết và bị thương trong ba năm chiến tranh. Nhờ sự hy sinh của họ mà Thổ Nhĩ Kỳ được đền bù. Ngày 18 tháng 2 năm 1952, Thổ Nhĩ Kỳ chính thức trở thành hội viên của NATO và hùng mạnh đến ngày nay.
Nhật Bản là một ví dụ khác. Trong cuốn phim tài liệu Thế Giới Thiếu Mỹ (The World Without US) đạo diễn Mitch Anderson trích lời phát biểu của Thủ tướng Nhật Yasuhiro Nakasone“Nếu Mỹ rút khỏi Nhật Bản, chúng tôi phải dành suốt mười năm tới chỉ để lo tái võ trang trong nhiều mặt, kể cả sản xuất võ khí nguyên tử”. Một quốc gia có nền kinh tế lớn thứ ba trên thế giới nhưng dành vỏn vẹn một phần trăm cho ngân sách quốc phòng chỉ vì Nhật dựa vào khả năng quốc phòng của Mỹ và sự có mặt của 35 ngàn quân Mỹ. Khác với chủ trương “đánh cho Mỹ cút ngụy nhào” của Hồ Chí Minh, trong một thống kê mới đây, 73 phần trăm công dân Nhật biết ơn quân đội Mỹ bảo vệ họ.
Đứng trước một miền Bắc điêu tàn sau mấy trăm năm nội chiến và thực dân áp bức, một giới lãnh đạo nếu thật tâm thương yêu dân tộc trước hết phải nghĩ đến việc vá lại những tang thương đổ vỡ, đưa đất nước ra khỏi cảnh đói nghèo, lạc hậu. Ngay cả thống nhất là một ước mơ chung và có thật đi nữa cũng cần thời gian và điều kiện. Con người trước hết phải sống, phải có cơm ăn, áo mặc, nhà ở, học hành trước khi nghĩ đến chuyện đoàn tụ với đồng bào và bà con thân thuộc.
Ngoại trừ các lãnh đạo CSVN, trên thế giới chưa có một giới lãnh đạo thể hiện lòng yêu nước bằng cách giết đi một phần mười dân số, đốt cháy đi một nửa giang sơn của tổ tiên để lại, dâng hiến hải đảo chiến lược cho kẻ thù truyền kiếp của dân tộc mà gọi đó là “thống nhất đất nước” và “hòa hợp dân tộc”.
Cũng trong tài liệu chính thức của đảng, ngay cả trước khi ký hiệp định Geneve và khi Việt Nam chưa có một dấu chân người lính Mỹ nào, hội nghị lần thứ sáu của Trung ương Đảng CSVN từ ngày 15 đến 17 tháng 7 năm 1954, Hồ Chí Minh và bộ chính trị đảng CSVN đã nghĩ đến chuyện đánh Mỹ “Hiện nay đế quốc Mỹ là kẻ thù chính của nhân dân thế giới và nó đang trở thành kẻ thù chính và trực tiếp của nhân dân Đông Dương, cho nên mọi việc của ta đều nhằm chống đế quốc Mỹ".
Vào thời điểm trước 1954, dân tộc Việt Nam thật sự có một mối thù không đội trời chung với Mỹ sâu đến thế sao hay giới lãnh đạo CSVN chỉ vẽ hình ảnh một “đế quốc Mỹ thâm độc đầu sỏ” như một lý do để chiếm toàn bộ Việt Nam bằng võ lực, và cùng lúc để phụ họa theo quan điểm chống Mỹ điên cuồng của chủ nô Mao Trạch Đông sau khi nướng gần một nửa triệu thanh niên Trung Quốc qua các đợt biển người trong cuộc chiến Triều Tiên?
Chữ "nước" trong khẩu hiệu “Chống Mỹ cứu nước” là nước Trung Cộng chứ không phải nước Việt Nam.
Đường lối chiến tranh cách mạng của Mao có thể tóm tắt trong bài phát biểu tại Diên An: “Nhiệm vụ trung tâm và hình thức cao nhất của cách mạng là chiếm lấy quyền lực xuyên qua đấu tranh võ trang và giải quyết xung đột bằng chiến tranh. Đây là nguyên tắc cách mạng của chủ nghĩa Mác Lênin, và và phải được một cách toàn diện tại Trung Quốc và toàn thế thế giới”. Đường lối sắt máu đó đã được các lãnh đạo CSVN áp dụng một cách nguyên tắc và chi phối toàn bộ chiến lược chiến tranh của đảng CSVN từ khi phát động cuộc chiến “giải phóng miền Nam bằng võ lực” cho tới 30 tháng Tư 1975. Tất cả các hiệp định từ Geneva 1954 cho tới Paris 1973 chỉ là những trạm dừng chân, thời gian nghĩ ngơi dưỡng sức của đoàn quân CS chứ không phải là chặng cuối cùng.
Ngày 30 tháng 4 năm 1975, sau gần một thế kỷ với bao nhiều tổn thất máu xương, tù ngục, mục tiêu Cộng Sản hóa Việt Nam của đảng cuối cùng đã đạt được. Lê Duẩn, trong diễn văn mừng chiến thắng vài hôm sau đó đã nói “vinh quang này thuộc về đảng Lao Động Việt Nam quang vinh, người tổ chức và lãnh đạo mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam”. Lời phát biểu của họ Lê nhất quán với nghị quyết của đại hội Đảng Cộng sản Đông Dương do Trần Phú chủ trì năm 1930 và được Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương phê chuẩn vào tháng 4 cùng năm, ghi rõ: "Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản trong cuộc cách mạng; hai giai đoạn cách mạng từ cách mạng tư sản dân quyền chống đế quốc và phong kiến nhằm thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và người cày có ruộng và sau đó chuyển sang làm cách mạng xã hội chủ nghĩa.”
Nguyễn Phú Trọng, Tổng bí thư đảng CSVN cũng lần nữa khẳng định “Ngay khi mới ra đời và trong suốt quá trình đấu tranh cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn khẳng định: chủ nghĩa xã hội là mục tiêu, lý tưởng của Đảng Cộng sản và nhân dân Việt Nam; đi lên chủ nghĩa xã hội là yêu cầu khách quan, là con đường tất yếu của cách mạng Việt Nam.... Vào những năm cuối thế kỷ XX, mặc dù trên thế giới chủ nghĩa xã hội hiện thực đã bị đổ vỡ một mảng lớn, hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa không còn, phong trào xã hội chủ nghĩa đang trong giai đoạn khủng hoảng, thoái trào, gặp rất nhiều khó khăn, Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn tiếp tục khẳng định: “Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh”.
Nhiều người cho rằng Nguyễn Phú Trọng nói những câu lạc hậu, lỗi thời mà không biết mắc cỡ. Tôi tin y nói một cách chân thành và hãnh diện. Nhờ tài lãnh đạo mà đảng CSVN đã tồn tại dù cả một hệ thống xã hội chủ nghĩa lớn mạnh như Liên Xô đã phải sụp đổ.
Đối diện với thời đại toàn cầu hóa, nội chung chủ nghĩa Mác về mặt kinh tế đã phải thay đổi để đáp ứng nhu cầu tồn tại của đảng nhưng cơ chế nhà nước toàn trị sắc máu theo kiểu Lê Nin, Stalin chẳng những được duy trì mà còn củng cố chặt chẽ và nâng cấp kỹ thuật cao hơn. Dù ngoài miệng có hát bài “hòa hợp hòa giải” thắm đượm tình dân tộc, bên trong, các chính sách của đảng vẫn luôn kiên trì với mục tiêu toàn trị và bất cứ ai đi ngược với mục tiêu đó đều bị triệt tiêu không thương xót.
Dưới chế độ Cộng Sản, không những người dân bị ràng buộc vào bộ máy mà cả các lãnh đạo cũng sinh hoạt trong khuôn khổ tổ chức và nghiêm chỉnh thực thi các nguyên tắc lãnh đạo độc tài sắc máu do đảng của họ đề ra. Điều đó giải thích lý do giọng điệu của những cựu lãnh đạo Cộng Sản như Võ Văn Kiệt, Nguyễn Văn An, Nguyễn Khoa Điềm sau khi rời chức vụ giống như những người vừa được giải phẫu thanh quản, nói dễ nghe hơn nhiều so với thời còn trong bộ máy cầm quyền. Họ không phải là những người “buông dao thành Phật” nhưng chỉ vì họ đã trở về với vị trí một con người bình thường, ít bị ràng buộc trong cách ăn cách nói, cách hành xử, cách khen thưởng và trừng phạt như khi còn tại chức.
Giới lãnh đạo Cộng Sản được trui rèn trong tranh đấu, được huấn luyện chính trị từ cấp đội, cấp đoàn trước khi giữ các vị trí then chốt trong đảng và nhà nước CS. Họ nắm vững tâm lý và vận dụng một cách khéo léo tâm lý quần chúng để phục vụ cho các chính sách của đảng trong từng thời kỳ. Sau biến cố Thiên An Môn, để đánh lạc hướng cuộc đấu tranh đòi dân chủ của thanh niên sinh viên, nhà cầm quyền Cộng Sản Trung Quốc khai thác lòng căm thù chính sách quân phiệt của Nhật đã xảy ra từ thế kỷ trước. Lợi dụng việc Bộ Giáo dục Nhật bản liệt kê biến cố tàn sát Nam Kinh như một tai nạn trong sách giáo khoa, nhà cầm quyền Trung Quốc đã khuyến khích hàng chục ngàn thanh niên sinh viên Trung Quốc biểu tình suốt 3 tuần lễ trước tòa đại sứ Nhật. Việt Nam cũng thế. Trong chiến tranh biên giới 1979, các lãnh đạo CSVN đã lần nữa sử dụng thành công viên thuốc độc bọc đường “bảo vệ tổ quốc”.
Máu của hàng vạn thanh niên Việt Nam đổ xuống dọc biên giới Việt Trung phát xuất từ tình yêu quê hương trong sáng và đáng được tôn vinh, tuy nhiên, nếu dừng lại một phút để hỏi, họ thật sự chết vì tổ quốc hay chỉ để trả nợ xương máu giùm cho đảng CSVN?
Với tất cả thông tin được phơi bày, tài liệu được giải mật cho thấy, cuộc chiến “chống Mỹ cứu nước” mà giới lãnh đạo CSVN đưa ra thực chất chỉ là cái cớ. Không có một người lính Mỹ nào đến Việt Nam, đảng vẫn cộng sản hóa miền Nam cho bằng được. Bộ máy tuyên truyền tinh vi của đảng thừa khả năng để nghĩ ra hàng trăm lý do khác để đánh miền Nam. Đảng CSVN là nguyên nhân khiến cho nhiều triệu người Việt vô tội ở hai miền đã phải chết một cách oan uổng, bao nhiêu thế hệ bị tiêu vong, bao nhiêu tài nguyên bị tàn phá và quan trọng nhất, chiếc còng Trung Cộng mà đảng thông đồng để đeo trên cổ dân tộc Việt Nam mỗi ngày ăn sâu vào da thịt nhưng không biết làm sao tháo gỡ xuống đây. Nói theo cách viết của nhạc sĩ Việt Khang “Việt Nam ơi thời gian quá nửa đời, và ta đã tỏ tường rồi”, chiến tranh xảy ra tại Việt Nam mà không ở đâu khác chỉ vì Việt Nam có đảng Cộng Sản Việt Nam.
Ngoại trừ các em, các cháu bị nhào nặn trong nền giáo dục ngu dân một chiều chưa có dịp tiếp xúc với các nguồn thông tin khách quan khoa học, nếu hôm nay, những người có học, biết nhận thức mà còn nghĩ rằng cuộc chiến kết thúc vào ngày 30 tháng 4 năm 1975 là cuộc chiến “chống Mỹ cứu nước”, những kẻ đó hoặc bị tẩy não hoàn toàn hoặc biết mình sai nhưng không đủ can đảm để thừa nhận ra nguồn gốc sâu xa của cuộc chiến Việt Nam và tự dối lòng để tiếp tục sống cho hết một kiếp người.
Sau 40 năm, “hàng triệu người buồn” như ông Võ Văn Kiệt nói, nếu chưa qua đời, hôm nay vẫn còn buồn. Nhưng người buồn không phải chỉ từ phía những người lính Việt Nam Cộng Hòa bị buộc buông súng, từ phía nhân dân miền Nam bị mất tự do mà còn là những người miền Bắc, cả những người trong đảng CS đã biết ra sự thật, biết mình bị lừa gạt, biết mình đã dâng hiến cả một cuộc đời trai trẻ cho một chủ nghĩa độc tài, ngoại lai, vong bản.
Không hiểu đúng tại sao chủ nghĩa CS đến Việt Nam sẽ không có một cách thích hợp để đẩy CS đi ra khỏi Việt Nam. Và tương tự, không hiểu đúng quá khứ, sẽ không có hành động đúng vì tương lai đất nước.
Gần mười năm trước tôi kết luận bài viết về ngày 30 tháng 4 bằng ba phân đoạn dưới đây và năm nay, tôi kết luận một lần nữa cũng bằng những dòng chữ đó để chứng minh một điều, tuổi trẻ của tôi có thể qua đi nhưng niềm tin vào tuổi trẻ trong tôi vẫn còn nguyên vẹn.
Như lịch sử đã chứng minh, chính nghĩa bao giờ cũng thắng. Không có vũ khí nào mạnh hơn sức mạnh đoàn kết dân tộc. Chỉ có sức mạnh Đoàn Kết Dân Tộc, chúng ta mới có khả năng bảo vệ được chủ quyền và lãnh thổ Việt Nam, chỉ có sức mạnh Đoàn Kết Dân Tộc chúng ta mới có khả năng vượt lên những hệ lụy quá khứ để hướng vào tương lai tươi sáng cho đời đời con cháu mai sau và chỉ có sức mạnh Đoàn Kết Dân Tộc chúng ta mới có khả năng phục hồi sự kính trọng Việt Nam trong lân quốc cũng như trong bang giao quốc tế.
Ngày 30 tháng 4, ngoài tất cả ý nghĩa mà chúng ta đã biết, còn là ngày để mỗi chúng ta nhìn lại chính mình, ngày để mỗi chúng ta tự hỏi mình đã làm gì cho đất nước, và đang đứng đâu trong cuộc vận hành của lịch sử hôm nay. Mỗi người Việt Nam có hoàn cảnh sống khác nhau, quá khứ khác nhau, tôn giáo khác nhau và mang trên thân thể những thương tích khác nhau, nhưng chỉ có một đất nước để cùng lo gánh vác. Đất nước phải vượt qua những hố thẳm đói nghèo lạc hậu và đi lên cùng nhân loại. Không ai có quyền bắt đất nước phải đau nỗi đau của mình hay bắt đất nước phải đi ngược chiều kim lịch sử như mình đang đi lùi dần vào quá khứ. Sức mạnh của dân tộc Việt Nam không nằm trong tay thiểu số lãnh đạo CSVN. Tương lai dân tộc không nằm trong tay thiểu số lãnh đạo CSVN. Sinh mệnh dân tộc Việt Nam do chính nhân dân Việt Nam quyết định. Và do đó, con đường để đến một điểm hẹn lịch sử huy hoàng cho con cháu, chính là con đường dân tộc và không có một con đường nào khác.
Bốn mươi năm là một quãng đường dài. Chúng ta đã hơn một lần trễ hẹn với non sông, nhưng không phải vì thế mà không còn cơ hội. Cơ hội vẫn còn đó nếu chúng ta biết đoàn kết, thấy được hướng đi chung của dân tộc và thời đại. Chúng ta có nhiều quá khứ nhưng đất nước chỉ có một tương lai, đó là tương lai tự do, dân chủ, nhân bản và khai phóng cho những ai, sau những điêu tàn đổ vỡ, còn biết nhận ra nhau, còn biết yêu thương mảnh đất thiêng liêng, vinh quang và thống khổ Việt Nam.
(Tháng Tư 2012, Tháng Tư 2015)
Câu hỏi tháng Tư
Trần Trung Đạo (Danlambao) - Ngày 30 tháng 4, ngoài tất cả ý nghĩa mà chúng ta đã biết, còn là ngày để mỗi chúng ta nhìn lại chính mình, ngày để mỗi chúng ta tự hỏi mình đã làm gì cho đất nước, và đang đứng đâu trong cuộc vận hành của lịch sử hôm nay. Mỗi người Việt Nam có hoàn cảnh sống khác nhau, quá khứ khác nhau, tôn giáo khác nhau và mang trên thân thể những thương tích khác nhau, nhưng chỉ có một đất nước để cùng lo gánh vác. Đất nước phải vượt qua những hố thẳm đói nghèo lạc hậu và đi lên cùng nhân loại. Không ai có quyền bắt đất nước phải đau nỗi đau của mình hay bắt đất nước phải đi ngược chiều kim lịch sử như mình đang đi lùi dần vào quá khứ. Sức mạnh của dân tộc Việt Nam không nằm trong tay thiểu số lãnh đạo CSVN. Tương lai dân tộc không nằm trong tay thiểu số lãnh đạo CSVN. Sinh mệnh dân tộc Việt Nam do chính nhân dân Việt Nam quyết định. Và do đó, con đường để đến một điểm hẹn lịch sử huy hoàng cho con cháu, chính là con đường dân tộc và không có một con đường nào khác.
*
Những ngày còn nhỏ, tôi bị ám ảnh bởi câu hỏi tự mình đặt ra “Tại sao chiến tranh diễn ra tại Việt Nam mà không phải tại một quốc gia nào khác?”
Tôi lớn lên ở Đà Nẵng. Đường phố quê hương tôi trong khoảng thời gian từ 1968 đến 1972 có rất nhiều lính Mỹ. Những chiến tàu nhập cảng Tiên Sa chở đầy chiến xa và súng đạn mang nhãn “Made in USA”. Những đoàn xe vận tải hiệu Sealand, RMK gần như chạy suốt ngày đêm từ nơi dỡ hàng ngoài bờ biển đến các kho quân sự chung quanh Đà Nẵng. Tiếng gầm thét của các phi cơ chiến đấu có đôi cánh gắn đầy bom, lát nữa, sẽ được ném xuống một nơi nào đó trên mảnh đất Việt Nam. Những câu lạc bộ, được gọi là “hộp đêm”, mọc đầy hai bên bờ sông Hàn. Mỹ đen, Mỹ trắng chở hàng quân tiếp vụ đi bán dọc chợ Cồn, chợ Vườn Hoa.
Phía trước Tòa Thị Chính Đà Nẵng, trước rạp hát Trưng Vương hay trong sân vận động Chi Lăng, gần như tháng nào cũng có trưng bày chiến lợi phẩm tịch thu từ các cuộc hành quân. Những khẩu thượng liên có nòng súng cao, những khẩu pháo nòng dài, rất nhiều AK 47, B40, súng phóng lựu đạn và hàng khối đạn đồng vàng rực. Sau “Mùa hè đỏ lửa” trong số chiến lợi phẩm còn có một chiếc xe tăng T54 được trưng bày rất lâu trước Tòa Thị Chính. Không cần phải giỏi ngoại ngữ, chỉ nhìn nhãn hiệu tôi cũng biết ngay chúng là hàng của Trung Quốc và Liên Xô.
Nhìn viên đạn của Nga và Tàu, tôi nghĩ đến trái tim của người lính trẻ miền Nam, giống như khi nhìn chiếc chiến đấu cơ của Mỹ cất cánh tôi chợt nghĩ đến các anh lính từ miền Bắc xấu số đang di chuyển bên kia sông Thu Bồn. Vũ khí là của các đế quốc. Không có khẩu súng nào chế tạo ở miền Nam hay miền Bắc. Các bà mẹ Việt Nam chỉ chế tạo được những đứa con và đóng góp phần xương máu.
Vũ khí của các đế quốc trông khác nhau nhưng nạn nhân của chúng dù bên này hay bên kia lại rất giống nhau. Nếu tháo đi chiếc nón sắt, chiếc mũ vải xanh, hai người thanh niên có mái tóc đen, vầng trán hẹp, đôi mắt buồn hiu vì nhớ mẹ, nhớ em chẳng khác gì nhau. Dù “con đường Duy Tân cây dài bóng mát” hay “mặt hồ Gươm vẫn lung linh mây trời” cũng là quê hương Việt Nam và nỗi nhớ trong tâm hồn người con trai Việt ở đâu cũng đậm đà tha thiết.
Người lính miền Nam chết vì phải bảo vệ chiếc cầu, căn nhà, xóm làng, góc phố thân yêu của họ. Nếu ai làm một thống kê để hỏi những lính miền Nam còn sống hôm nay, tôi tin không ai trả lời muốn “ăn gan uống máu quân thù” miền Bắc. Họ chỉ muốn sống yên ổn trong hòa bình để xây đắp lại mảnh đất họ đã “xin chọn nơi này làm quê hương” sau khi trải qua quá nhiều đau thương tang tóc. Họ phải chiến đấu và hy sinh trong một cuộc chiến tự vệ mà họ không chọn lựa.
Dân chủ không phải là lô độc đắc rơi vào trong túi của người dân miền Nam mà phải trải bằng một giá rất đắt. Tham nhũng, lạm quyền, ám sát, đảo chánh diễn ra trong nhiều năm sau 1960. Có một dạo, tấm hình của vị “nguyên thủ quốc gia” chưa đem ra khỏi nhà in đất nước đã có một “nguyên thủ quốc gia” khác. Nhưng đó là chuyện của chính quyền và nhân dân miền Nam không dính líu gì đến đảng Cộng Sản miền Bắc.
Dân chủ ở miền Nam không phải là sản phẩm của Mỹ được đóng thùng từ Washington DC gởi qua nhưng là hạt giống do Phan Chu Trinh, Bùi Quang Chiêu, Nguyễn Phan Long, Phan Văn Trường, Nguyễn An Ninh và rất nhiều nhà cách mạng miền Nam khác gieo xuống hàng nửa thế kỷ trước đã mọc và lớn lên trong mưa bão. Không chỉ miền Nam Việt Nam mà ở đâu cũng vậy. Nam Hàn, Ấn Độ, Thổ Nhĩ Kỳ, Phi Luật Tân và nhiều quốc gia khác, dân chủ đã phải trải qua con đường máu nhuộm trước khi đơm bông kết trái.
Khác với người lính miền Nam, người lính miền Bắc chết vì viên thuốc độc bọc đường “thống nhất đất nước”. Chị Đặng Thùy Trâm bị giết ở Quảng Ngãi đã uống viên thuốc đó. Anh Nguyễn Văn Thạc, tác giả của hồi ký “Mãi mãi tuổi hai mươi” bị giết ở Quảng Trị đã uống viên thuốc đó. Cô bé Trần Thị Hường 17 tuổi và chín cô gái ở Ngã Ba Đồng Lộc bị bom Mỹ rơi trúng ngay hầm đã uống viên thuốc đó. Họ không biết đó là thuốc độc. Không biết thì không đáng trách. Nhà văn Dương Thu Hương trải qua một thời thanh niên xung phong nhưng chị may mắn còn sống để nhắc cho các thế hệ trẻ Việt Nam hôm nay biết “chế độ ngoài Bắc là chế độ man rợ vì nó chọc mù mắt con người, bịt lỗ tai con người.”
Tại sao chiến tranh diễn ra tại Việt Nam mà không phải tại một quốc gia nào khác?
Thật không công bằng cho đảng nếu tôi chỉ dùng tài liệu trong các thư viện ở Mỹ để chứng minh âm mưu xích hóa Việt Nam của đảng CSVN.
Tôi sẽ trích những câu do đảng viết ra. Theo quan điểm lịch sử của đảng CSVN chiến tranh đã xảy ra bởi vì “Ở miền Nam, lợi dụng sự thất bại và khó khăn của thực dân Pháp, đế quốc Mỹ đã nhảy vào để thay chân Pháp nhằm biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mỹ.”
Không ai hình dung “thuộc địa kiểu mới” hình dáng ra sao và đảng cũng chưa bao giờ giải thích một cách rõ ràng.
Sau Thế chiến thứ hai, hàng loạt quốc gia trong đó có những nước vốn từng là đế quốc, đã nằm trong vòng ảnh hưởng kinh tế và cả chính trị của Mỹ. Chẳng lẽ 18 nước châu Âu bao gồm Tây Đức, Áo, Bỉ, Pháp, Ý, Anh, Hòa Lan v.v... trong kế hoạch Marshall chia nhau hàng trăm tỉ đô la của Mỹ để tái thiết đất nước sau thế chiến thứ hai đều trở thành những “thuộc địa mới” của Mỹ hay sao? Chẳng lẽ các nước Á châu như Nam Hàn, Nhật Bản, Đài Loan được viện trợ không những tiền của mà còn bằng cả sức người để xây dựng lại đất nước họ là “thuộc địa mới” của Mỹ hay sao?
Chuyện trở thành một “căn cứ quân sự” của Mỹ lại càng khó hơn.
Chính sách vô cùng khôn khéo của chính phủ Thổ Nhĩ Kỳ dùng Đệ Lục Hạm Đội Mỹ làm hàng rào bảo vệ đất nước Thổ ngăn chặn làn sóng đỏ Liên Xô xâm lược là một bài học cho các lãnh đạo quốc gia biết mở mắt nhìn xa. Mặc dù là một nước trung lập trong thế chiến thứ hai, để lấy lòng Mỹ, lãnh đạo Thổ đã tình nguyện gởi 5500 quân tham chiến bên cạnh Mỹ trong chiến tranh Triều Tiên. Quân đội Thổ chiến đấu anh dũng nhưng cũng chịu đựng tổn thất rất nặng nề. Một nửa lực lượng Thổ đã chết và bị thương trong ba năm chiến tranh. Nhờ sự hy sinh của họ mà Thổ Nhĩ Kỳ được đền bù. Ngày 18 tháng 2 năm 1952, Thổ Nhĩ Kỳ chính thức trở thành hội viên của NATO và hùng mạnh đến ngày nay.
Nhật Bản là một ví dụ khác. Trong cuốn phim tài liệu Thế Giới Thiếu Mỹ (The World Without US) đạo diễn Mitch Anderson trích lời phát biểu của Thủ tướng Nhật Yasuhiro Nakasone“Nếu Mỹ rút khỏi Nhật Bản, chúng tôi phải dành suốt mười năm tới chỉ để lo tái võ trang trong nhiều mặt, kể cả sản xuất võ khí nguyên tử”. Một quốc gia có nền kinh tế lớn thứ ba trên thế giới nhưng dành vỏn vẹn một phần trăm cho ngân sách quốc phòng chỉ vì Nhật dựa vào khả năng quốc phòng của Mỹ và sự có mặt của 35 ngàn quân Mỹ. Khác với chủ trương “đánh cho Mỹ cút ngụy nhào” của Hồ Chí Minh, trong một thống kê mới đây, 73 phần trăm công dân Nhật biết ơn quân đội Mỹ bảo vệ họ.
Đứng trước một miền Bắc điêu tàn sau mấy trăm năm nội chiến và thực dân áp bức, một giới lãnh đạo nếu thật tâm thương yêu dân tộc trước hết phải nghĩ đến việc vá lại những tang thương đổ vỡ, đưa đất nước ra khỏi cảnh đói nghèo, lạc hậu. Ngay cả thống nhất là một ước mơ chung và có thật đi nữa cũng cần thời gian và điều kiện. Con người trước hết phải sống, phải có cơm ăn, áo mặc, nhà ở, học hành trước khi nghĩ đến chuyện đoàn tụ với đồng bào và bà con thân thuộc.
Ngoại trừ các lãnh đạo CSVN, trên thế giới chưa có một giới lãnh đạo thể hiện lòng yêu nước bằng cách giết đi một phần mười dân số, đốt cháy đi một nửa giang sơn của tổ tiên để lại, dâng hiến hải đảo chiến lược cho kẻ thù truyền kiếp của dân tộc mà gọi đó là “thống nhất đất nước” và “hòa hợp dân tộc”.
Cũng trong tài liệu chính thức của đảng, ngay cả trước khi ký hiệp định Geneve và khi Việt Nam chưa có một dấu chân người lính Mỹ nào, hội nghị lần thứ sáu của Trung ương Đảng CSVN từ ngày 15 đến 17 tháng 7 năm 1954, Hồ Chí Minh và bộ chính trị đảng CSVN đã nghĩ đến chuyện đánh Mỹ “Hiện nay đế quốc Mỹ là kẻ thù chính của nhân dân thế giới và nó đang trở thành kẻ thù chính và trực tiếp của nhân dân Đông Dương, cho nên mọi việc của ta đều nhằm chống đế quốc Mỹ".
Vào thời điểm trước 1954, dân tộc Việt Nam thật sự có một mối thù không đội trời chung với Mỹ sâu đến thế sao hay giới lãnh đạo CSVN chỉ vẽ hình ảnh một “đế quốc Mỹ thâm độc đầu sỏ” như một lý do để chiếm toàn bộ Việt Nam bằng võ lực, và cùng lúc để phụ họa theo quan điểm chống Mỹ điên cuồng của chủ nô Mao Trạch Đông sau khi nướng gần một nửa triệu thanh niên Trung Quốc qua các đợt biển người trong cuộc chiến Triều Tiên?
Chữ "nước" trong khẩu hiệu “Chống Mỹ cứu nước” là nước Trung Cộng chứ không phải nước Việt Nam.
Đường lối chiến tranh cách mạng của Mao có thể tóm tắt trong bài phát biểu tại Diên An: “Nhiệm vụ trung tâm và hình thức cao nhất của cách mạng là chiếm lấy quyền lực xuyên qua đấu tranh võ trang và giải quyết xung đột bằng chiến tranh. Đây là nguyên tắc cách mạng của chủ nghĩa Mác Lênin, và và phải được một cách toàn diện tại Trung Quốc và toàn thế thế giới”. Đường lối sắt máu đó đã được các lãnh đạo CSVN áp dụng một cách nguyên tắc và chi phối toàn bộ chiến lược chiến tranh của đảng CSVN từ khi phát động cuộc chiến “giải phóng miền Nam bằng võ lực” cho tới 30 tháng Tư 1975. Tất cả các hiệp định từ Geneva 1954 cho tới Paris 1973 chỉ là những trạm dừng chân, thời gian nghĩ ngơi dưỡng sức của đoàn quân CS chứ không phải là chặng cuối cùng.
Ngày 30 tháng 4 năm 1975, sau gần một thế kỷ với bao nhiều tổn thất máu xương, tù ngục, mục tiêu Cộng Sản hóa Việt Nam của đảng cuối cùng đã đạt được. Lê Duẩn, trong diễn văn mừng chiến thắng vài hôm sau đó đã nói “vinh quang này thuộc về đảng Lao Động Việt Nam quang vinh, người tổ chức và lãnh đạo mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam”. Lời phát biểu của họ Lê nhất quán với nghị quyết của đại hội Đảng Cộng sản Đông Dương do Trần Phú chủ trì năm 1930 và được Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương phê chuẩn vào tháng 4 cùng năm, ghi rõ: "Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản trong cuộc cách mạng; hai giai đoạn cách mạng từ cách mạng tư sản dân quyền chống đế quốc và phong kiến nhằm thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và người cày có ruộng và sau đó chuyển sang làm cách mạng xã hội chủ nghĩa.”
Nguyễn Phú Trọng, Tổng bí thư đảng CSVN cũng lần nữa khẳng định “Ngay khi mới ra đời và trong suốt quá trình đấu tranh cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn khẳng định: chủ nghĩa xã hội là mục tiêu, lý tưởng của Đảng Cộng sản và nhân dân Việt Nam; đi lên chủ nghĩa xã hội là yêu cầu khách quan, là con đường tất yếu của cách mạng Việt Nam.... Vào những năm cuối thế kỷ XX, mặc dù trên thế giới chủ nghĩa xã hội hiện thực đã bị đổ vỡ một mảng lớn, hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa không còn, phong trào xã hội chủ nghĩa đang trong giai đoạn khủng hoảng, thoái trào, gặp rất nhiều khó khăn, Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn tiếp tục khẳng định: “Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh”.
Nhiều người cho rằng Nguyễn Phú Trọng nói những câu lạc hậu, lỗi thời mà không biết mắc cỡ. Tôi tin y nói một cách chân thành và hãnh diện. Nhờ tài lãnh đạo mà đảng CSVN đã tồn tại dù cả một hệ thống xã hội chủ nghĩa lớn mạnh như Liên Xô đã phải sụp đổ.
Đối diện với thời đại toàn cầu hóa, nội chung chủ nghĩa Mác về mặt kinh tế đã phải thay đổi để đáp ứng nhu cầu tồn tại của đảng nhưng cơ chế nhà nước toàn trị sắc máu theo kiểu Lê Nin, Stalin chẳng những được duy trì mà còn củng cố chặt chẽ và nâng cấp kỹ thuật cao hơn. Dù ngoài miệng có hát bài “hòa hợp hòa giải” thắm đượm tình dân tộc, bên trong, các chính sách của đảng vẫn luôn kiên trì với mục tiêu toàn trị và bất cứ ai đi ngược với mục tiêu đó đều bị triệt tiêu không thương xót.
Dưới chế độ Cộng Sản, không những người dân bị ràng buộc vào bộ máy mà cả các lãnh đạo cũng sinh hoạt trong khuôn khổ tổ chức và nghiêm chỉnh thực thi các nguyên tắc lãnh đạo độc tài sắc máu do đảng của họ đề ra. Điều đó giải thích lý do giọng điệu của những cựu lãnh đạo Cộng Sản như Võ Văn Kiệt, Nguyễn Văn An, Nguyễn Khoa Điềm sau khi rời chức vụ giống như những người vừa được giải phẫu thanh quản, nói dễ nghe hơn nhiều so với thời còn trong bộ máy cầm quyền. Họ không phải là những người “buông dao thành Phật” nhưng chỉ vì họ đã trở về với vị trí một con người bình thường, ít bị ràng buộc trong cách ăn cách nói, cách hành xử, cách khen thưởng và trừng phạt như khi còn tại chức.
Giới lãnh đạo Cộng Sản được trui rèn trong tranh đấu, được huấn luyện chính trị từ cấp đội, cấp đoàn trước khi giữ các vị trí then chốt trong đảng và nhà nước CS. Họ nắm vững tâm lý và vận dụng một cách khéo léo tâm lý quần chúng để phục vụ cho các chính sách của đảng trong từng thời kỳ. Sau biến cố Thiên An Môn, để đánh lạc hướng cuộc đấu tranh đòi dân chủ của thanh niên sinh viên, nhà cầm quyền Cộng Sản Trung Quốc khai thác lòng căm thù chính sách quân phiệt của Nhật đã xảy ra từ thế kỷ trước. Lợi dụng việc Bộ Giáo dục Nhật bản liệt kê biến cố tàn sát Nam Kinh như một tai nạn trong sách giáo khoa, nhà cầm quyền Trung Quốc đã khuyến khích hàng chục ngàn thanh niên sinh viên Trung Quốc biểu tình suốt 3 tuần lễ trước tòa đại sứ Nhật. Việt Nam cũng thế. Trong chiến tranh biên giới 1979, các lãnh đạo CSVN đã lần nữa sử dụng thành công viên thuốc độc bọc đường “bảo vệ tổ quốc”.
Máu của hàng vạn thanh niên Việt Nam đổ xuống dọc biên giới Việt Trung phát xuất từ tình yêu quê hương trong sáng và đáng được tôn vinh, tuy nhiên, nếu dừng lại một phút để hỏi, họ thật sự chết vì tổ quốc hay chỉ để trả nợ xương máu giùm cho đảng CSVN?
Với tất cả thông tin được phơi bày, tài liệu được giải mật cho thấy, cuộc chiến “chống Mỹ cứu nước” mà giới lãnh đạo CSVN đưa ra thực chất chỉ là cái cớ. Không có một người lính Mỹ nào đến Việt Nam, đảng vẫn cộng sản hóa miền Nam cho bằng được. Bộ máy tuyên truyền tinh vi của đảng thừa khả năng để nghĩ ra hàng trăm lý do khác để đánh miền Nam. Đảng CSVN là nguyên nhân khiến cho nhiều triệu người Việt vô tội ở hai miền đã phải chết một cách oan uổng, bao nhiêu thế hệ bị tiêu vong, bao nhiêu tài nguyên bị tàn phá và quan trọng nhất, chiếc còng Trung Cộng mà đảng thông đồng để đeo trên cổ dân tộc Việt Nam mỗi ngày ăn sâu vào da thịt nhưng không biết làm sao tháo gỡ xuống đây. Nói theo cách viết của nhạc sĩ Việt Khang “Việt Nam ơi thời gian quá nửa đời, và ta đã tỏ tường rồi”, chiến tranh xảy ra tại Việt Nam mà không ở đâu khác chỉ vì Việt Nam có đảng Cộng Sản Việt Nam.
Ngoại trừ các em, các cháu bị nhào nặn trong nền giáo dục ngu dân một chiều chưa có dịp tiếp xúc với các nguồn thông tin khách quan khoa học, nếu hôm nay, những người có học, biết nhận thức mà còn nghĩ rằng cuộc chiến kết thúc vào ngày 30 tháng 4 năm 1975 là cuộc chiến “chống Mỹ cứu nước”, những kẻ đó hoặc bị tẩy não hoàn toàn hoặc biết mình sai nhưng không đủ can đảm để thừa nhận ra nguồn gốc sâu xa của cuộc chiến Việt Nam và tự dối lòng để tiếp tục sống cho hết một kiếp người.
Sau 40 năm, “hàng triệu người buồn” như ông Võ Văn Kiệt nói, nếu chưa qua đời, hôm nay vẫn còn buồn. Nhưng người buồn không phải chỉ từ phía những người lính Việt Nam Cộng Hòa bị buộc buông súng, từ phía nhân dân miền Nam bị mất tự do mà còn là những người miền Bắc, cả những người trong đảng CS đã biết ra sự thật, biết mình bị lừa gạt, biết mình đã dâng hiến cả một cuộc đời trai trẻ cho một chủ nghĩa độc tài, ngoại lai, vong bản.
Không hiểu đúng tại sao chủ nghĩa CS đến Việt Nam sẽ không có một cách thích hợp để đẩy CS đi ra khỏi Việt Nam. Và tương tự, không hiểu đúng quá khứ, sẽ không có hành động đúng vì tương lai đất nước.
Gần mười năm trước tôi kết luận bài viết về ngày 30 tháng 4 bằng ba phân đoạn dưới đây và năm nay, tôi kết luận một lần nữa cũng bằng những dòng chữ đó để chứng minh một điều, tuổi trẻ của tôi có thể qua đi nhưng niềm tin vào tuổi trẻ trong tôi vẫn còn nguyên vẹn.
Như lịch sử đã chứng minh, chính nghĩa bao giờ cũng thắng. Không có vũ khí nào mạnh hơn sức mạnh đoàn kết dân tộc. Chỉ có sức mạnh Đoàn Kết Dân Tộc, chúng ta mới có khả năng bảo vệ được chủ quyền và lãnh thổ Việt Nam, chỉ có sức mạnh Đoàn Kết Dân Tộc chúng ta mới có khả năng vượt lên những hệ lụy quá khứ để hướng vào tương lai tươi sáng cho đời đời con cháu mai sau và chỉ có sức mạnh Đoàn Kết Dân Tộc chúng ta mới có khả năng phục hồi sự kính trọng Việt Nam trong lân quốc cũng như trong bang giao quốc tế.
Ngày 30 tháng 4, ngoài tất cả ý nghĩa mà chúng ta đã biết, còn là ngày để mỗi chúng ta nhìn lại chính mình, ngày để mỗi chúng ta tự hỏi mình đã làm gì cho đất nước, và đang đứng đâu trong cuộc vận hành của lịch sử hôm nay. Mỗi người Việt Nam có hoàn cảnh sống khác nhau, quá khứ khác nhau, tôn giáo khác nhau và mang trên thân thể những thương tích khác nhau, nhưng chỉ có một đất nước để cùng lo gánh vác. Đất nước phải vượt qua những hố thẳm đói nghèo lạc hậu và đi lên cùng nhân loại. Không ai có quyền bắt đất nước phải đau nỗi đau của mình hay bắt đất nước phải đi ngược chiều kim lịch sử như mình đang đi lùi dần vào quá khứ. Sức mạnh của dân tộc Việt Nam không nằm trong tay thiểu số lãnh đạo CSVN. Tương lai dân tộc không nằm trong tay thiểu số lãnh đạo CSVN. Sinh mệnh dân tộc Việt Nam do chính nhân dân Việt Nam quyết định. Và do đó, con đường để đến một điểm hẹn lịch sử huy hoàng cho con cháu, chính là con đường dân tộc và không có một con đường nào khác.
Bốn mươi năm là một quãng đường dài. Chúng ta đã hơn một lần trễ hẹn với non sông, nhưng không phải vì thế mà không còn cơ hội. Cơ hội vẫn còn đó nếu chúng ta biết đoàn kết, thấy được hướng đi chung của dân tộc và thời đại. Chúng ta có nhiều quá khứ nhưng đất nước chỉ có một tương lai, đó là tương lai tự do, dân chủ, nhân bản và khai phóng cho những ai, sau những điêu tàn đổ vỡ, còn biết nhận ra nhau, còn biết yêu thương mảnh đất thiêng liêng, vinh quang và thống khổ Việt Nam.
(Tháng Tư 2012, Tháng Tư 2015)
Trần Trung Đạo –
di tản tháng Tư-1975
Những ngày còn nhỏ, tôi bị ám ảnh bởi câu hỏi tự mình đặt ra “Tại sao chiến tranh diễn ra tại Việt Nam mà không phải tại một quốc gia nào khác?”
Tôi lớn lên ở Đà Nẵng. Đường phố quê hương tôi trong khoảng thời gian
từ 1968 đến 1972 có rất nhiều lính Mỹ. Những chiến tàu nhập cảng Tiên
Sa chở đầy chiến xa và súng đạn mang nhãn “Made in USA”. Những đoàn xe
vận tải hiệu Sealand, RMK gần như chạy suốt ngày đêm từ nơi dỡ hàng
ngoài bờ biển đến các kho quân sự chung quanh Đà Nẵng. Tiếng gầm thét
của các phi cơ chiến đấu có đôi cánh gắn đầy bom, lát nữa, sẽ được ném
xuống một nơi nào đó trên mảnh đất Việt Nam. Những câu lạc bộ, được gọi
là “hộp đêm”, mọc đầy hai bên bờ sông Hàn. Mỹ đen, Mỹ trắng chở hàng
quân tiếp vụ đi bán dọc chợ Cồn, chợ Vườn Hoa.
Phía trước Tòa Thị Chính Đà Nẵng, trước rạp hát Trưng Vương hay trong
sân vận động Chi Lăng, gần như tháng nào cũng có trưng bày chiến lợi
phẩm tịch thu từ các cuộc hành quân. Những khẩu thượng liên có nòng súng
cao, những khẩu pháo nòng dài, rất nhiều AK 47, B40, súng phóng lựu đạn
và hàng khối đạn đồng vàng rực. Sau “Mùa hè đỏ lửa” trong số chiến lợi
phẩm còn có một chiếc xe tăng T54 được trưng bày rất lâu trước Tòa Thị
Chính. Không cần phải giỏi ngoại ngữ, chỉ nhìn nhãn hiệu tôi cũng biết
ngay chúng là hàng của Trung cộng và Liên Xô.
Nhìn viên đạn của Nga và Tàu, tôi nghĩ đến trái tim của người lính
trẻ miền Nam, giống như khi nhìn chiếc chiến đấu cơ của Mỹ cất cánh tôi
chợt nghĩ đến các anh lính từ miền Bắc xấu số đang di chuyển bên kia
sông Thu Bồn. Vũ khí là của các đế quốc. Không có khẩu súng nào chế tạo ở
miền Nam hay miền Bắc. Các bà mẹ Việt Nam chỉ chế tạo được những đứa
con và đóng góp phần xương máu.
Vũ khí của các đế quốc trông khác nhau nhưng nạn nhân của chúng dù
bên này hay bên kia lại rất giống nhau. Nếu tháo đi chiếc nón sắt, chiếc
mũ vải xanh, hai người thanh niên có mái tóc đen, vầng trán hẹp, đôi
mắt buồn hiu vì nhớ mẹ, nhớ em chẳng khác gì nhau. Dù “con đường Duy Tân
cây dài bóng mát” hay “mặt hồ Gươm vẫn lung linh mây trời” cũng là quê
hương Việt Nam và nỗi nhớ trong tâm hồn người con trai Việt ở đâu cũng
đậm đà tha thiết.
Người lính miền Nam chết vì phải bảo vệ chiếc cầu, căn nhà, xóm làng,
góc phố thân yêu của họ. Nếu ai làm một thống kê để hỏi những lính miền
Nam còn sống hôm nay, tôi tin không ai trả lời muốn “ăn gan uống máu
quân thù” miền Bắc. Họ chỉ muốn sống yên ổn trong hòa bình để xây đắp
lại mảnh đất họ đã “xin chọn nơi này làm quê hương” sau khi trải qua quá
nhiều đau thương tang tóc. Họ phải chiến đấu và hy sinh trong một cuộc
chiến tự vệ mà họ không chọn lựa.
Dân chủ không phải là lô độc đắc rơi vào
trong túi của người dân miền Nam mà phải trải bằng một giá rất đắt. Tham
nhũng, lạm quyền, ám sát, đảo chánh diễn ra trong nhiều năm sau 1960.
Có một dạo, tấm hình của vị “nguyên thủ quốc gia” chưa đem ra khỏi nhà
in đất nước đã có một “nguyên thủ quốc gia” khác. Nhưng đó là chuyện của
chính quyền và nhân dân miền Nam không dính líu gì đến đảng Cộng Sản
miền Bắc.
Dân chủ ở miền Nam không phải là sản phẩm của Mỹ được đóng thùng từ
Washington DC gởi qua nhưng là hạt giống do Phan Chu Trinh, Bùi Quang
Chiêu, Nguyễn Phan Long, Phan Văn Trường, Nguyễn An Ninh và rất nhiều
nhà cách mạng miền Nam khác gieo xuống hàng nửa thế kỷ trước đã mọc và
lớn lên trong mưa bão. Không chỉ miền Nam Việt Nam mà ở đâu cũng vậy.
Nam Hàn, Ấn Độ, Thổ Nhĩ Kỳ, Phi Luật Tân và nhiều quốc gia khác, dân chủ
đã phải trải qua con đường máu nhuộm trước khi đơm bông kết trái.
Khác với người lính miền Nam, người lính miền Bắc chết vì viên thuốc
độc bọc đường “thống nhất đất nước”. Chị Đặng Thùy Trâm bị giết ở Quảng
Ngãi đã uống viên thuốc đó. Anh Nguyễn Văn Thạc, tác giả của hồi ký
“Mãi mãi tuổi hai mươi” bị giết ở Quảng Trị đã uống viên thuốc đó. Cô bé
Trần Thị Hường 17 tuổi và chín cô gái ở Ngã Ba Đồng Lộc bị bom Mỹ rơi
trúng ngay hầm đã uống viên thuốc đó. Họ không biết đó là thuốc độc.
Không biết thì không đáng trách. Nhà văn Dương Thu Hương trải qua một
thời thanh niên xung phong nhưng chị may mắn còn sống để nhắc cho các
thế hệ trẻ Việt Nam hôm nay biết “chế độ ngoài Bắc là chế độ man rợ vì nó chọc mù mắt con người, bịt lỗ tai con người.”
Tại sao chiến tranh diễn ra tại Việt Nam mà không phải tại một quốc gia nào khác?
Bởi vì Việt Nam có đảng Cộng Sản Việt Nam.
Thật không công bằng cho đảng nếu tôi chỉ dùng tài liệu trong các thư
viện ở Mỹ để chứng minh âm mưu xích hóa Việt Nam của đảng CSVN. Tôi sẽ
trích những câu do đảng viết ra. Theo quan điểm lịch sử của đảng CSVN
chiến tranh đã xảy ra bởi vì “Ở miền Nam, lợi dụng sự thất bại và
khó khăn của thực dân Pháp, đế quốc Mỹ đã nhảy vào để thay chân Pháp
nhằm biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mỹ.”
Không ai hình dung “thuộc địa kiểu mới” hình dáng ra sao và đảng cũng chưa bao giờ giải thích một cách rõ ràng.
Sau Thế chiến thứ hai, hàng loạt quốc gia trong đó có những nước vốn
từng là đế quốc, đã nằm trong vòng ảnh hưởng kinh tế và cả chính trị của
Mỹ. Chẳng lẽ 18 nước châu Âu bao gồm Tây Đức, Áo, Bỉ, Pháp, Ý, Anh, Hòa
Lan v.v… trong kế hoạch Marshall chia nhau hàng trăm tỉ đô la của Mỹ để
tái thiết đất nước sau thế chiến thứ hai đều trở thành những “thuộc địa
mới” của Mỹ hay sao? Chẳng lẽ các nước Á châu như Nam Hàn, Nhật Bản,
Đài Loan được viện trợ không những tiền của mà còn bằng cả sức người để
xây dựng lại đất nước họ là “thuộc địa mới” của Mỹ hay sao?
Chuyện trở thành một “căn cứ quân sự” của Mỹ lại càng khó hơn.
Chính sách vô cùng khôn khéo của chính phủ Thổ Nhĩ Kỳ dùng Đệ Lục Hạm
Đội Mỹ làm hàng rào bảo vệ đất nước Thổ ngăn chặn làn sóng đỏ Liên Xô
xâm lược là một bài học cho các lãnh đạo quốc gia biết mở mắt nhìn xa.
Mặc dù là một nước trung lập trong thế chiến thứ hai, để lấy lòng Mỹ,
lãnh đạo Thổ đã tình nguyện gởi 5500 quân tham chiến bên cạnh Mỹ trong
chiến tranh Triều Tiên. Quân đội Thổ chiến đấu anh dũng nhưng cũng chịu
đựng tổn thất rất nặng nề. Một nửa lực lượng Thổ đã chết và bị thương
trong ba năm chiến tranh. Nhờ sự hy sinh của họ mà Thổ Nhĩ Kỳ được đền
bù. Ngày 18 tháng 2 năm 1952, Thổ Nhĩ Kỳ chính thức trở thành hội viên
của NATO và hùng mạnh đến ngày nay.
Nhật Bản là một ví dụ khác. Trong cuốn phim tài liệu Thế Giới Thiếu
Mỹ (The World Without US) đạo diễn Mitch Anderson trích lời phát biểu
của Thủ tướng Nhật Yasuhiro Nakasone “Nếu Mỹ rút khỏi Nhật Bản, chúng
tôi phải dành suốt mười năm tới chỉ để lo tái võ trang trong nhiều mặt,
kể cả sản xuất võ khí nguyên tử”. Một quốc gia có nền kinh tế lớn thứ ba
trên thế giới nhưng dành vỏn vẹn một phần trăm cho ngân sách quốc phòng
chỉ vì Nhật dựa vào khả năng quốc phòng của Mỹ và sự có mặt của 35 ngàn
quân Mỹ. Khác với chủ trương “đánh cho Mỹ cút ngụy nhào” của Hồ Chí
Minh, trong một thống kê mới đây, 73 phần trăm công dân Nhật biết ơn
quân đội Mỹ bảo vệ họ.
Đứng trước một miền Bắc điêu tàn sau mấy trăm năm nội chiến và thực
dân áp bức, một giới lãnh đạo nếu thật tâm thương yêu dân tộc trước hết
phải nghĩ đến việc vá lại những tang thương đổ vỡ, đưa đất nước ra khỏi
cảnh đói nghèo, lạc hậu. Ngay cả thống nhất là một ước mơ chung và có
thật đi nữa cũng cần thời gian và điều kiện. Con người trước hết phải
sống, phải có cơm ăn, áo mặc, nhà ở, học hành trước khi nghĩ đến chuyện
đoàn tụ với đồng bào và bà con thân thuộc.
Ngoại trừ các lãnh đạo CSVN, trên thế giới chưa có một giới lãnh đạo
thể hiện lòng yêu nước bằng cách giết đi một phần mười dân số, đốt cháy
đi một nửa giang sơn của tổ tiên để lại, dâng hiến hải đảo chiến lược
cho kẻ thù truyền kiếp của dân tộc mà gọi đó là “thống nhất đất nước” và
“hòa hợp dân tộc”.
Cũng trong tài liệu chính thức của đảng, ngay cả trước khi ký hiệp
định Geneve và khi Việt Nam chưa có một dấu chân người lính Mỹ nào, hội
nghị lần thứ sáu của Trung ương Đảng CSVN từ ngày 15 đến 17 tháng 7 năm
1954, Hồ Chí Minh và bộ chính trị đảng CSVN đã nghĩ đến chuyện đánh Mỹ
“Hiện nay đế quốc Mỹ là kẻ thù chính của nhân dân thế giới và nó đang
trở thành kẻ thù chính và trực tiếp của nhân dân Đông Dương, cho nên mọi
việc của ta đều nhằm chống đế quốc Mỹ”.
Vào thời điểm trước 1954, dân tộc Việt Nam thật sự có một mối thù
không đội trời chung với Mỹ sâu đến thế sao hay giới lãnh đạo CSVN chỉ
vẽ hình ảnh một “đế quốc Mỹ thâm độc đầu sỏ” như một lý do để chiếm toàn
bộ Việt Nam bằng võ lực, và cùng lúc để phụ họa theo quan điểm chống Mỹ
điên cuồng của chủ nô Mao Trạch Đông sau khi nướng gần một nửa triệu
thanh niên Trung Quốc qua các đợt biển người trong cuộc chiến Triều
Tiên?
Chữ “nước” trong khẩu hiệu “Chống Mỹ cứu nước” là nước Trung Cộng chứ không phải nước Việt Nam.
Đường lối chiến tranh cách mạng của Mao có thể tóm tắt trong bài phát biểu tại Diên An: “Nhiệm
vụ trung tâm và hình thức cao nhất của cách mạng là chiếm lấy quyền lực
xuyên qua đấu tranh võ trang và giải quyết xung đột bằng chiến tranh.
Đây là nguyên tắc cách mạng của chủ nghĩa Mác Lênin, và và phải được một
cách toàn diện tại Trung Quốc và toàn thế thế giới”. Đường lối sắt
máu đó đã được các lãnh đạo CSVN áp dụng một cách nguyên tắc và chi
phối toàn bộ chiến lược chiến tranh của đảng CSVN từ khi phát động cuộc
chiến “giải phóng miền Nam bằng võ lực” cho tới 30 tháng Tư 1975. Tất cả
các hiệp định từ Geneva 1954 cho tới Paris 1973 chỉ là những trạm dừng
chân, thời gian nghĩ ngơi dưỡng sức của đoàn quân CS chứ không phải là
chặng cuối cùng.
Ngày 30 tháng 4 năm 1975, sau gần một thế kỷ với bao nhiều tổn thất
máu xương, tù ngục, mục tiêu Cộng Sản hóa Việt Nam của đảng cuối cùng đã
đạt được. Lê Duẩn, trong diễn văn mừng chiến thắng vài hôm sau đó đã
nói “vinh quang này thuộc về đảng Lao Động Việt Nam quang vinh, người tổ chức và lãnh đạo mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam”.
Lời phát biểu của họ Lê nhất quán với nghị quyết của đại hội Đảng Cộng
sản Đông Dương do Trần Phú chủ trì năm 1930 và được Hội nghị Ban Chấp
hành Trung ương phê chuẩn vào tháng 4 cùng năm, ghi rõ: “Vai trò
lãnh đạo của Đảng Cộng sản trong cuộc cách mạng; hai giai đoạn cách mạng
từ cách mạng tư sản dân quyền chống đế quốc và phong kiến nhằm thực
hiện mục tiêu độc lập dân tộc và người cày có ruộng và sau đó chuyển
sang làm cách mạng xã hội chủ nghĩa.”
Nguyễn Phú Trọng, Tổng bí thư đảng CSVN cũng lần nữa khẳng định “Ngay
khi mới ra đời và trong suốt quá trình đấu tranh cách mạng, Đảng Cộng
sản Việt Nam luôn luôn khẳng định: chủ nghĩa xã hội là mục tiêu, lý
tưởng của Đảng Cộng sản và nhân dân Việt Nam; đi lên chủ nghĩa xã hội là
yêu cầu khách quan, là con đường tất yếu của cách mạng Việt Nam…. Vào
những năm cuối thế kỷ XX, mặc dù trên thế giới chủ nghĩa xã hội hiện
thực đã bị đổ vỡ một mảng lớn, hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa không
còn, phong trào xã hội chủ nghĩa đang trong giai đoạn khủng hoảng, thoái
trào, gặp rất nhiều khó khăn, Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn tiếp tục khẳng
định: “Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo
con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lê-nin và tư
tưởng Hồ Chí Minh”.
Nhiều người cho rằng Nguyễn Phú Trọng nói những câu lạc hậu, lỗi thời mà
không biết mắc cỡ. Tôi tin y nói một cách chân thành và hãnh diện. Nhờ
tài lãnh đạo mà đảng CSVN đã tồn tại dù cả một hệ thống xã hội chủ nghĩa
lớn mạnh như Liên Xô đã phải sụp đổ.
Đối diện với thời đại toàn cầu hóa, nội chung chủ nghĩa Mác về mặt
kinh tế đã phải thay đổi để đáp ứng nhu cầu tồn tại của đảng nhưng cơ
chế nhà nước toàn trị sắt máu theo kiểu Lê Nin, Stalin chẳng những được
duy trì mà còn củng cố chặt chẽ và nâng cấp kỹ thuật cao hơn. Dù ngoài
miệng có hát bài “hòa hợp hòa giải” thắm đượm tình dân tộc, bên trong,
các chính sách của đảng vẫn luôn kiên trì với mục tiêu toàn trị và bất
cứ ai đi ngược với mục tiêu đó đều bị triệt tiêu không thương xót.
Dưới chế độ Cộng Sản, không những người dân bị ràng buộc vào bộ máy
mà cả các lãnh đạo cũng sinh hoạt trong khuôn khổ tổ chức và nghiêm
chỉnh thực thi các nguyên tắc lãnh đạo độc tài sắc máu do đảng của họ đề
ra. Điều đó giải thích lý do giọng điệu của những cựu lãnh đạo Cộng Sản
như Võ Văn Kiệt, Nguyễn Văn An, Nguyễn Khoa Điềm sau khi rời chức vụ
giống như những người vừa được giải phẫu thanh quản, nói dễ nghe hơn
nhiều so với thời còn trong bộ máy cầm quyền. Họ không phải là những
người “buông dao thành Phật” nhưng chỉ vì họ đã trở về với vị trí một
con người bình thường, ít bị ràng buộc trong cách ăn cách nói, cách hành
xử, cách khen thưởng và trừng phạt như khi còn tại chức.
Giới lãnh đạo Cộng Sản được trui rèn trong tranh đấu, được huấn luyện
chính trị từ cấp đội, cấp đoàn trước khi giữ các vị trí then chốt trong
đảng và nhà nước CS. Họ nắm vững tâm lý và vận dụng một cách khéo léo
tâm lý quần chúng để phục vụ cho các chính sách của đảng trong từng thời
kỳ. Sau biến cố Thiên An Môn, để đánh lạc hướng cuộc đấu tranh đòi dân
chủ của thanh niên sinh viên, nhà cầm quyền Cộng Sản Trung Quốc khai
thác lòng căm thù chính sách quân phiệt của Nhật đã xảy ra từ thế kỷ
trước. Lợi dụng việc Bộ Giáo dục Nhật bản liệt kê biến cố tàn sát Nam
Kinh như một tai nạn trong sách giáo khoa, nhà cầm quyền Trung Quốc đã
khuyến khích hàng chục ngàn thanh niên sinh viên Trung Quốc biểu tình
suốt 3 tuần lễ trước tòa đại sứ Nhật. Việt Nam cũng thế. Trong chiến
tranh biên giới 1979, các lãnh đạo CSVN đã lần nữa sử dụng thành công
viên thuốc độc bọc đường “bảo vệ tổ quốc”.
Máu của hàng vạn thanh niên Việt Nam đổ xuống dọc biên giới Việt
Trung phát xuất từ tình yêu quê hương trong sáng và đáng được tôn vinh,
tuy nhiên, nếu dừng lại một phút để hỏi, họ thật sự chết vì tổ quốc hay
chỉ để trả nợ xương máu giùm cho đảng CSVN?
Với tất cả thông tin được phơi bày, tài liệu được giải mật cho thấy,
cuộc chiến “chống Mỹ cứu nước” mà giới lãnh đạo CSVN đưa ra thực chất
chỉ là cái cớ. Không có một người lính Mỹ nào đến Việt Nam, đảng vẫn
cộng sản hóa miền Nam cho bằng được. Bộ máy tuyên truyền tinh vi của
đảng thừa khả năng để nghĩ ra hàng trăm lý do khác để đánh miền Nam.
Đảng CSVN là nguyên nhân khiến cho nhiều triệu người Việt vô tội ở hai
miền đã phải chết một cách oan uổng, bao nhiêu thế hệ bị tiêu vong, bao
nhiêu tài nguyên bị tàn phá và quan trọng nhất, chiếc còng Trung Cộng mà
đảng thông đồng để đeo trên cổ dân tộc Việt Nam mỗi ngày ăn sâu vào da
thịt nhưng không biết làm sao tháo gỡ xuống đây. Nói theo cách viết của
nhạc sĩ Việt Khang “Việt Nam ơi thời gian quá nửa đời, và ta đã tỏ
tường rồi”, chiến tranh xảy ra tại Việt Nam mà không ở đâu khác chỉ vì
Việt Nam có đảng Cộng Sản.
Ngoại trừ các em, các cháu bị nhào nặn trong nền giáo dục ngu dân một
chiều chưa có dịp tiếp xúc với các nguồn thông tin khách quan khoa học,
nếu hôm nay, những người có học, biết nhận thức mà còn nghĩ rằng cuộc
chiến kết thúc vào ngày 30 tháng 4 năm 1975 là cuộc chiến “chống Mỹ cứu
nước”, những kẻ đó hoặc bị tẩy não hoàn toàn hoặc biết mình sai nhưng
không đủ can đảm để thừa nhận ra nguồn gốc sâu xa của cuộc chiến Việt
Nam và tự dối lòng để tiếp tục sống cho hết một kiếp người.
Sau 40 năm, “hàng triệu người buồn” như ông Võ Văn Kiệt nói, nếu chưa
qua đời, hôm nay vẫn còn buồn. Nhưng người buồn không phải chỉ từ phía
những người lính Việt Nam Cộng Hòa bị buộc buông súng, từ phía nhân dân
miền Nam bị mất tự do mà còn là những người miền Bắc, cả những người
trong đảng CS đã biết ra sự thật, biết mình bị lừa gạt, biết mình đã
dâng hiến cả một cuộc đời trai trẻ cho một chủ nghĩa độc tài, ngoại lai,
vong bản.
Không hiểu đúng tại sao chủ nghĩa CS đến
Việt Nam sẽ không có một cách thích hợp để đẩy CS đi ra khỏi Việt Nam.
Và tương tự, không hiểu đúng quá khứ, sẽ không có hành động đúng vì
tương lai đất nước.
Gần mười năm trước tôi kết luận bài viết về ngày 30 tháng 4 bằng ba
phân đoạn dưới đây và năm nay, tôi kết luận một lần nữa cũng bằng những
dòng chữ đó để chứng minh một điều, tuổi trẻ của tôi có thể qua đi nhưng
niềm tin vào tuổi trẻ trong tôi vẫn còn nguyên vẹn.
Như lịch sử đã chứng minh, chính nghĩa bao giờ cũng thắng. Không có
vũ khí nào mạnh hơn sức mạnh đoàn kết dân tộc. Chỉ có sức mạnh Đoàn Kết
Dân Tộc, chúng ta mới có khả năng bảo vệ được chủ quyền và lãnh thổ Việt
Nam, chỉ có sức mạnh Đoàn Kết Dân Tộc chúng ta mới có khả năng vượt lên
những hệ lụy quá khứ để hướng vào tương lai tươi sáng cho đời đời con
cháu mai sau và chỉ có sức mạnh Đoàn Kết Dân Tộc chúng ta mới có khả
năng phục hồi sự kính trọng Việt Nam trong lân quốc cũng như trong bang
giao quốc tế.
Ngày 30 tháng 4, ngoài tất cả ý nghĩa mà chúng ta đã biết, còn là
ngày để mỗi chúng ta nhìn lại chính mình, ngày để mỗi chúng ta tự hỏi
mình đã làm gì cho đất nước, và đang đứng đâu trong cuộc vận hành của
lịch sử hôm nay. Mỗi người Việt Nam có hoàn cảnh sống khác nhau, quá khứ
khác nhau, tôn giáo khác nhau và mang trên thân thể những thương tích
khác nhau, nhưng chỉ có một đất nước để cùng lo gánh vác. Đất nước phải
vượt qua những hố thẳm đói nghèo lạc hậu và đi lên cùng nhân loại. Không
ai có quyền bắt đất nước phải đau nỗi đau của mình hay bắt đất nước
phải đi ngược chiều kim lịch sử như mình đang đi lùi dần vào quá khứ.
Sức mạnh của dân tộc Việt Nam không nằm trong tay thiểu số lãnh đạo
CSVN. Tương lai dân tộc không nằm trong tay thiểu số lãnh đạo CSVN. Sinh
mệnh dân tộc Việt Nam do chính nhân dân Việt Nam quyết định. Và do đó,
con đường để đến một điểm hẹn lịch sử huy hoàng cho con cháu, chính là
con đường dân tộc và không có một con đường nào khác.
Bốn mươi năm là một quãng đường dài. Chúng
ta đã hơn một lần trễ hẹn với non sông, nhưng không phải vì thế mà không
còn cơ hội. Cơ hội vẫn còn đó nếu chúng ta biết đoàn kết, thấy được
hướng đi chung của dân tộc và thời đại. Chúng ta có nhiều quá khứ nhưng
đất nước chỉ có một tương lai, đó là tương lai tự do, dân chủ, nhân bản
và khai phóng cho những ai, sau những điêu tàn đổ vở, còn biết nhận ra
nhau, còn biết yêu thương mảnh đất thiêng liêng, vinh quang và thống khổ
Việt Nam.
Trần Trung Đạo
(Tháng Tư 2012, Tháng Tư 2015)
Trần Trung Đạo –
di tản tháng Tư-1975
di tản tháng Tư-1975
Những ngày còn nhỏ, tôi bị ám ảnh bởi câu hỏi tự mình đặt ra “Tại sao chiến tranh diễn ra tại Việt Nam mà không phải tại một quốc gia nào khác?”
Tôi lớn lên ở Đà Nẵng. Đường phố quê hương tôi trong khoảng thời gian
từ 1968 đến 1972 có rất nhiều lính Mỹ. Những chiến tàu nhập cảng Tiên
Sa chở đầy chiến xa và súng đạn mang nhãn “Made in USA”. Những đoàn xe
vận tải hiệu Sealand, RMK gần như chạy suốt ngày đêm từ nơi dỡ hàng
ngoài bờ biển đến các kho quân sự chung quanh Đà Nẵng. Tiếng gầm thét
của các phi cơ chiến đấu có đôi cánh gắn đầy bom, lát nữa, sẽ được ném
xuống một nơi nào đó trên mảnh đất Việt Nam. Những câu lạc bộ, được gọi
là “hộp đêm”, mọc đầy hai bên bờ sông Hàn. Mỹ đen, Mỹ trắng chở hàng
quân tiếp vụ đi bán dọc chợ Cồn, chợ Vườn Hoa.
Phía trước Tòa Thị Chính Đà Nẵng, trước rạp hát Trưng Vương hay trong
sân vận động Chi Lăng, gần như tháng nào cũng có trưng bày chiến lợi
phẩm tịch thu từ các cuộc hành quân. Những khẩu thượng liên có nòng súng
cao, những khẩu pháo nòng dài, rất nhiều AK 47, B40, súng phóng lựu đạn
và hàng khối đạn đồng vàng rực. Sau “Mùa hè đỏ lửa” trong số chiến lợi
phẩm còn có một chiếc xe tăng T54 được trưng bày rất lâu trước Tòa Thị
Chính. Không cần phải giỏi ngoại ngữ, chỉ nhìn nhãn hiệu tôi cũng biết
ngay chúng là hàng của Trung cộng và Liên Xô.
Nhìn viên đạn của Nga và Tàu, tôi nghĩ đến trái tim của người lính
trẻ miền Nam, giống như khi nhìn chiếc chiến đấu cơ của Mỹ cất cánh tôi
chợt nghĩ đến các anh lính từ miền Bắc xấu số đang di chuyển bên kia
sông Thu Bồn. Vũ khí là của các đế quốc. Không có khẩu súng nào chế tạo ở
miền Nam hay miền Bắc. Các bà mẹ Việt Nam chỉ chế tạo được những đứa
con và đóng góp phần xương máu.
Vũ khí của các đế quốc trông khác nhau nhưng nạn nhân của chúng dù
bên này hay bên kia lại rất giống nhau. Nếu tháo đi chiếc nón sắt, chiếc
mũ vải xanh, hai người thanh niên có mái tóc đen, vầng trán hẹp, đôi
mắt buồn hiu vì nhớ mẹ, nhớ em chẳng khác gì nhau. Dù “con đường Duy Tân
cây dài bóng mát” hay “mặt hồ Gươm vẫn lung linh mây trời” cũng là quê
hương Việt Nam và nỗi nhớ trong tâm hồn người con trai Việt ở đâu cũng
đậm đà tha thiết.
Người lính miền Nam chết vì phải bảo vệ chiếc cầu, căn nhà, xóm làng,
góc phố thân yêu của họ. Nếu ai làm một thống kê để hỏi những lính miền
Nam còn sống hôm nay, tôi tin không ai trả lời muốn “ăn gan uống máu
quân thù” miền Bắc. Họ chỉ muốn sống yên ổn trong hòa bình để xây đắp
lại mảnh đất họ đã “xin chọn nơi này làm quê hương” sau khi trải qua quá
nhiều đau thương tang tóc. Họ phải chiến đấu và hy sinh trong một cuộc
chiến tự vệ mà họ không chọn lựa.
Dân chủ không phải là lô độc đắc rơi vào
trong túi của người dân miền Nam mà phải trải bằng một giá rất đắt. Tham
nhũng, lạm quyền, ám sát, đảo chánh diễn ra trong nhiều năm sau 1960.
Có một dạo, tấm hình của vị “nguyên thủ quốc gia” chưa đem ra khỏi nhà
in đất nước đã có một “nguyên thủ quốc gia” khác. Nhưng đó là chuyện của
chính quyền và nhân dân miền Nam không dính líu gì đến đảng Cộng Sản
miền Bắc.
Dân chủ ở miền Nam không phải là sản phẩm của Mỹ được đóng thùng từ
Washington DC gởi qua nhưng là hạt giống do Phan Chu Trinh, Bùi Quang
Chiêu, Nguyễn Phan Long, Phan Văn Trường, Nguyễn An Ninh và rất nhiều
nhà cách mạng miền Nam khác gieo xuống hàng nửa thế kỷ trước đã mọc và
lớn lên trong mưa bão. Không chỉ miền Nam Việt Nam mà ở đâu cũng vậy.
Nam Hàn, Ấn Độ, Thổ Nhĩ Kỳ, Phi Luật Tân và nhiều quốc gia khác, dân chủ
đã phải trải qua con đường máu nhuộm trước khi đơm bông kết trái.
Khác với người lính miền Nam, người lính miền Bắc chết vì viên thuốc
độc bọc đường “thống nhất đất nước”. Chị Đặng Thùy Trâm bị giết ở Quảng
Ngãi đã uống viên thuốc đó. Anh Nguyễn Văn Thạc, tác giả của hồi ký
“Mãi mãi tuổi hai mươi” bị giết ở Quảng Trị đã uống viên thuốc đó. Cô bé
Trần Thị Hường 17 tuổi và chín cô gái ở Ngã Ba Đồng Lộc bị bom Mỹ rơi
trúng ngay hầm đã uống viên thuốc đó. Họ không biết đó là thuốc độc.
Không biết thì không đáng trách. Nhà văn Dương Thu Hương trải qua một
thời thanh niên xung phong nhưng chị may mắn còn sống để nhắc cho các
thế hệ trẻ Việt Nam hôm nay biết “chế độ ngoài Bắc là chế độ man rợ vì nó chọc mù mắt con người, bịt lỗ tai con người.”
Tại sao chiến tranh diễn ra tại Việt Nam mà không phải tại một quốc gia nào khác?
Bởi vì Việt Nam có đảng Cộng Sản Việt Nam.
Thật không công bằng cho đảng nếu tôi chỉ dùng tài liệu trong các thư
viện ở Mỹ để chứng minh âm mưu xích hóa Việt Nam của đảng CSVN. Tôi sẽ
trích những câu do đảng viết ra. Theo quan điểm lịch sử của đảng CSVN
chiến tranh đã xảy ra bởi vì “Ở miền Nam, lợi dụng sự thất bại và
khó khăn của thực dân Pháp, đế quốc Mỹ đã nhảy vào để thay chân Pháp
nhằm biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mỹ.”
Không ai hình dung “thuộc địa kiểu mới” hình dáng ra sao và đảng cũng chưa bao giờ giải thích một cách rõ ràng.
Sau Thế chiến thứ hai, hàng loạt quốc gia trong đó có những nước vốn
từng là đế quốc, đã nằm trong vòng ảnh hưởng kinh tế và cả chính trị của
Mỹ. Chẳng lẽ 18 nước châu Âu bao gồm Tây Đức, Áo, Bỉ, Pháp, Ý, Anh, Hòa
Lan v.v… trong kế hoạch Marshall chia nhau hàng trăm tỉ đô la của Mỹ để
tái thiết đất nước sau thế chiến thứ hai đều trở thành những “thuộc địa
mới” của Mỹ hay sao? Chẳng lẽ các nước Á châu như Nam Hàn, Nhật Bản,
Đài Loan được viện trợ không những tiền của mà còn bằng cả sức người để
xây dựng lại đất nước họ là “thuộc địa mới” của Mỹ hay sao?
Chuyện trở thành một “căn cứ quân sự” của Mỹ lại càng khó hơn.
Chính sách vô cùng khôn khéo của chính phủ Thổ Nhĩ Kỳ dùng Đệ Lục Hạm
Đội Mỹ làm hàng rào bảo vệ đất nước Thổ ngăn chặn làn sóng đỏ Liên Xô
xâm lược là một bài học cho các lãnh đạo quốc gia biết mở mắt nhìn xa.
Mặc dù là một nước trung lập trong thế chiến thứ hai, để lấy lòng Mỹ,
lãnh đạo Thổ đã tình nguyện gởi 5500 quân tham chiến bên cạnh Mỹ trong
chiến tranh Triều Tiên. Quân đội Thổ chiến đấu anh dũng nhưng cũng chịu
đựng tổn thất rất nặng nề. Một nửa lực lượng Thổ đã chết và bị thương
trong ba năm chiến tranh. Nhờ sự hy sinh của họ mà Thổ Nhĩ Kỳ được đền
bù. Ngày 18 tháng 2 năm 1952, Thổ Nhĩ Kỳ chính thức trở thành hội viên
của NATO và hùng mạnh đến ngày nay.
Nhật Bản là một ví dụ khác. Trong cuốn phim tài liệu Thế Giới Thiếu
Mỹ (The World Without US) đạo diễn Mitch Anderson trích lời phát biểu
của Thủ tướng Nhật Yasuhiro Nakasone “Nếu Mỹ rút khỏi Nhật Bản, chúng
tôi phải dành suốt mười năm tới chỉ để lo tái võ trang trong nhiều mặt,
kể cả sản xuất võ khí nguyên tử”. Một quốc gia có nền kinh tế lớn thứ ba
trên thế giới nhưng dành vỏn vẹn một phần trăm cho ngân sách quốc phòng
chỉ vì Nhật dựa vào khả năng quốc phòng của Mỹ và sự có mặt của 35 ngàn
quân Mỹ. Khác với chủ trương “đánh cho Mỹ cút ngụy nhào” của Hồ Chí
Minh, trong một thống kê mới đây, 73 phần trăm công dân Nhật biết ơn
quân đội Mỹ bảo vệ họ.
Đứng trước một miền Bắc điêu tàn sau mấy trăm năm nội chiến và thực
dân áp bức, một giới lãnh đạo nếu thật tâm thương yêu dân tộc trước hết
phải nghĩ đến việc vá lại những tang thương đổ vỡ, đưa đất nước ra khỏi
cảnh đói nghèo, lạc hậu. Ngay cả thống nhất là một ước mơ chung và có
thật đi nữa cũng cần thời gian và điều kiện. Con người trước hết phải
sống, phải có cơm ăn, áo mặc, nhà ở, học hành trước khi nghĩ đến chuyện
đoàn tụ với đồng bào và bà con thân thuộc.
Ngoại trừ các lãnh đạo CSVN, trên thế giới chưa có một giới lãnh đạo
thể hiện lòng yêu nước bằng cách giết đi một phần mười dân số, đốt cháy
đi một nửa giang sơn của tổ tiên để lại, dâng hiến hải đảo chiến lược
cho kẻ thù truyền kiếp của dân tộc mà gọi đó là “thống nhất đất nước” và
“hòa hợp dân tộc”.
Cũng trong tài liệu chính thức của đảng, ngay cả trước khi ký hiệp
định Geneve và khi Việt Nam chưa có một dấu chân người lính Mỹ nào, hội
nghị lần thứ sáu của Trung ương Đảng CSVN từ ngày 15 đến 17 tháng 7 năm
1954, Hồ Chí Minh và bộ chính trị đảng CSVN đã nghĩ đến chuyện đánh Mỹ
“Hiện nay đế quốc Mỹ là kẻ thù chính của nhân dân thế giới và nó đang
trở thành kẻ thù chính và trực tiếp của nhân dân Đông Dương, cho nên mọi
việc của ta đều nhằm chống đế quốc Mỹ”.
Vào thời điểm trước 1954, dân tộc Việt Nam thật sự có một mối thù
không đội trời chung với Mỹ sâu đến thế sao hay giới lãnh đạo CSVN chỉ
vẽ hình ảnh một “đế quốc Mỹ thâm độc đầu sỏ” như một lý do để chiếm toàn
bộ Việt Nam bằng võ lực, và cùng lúc để phụ họa theo quan điểm chống Mỹ
điên cuồng của chủ nô Mao Trạch Đông sau khi nướng gần một nửa triệu
thanh niên Trung Quốc qua các đợt biển người trong cuộc chiến Triều
Tiên?
Chữ “nước” trong khẩu hiệu “Chống Mỹ cứu nước” là nước Trung Cộng chứ không phải nước Việt Nam.
Đường lối chiến tranh cách mạng của Mao có thể tóm tắt trong bài phát biểu tại Diên An: “Nhiệm
vụ trung tâm và hình thức cao nhất của cách mạng là chiếm lấy quyền lực
xuyên qua đấu tranh võ trang và giải quyết xung đột bằng chiến tranh.
Đây là nguyên tắc cách mạng của chủ nghĩa Mác Lênin, và và phải được một
cách toàn diện tại Trung Quốc và toàn thế thế giới”. Đường lối sắt
máu đó đã được các lãnh đạo CSVN áp dụng một cách nguyên tắc và chi
phối toàn bộ chiến lược chiến tranh của đảng CSVN từ khi phát động cuộc
chiến “giải phóng miền Nam bằng võ lực” cho tới 30 tháng Tư 1975. Tất cả
các hiệp định từ Geneva 1954 cho tới Paris 1973 chỉ là những trạm dừng
chân, thời gian nghĩ ngơi dưỡng sức của đoàn quân CS chứ không phải là
chặng cuối cùng.
Ngày 30 tháng 4 năm 1975, sau gần một thế kỷ với bao nhiều tổn thất
máu xương, tù ngục, mục tiêu Cộng Sản hóa Việt Nam của đảng cuối cùng đã
đạt được. Lê Duẩn, trong diễn văn mừng chiến thắng vài hôm sau đó đã
nói “vinh quang này thuộc về đảng Lao Động Việt Nam quang vinh, người tổ chức và lãnh đạo mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam”.
Lời phát biểu của họ Lê nhất quán với nghị quyết của đại hội Đảng Cộng
sản Đông Dương do Trần Phú chủ trì năm 1930 và được Hội nghị Ban Chấp
hành Trung ương phê chuẩn vào tháng 4 cùng năm, ghi rõ: “Vai trò
lãnh đạo của Đảng Cộng sản trong cuộc cách mạng; hai giai đoạn cách mạng
từ cách mạng tư sản dân quyền chống đế quốc và phong kiến nhằm thực
hiện mục tiêu độc lập dân tộc và người cày có ruộng và sau đó chuyển
sang làm cách mạng xã hội chủ nghĩa.”
Nguyễn Phú Trọng, Tổng bí thư đảng CSVN cũng lần nữa khẳng định “Ngay
khi mới ra đời và trong suốt quá trình đấu tranh cách mạng, Đảng Cộng
sản Việt Nam luôn luôn khẳng định: chủ nghĩa xã hội là mục tiêu, lý
tưởng của Đảng Cộng sản và nhân dân Việt Nam; đi lên chủ nghĩa xã hội là
yêu cầu khách quan, là con đường tất yếu của cách mạng Việt Nam…. Vào
những năm cuối thế kỷ XX, mặc dù trên thế giới chủ nghĩa xã hội hiện
thực đã bị đổ vỡ một mảng lớn, hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa không
còn, phong trào xã hội chủ nghĩa đang trong giai đoạn khủng hoảng, thoái
trào, gặp rất nhiều khó khăn, Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn tiếp tục khẳng
định: “Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo
con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lê-nin và tư
tưởng Hồ Chí Minh”.
Nhiều người cho rằng Nguyễn Phú Trọng nói những câu lạc hậu, lỗi thời mà
không biết mắc cỡ. Tôi tin y nói một cách chân thành và hãnh diện. Nhờ
tài lãnh đạo mà đảng CSVN đã tồn tại dù cả một hệ thống xã hội chủ nghĩa
lớn mạnh như Liên Xô đã phải sụp đổ.
Đối diện với thời đại toàn cầu hóa, nội chung chủ nghĩa Mác về mặt
kinh tế đã phải thay đổi để đáp ứng nhu cầu tồn tại của đảng nhưng cơ
chế nhà nước toàn trị sắt máu theo kiểu Lê Nin, Stalin chẳng những được
duy trì mà còn củng cố chặt chẽ và nâng cấp kỹ thuật cao hơn. Dù ngoài
miệng có hát bài “hòa hợp hòa giải” thắm đượm tình dân tộc, bên trong,
các chính sách của đảng vẫn luôn kiên trì với mục tiêu toàn trị và bất
cứ ai đi ngược với mục tiêu đó đều bị triệt tiêu không thương xót.
Dưới chế độ Cộng Sản, không những người dân bị ràng buộc vào bộ máy
mà cả các lãnh đạo cũng sinh hoạt trong khuôn khổ tổ chức và nghiêm
chỉnh thực thi các nguyên tắc lãnh đạo độc tài sắc máu do đảng của họ đề
ra. Điều đó giải thích lý do giọng điệu của những cựu lãnh đạo Cộng Sản
như Võ Văn Kiệt, Nguyễn Văn An, Nguyễn Khoa Điềm sau khi rời chức vụ
giống như những người vừa được giải phẫu thanh quản, nói dễ nghe hơn
nhiều so với thời còn trong bộ máy cầm quyền. Họ không phải là những
người “buông dao thành Phật” nhưng chỉ vì họ đã trở về với vị trí một
con người bình thường, ít bị ràng buộc trong cách ăn cách nói, cách hành
xử, cách khen thưởng và trừng phạt như khi còn tại chức.
Giới lãnh đạo Cộng Sản được trui rèn trong tranh đấu, được huấn luyện
chính trị từ cấp đội, cấp đoàn trước khi giữ các vị trí then chốt trong
đảng và nhà nước CS. Họ nắm vững tâm lý và vận dụng một cách khéo léo
tâm lý quần chúng để phục vụ cho các chính sách của đảng trong từng thời
kỳ. Sau biến cố Thiên An Môn, để đánh lạc hướng cuộc đấu tranh đòi dân
chủ của thanh niên sinh viên, nhà cầm quyền Cộng Sản Trung Quốc khai
thác lòng căm thù chính sách quân phiệt của Nhật đã xảy ra từ thế kỷ
trước. Lợi dụng việc Bộ Giáo dục Nhật bản liệt kê biến cố tàn sát Nam
Kinh như một tai nạn trong sách giáo khoa, nhà cầm quyền Trung Quốc đã
khuyến khích hàng chục ngàn thanh niên sinh viên Trung Quốc biểu tình
suốt 3 tuần lễ trước tòa đại sứ Nhật. Việt Nam cũng thế. Trong chiến
tranh biên giới 1979, các lãnh đạo CSVN đã lần nữa sử dụng thành công
viên thuốc độc bọc đường “bảo vệ tổ quốc”.
Máu của hàng vạn thanh niên Việt Nam đổ xuống dọc biên giới Việt
Trung phát xuất từ tình yêu quê hương trong sáng và đáng được tôn vinh,
tuy nhiên, nếu dừng lại một phút để hỏi, họ thật sự chết vì tổ quốc hay
chỉ để trả nợ xương máu giùm cho đảng CSVN?
Với tất cả thông tin được phơi bày, tài liệu được giải mật cho thấy,
cuộc chiến “chống Mỹ cứu nước” mà giới lãnh đạo CSVN đưa ra thực chất
chỉ là cái cớ. Không có một người lính Mỹ nào đến Việt Nam, đảng vẫn
cộng sản hóa miền Nam cho bằng được. Bộ máy tuyên truyền tinh vi của
đảng thừa khả năng để nghĩ ra hàng trăm lý do khác để đánh miền Nam.
Đảng CSVN là nguyên nhân khiến cho nhiều triệu người Việt vô tội ở hai
miền đã phải chết một cách oan uổng, bao nhiêu thế hệ bị tiêu vong, bao
nhiêu tài nguyên bị tàn phá và quan trọng nhất, chiếc còng Trung Cộng mà
đảng thông đồng để đeo trên cổ dân tộc Việt Nam mỗi ngày ăn sâu vào da
thịt nhưng không biết làm sao tháo gỡ xuống đây. Nói theo cách viết của
nhạc sĩ Việt Khang “Việt Nam ơi thời gian quá nửa đời, và ta đã tỏ
tường rồi”, chiến tranh xảy ra tại Việt Nam mà không ở đâu khác chỉ vì
Việt Nam có đảng Cộng Sản.
Ngoại trừ các em, các cháu bị nhào nặn trong nền giáo dục ngu dân một
chiều chưa có dịp tiếp xúc với các nguồn thông tin khách quan khoa học,
nếu hôm nay, những người có học, biết nhận thức mà còn nghĩ rằng cuộc
chiến kết thúc vào ngày 30 tháng 4 năm 1975 là cuộc chiến “chống Mỹ cứu
nước”, những kẻ đó hoặc bị tẩy não hoàn toàn hoặc biết mình sai nhưng
không đủ can đảm để thừa nhận ra nguồn gốc sâu xa của cuộc chiến Việt
Nam và tự dối lòng để tiếp tục sống cho hết một kiếp người.
Sau 40 năm, “hàng triệu người buồn” như ông Võ Văn Kiệt nói, nếu chưa
qua đời, hôm nay vẫn còn buồn. Nhưng người buồn không phải chỉ từ phía
những người lính Việt Nam Cộng Hòa bị buộc buông súng, từ phía nhân dân
miền Nam bị mất tự do mà còn là những người miền Bắc, cả những người
trong đảng CS đã biết ra sự thật, biết mình bị lừa gạt, biết mình đã
dâng hiến cả một cuộc đời trai trẻ cho một chủ nghĩa độc tài, ngoại lai,
vong bản.
Không hiểu đúng tại sao chủ nghĩa CS đến
Việt Nam sẽ không có một cách thích hợp để đẩy CS đi ra khỏi Việt Nam.
Và tương tự, không hiểu đúng quá khứ, sẽ không có hành động đúng vì
tương lai đất nước.
Gần mười năm trước tôi kết luận bài viết về ngày 30 tháng 4 bằng ba
phân đoạn dưới đây và năm nay, tôi kết luận một lần nữa cũng bằng những
dòng chữ đó để chứng minh một điều, tuổi trẻ của tôi có thể qua đi nhưng
niềm tin vào tuổi trẻ trong tôi vẫn còn nguyên vẹn.
Như lịch sử đã chứng minh, chính nghĩa bao giờ cũng thắng. Không có
vũ khí nào mạnh hơn sức mạnh đoàn kết dân tộc. Chỉ có sức mạnh Đoàn Kết
Dân Tộc, chúng ta mới có khả năng bảo vệ được chủ quyền và lãnh thổ Việt
Nam, chỉ có sức mạnh Đoàn Kết Dân Tộc chúng ta mới có khả năng vượt lên
những hệ lụy quá khứ để hướng vào tương lai tươi sáng cho đời đời con
cháu mai sau và chỉ có sức mạnh Đoàn Kết Dân Tộc chúng ta mới có khả
năng phục hồi sự kính trọng Việt Nam trong lân quốc cũng như trong bang
giao quốc tế.
Ngày 30 tháng 4, ngoài tất cả ý nghĩa mà chúng ta đã biết, còn là
ngày để mỗi chúng ta nhìn lại chính mình, ngày để mỗi chúng ta tự hỏi
mình đã làm gì cho đất nước, và đang đứng đâu trong cuộc vận hành của
lịch sử hôm nay. Mỗi người Việt Nam có hoàn cảnh sống khác nhau, quá khứ
khác nhau, tôn giáo khác nhau và mang trên thân thể những thương tích
khác nhau, nhưng chỉ có một đất nước để cùng lo gánh vác. Đất nước phải
vượt qua những hố thẳm đói nghèo lạc hậu và đi lên cùng nhân loại. Không
ai có quyền bắt đất nước phải đau nỗi đau của mình hay bắt đất nước
phải đi ngược chiều kim lịch sử như mình đang đi lùi dần vào quá khứ.
Sức mạnh của dân tộc Việt Nam không nằm trong tay thiểu số lãnh đạo
CSVN. Tương lai dân tộc không nằm trong tay thiểu số lãnh đạo CSVN. Sinh
mệnh dân tộc Việt Nam do chính nhân dân Việt Nam quyết định. Và do đó,
con đường để đến một điểm hẹn lịch sử huy hoàng cho con cháu, chính là
con đường dân tộc và không có một con đường nào khác.
Bốn mươi năm là một quãng đường dài. Chúng
ta đã hơn một lần trễ hẹn với non sông, nhưng không phải vì thế mà không
còn cơ hội. Cơ hội vẫn còn đó nếu chúng ta biết đoàn kết, thấy được
hướng đi chung của dân tộc và thời đại. Chúng ta có nhiều quá khứ nhưng
đất nước chỉ có một tương lai, đó là tương lai tự do, dân chủ, nhân bản
và khai phóng cho những ai, sau những điêu tàn đổ vở, còn biết nhận ra
nhau, còn biết yêu thương mảnh đất thiêng liêng, vinh quang và thống khổ
Việt Nam.
Trần Trung Đạo
(Tháng Tư 2012, Tháng Tư 2015)
Trần Trung Đạo
(Tháng Tư 2012, Tháng Tư 2015)
Sức mạnh của niềm tin
Trần Trung Đạo (Danlambao) - Chiều thứ Sáu ngày 6 tháng 9, 1991 các báo lớn trên khắp thế giới loan tin “Moscow chính thức công nhận quyền độc lập của ba quốc gia Lithuania, Latvia và Estonia sau nửa thế kỷ kiểm soát”. Ngoại trưởng Liên Xô Boris N. Pankin tuyên bố “Chúng tôi công nhận chủ quyền độc lập của ba quốc gia vừa tách rời khỏi Liên Bang Xô Viết. Chúng ta đang chứng kiến một biến cố lịch sử ngay tại thời điểm này”. Lời tuyên bố của Ngoại trưởng Liên Xô phát ra khi 250 ngàn quân Sô Viết vẫn còn đóng trên lãnh thổ ba quốc gia vùng Baltic: Latvia, Estonia và Lithuania.
Đối với phần lớn nhân loại đó là tin khá bất ngờ. Các thủ đô Riga, Tallinn, Vilnius tràn ngập niềm vui. Tuy nhiên với cô nữ sinh viên Lina Lagunaite đang theo học tại đại học Kaunas, cách thủ đô Riga của Latvia chừng một giờ lái xe, tin đó chẳng làm cô ta hồi hộp chút nào. Trả lời cho phóng viên John Thor Dahlburg của báo Los Angeles Times, Lina nhún vai “Latvia bao giờ cũng là một nước tự do. Sự kiện vừa xảy ra chẳng có gì khác. Ông nội tôi và sau đó cha tôi luôn dặn dò chúng tôi Latvia là một nước tự do độc lập”.
Lời phát biểu của nữ sinh viên Lina Lagunaite rất bình thường nhưng chuyên chở một ý nghĩa tinh thần quan trọng.
Tinh thần độc lập dân tộc và chế độ Cộng Hòa được thiết lập tại Latvia từ năm 1918, rất lâu trước khi Lina ra đời vẫn sống. Thế hệ của Lina Lagunaite và có thể cả của cha cô ta đều sinh ra sau ngày 18 tháng 11, 1918, Ngày Độc Lập của Cộng Hòa Latvia, nhưng tinh thần độc lập đó như một dòng sông không ngừng chảy dù đã chảy trong đau thương và chịu đựng, trong máu và nước mắt suốt 51 năm dưới hai chế độ độc tài khát máu nhất nhân loại: Hitler và Stalin.
Không tính 200 năm dưới sự cai trị hà khắc của các triều đại Nga Hoàng, thời gian từ 1939 đến 1990 là một thời gian khủng khiếp để một dân tộc với dân số chưa đến 2 triệu như Latvia phải chịu đựng từ Stalin sang Hilter, trở lại Stalin và thời kỳ CS sau đó.
Năm 1939, Stalin thỏa thuận với Hitler qua hiệp ước bất can thiệp Molotov–Ribbentrop xua quân chiếm đóng Latvia. Phần lớn sĩ quan cao cấp trong quân đội Cộng Hòa Latvia đều bị giết chết. Hầu hết các lãnh đạo và viên chức chính phủ Cộng Hòa đều bị bắt và đày sang các trại tù miền Trung Á.
Năm 1941, khi Hitler xé hiệp ước Molotov–Ribbentrop mở Mặt trận Miền Đông tấn công Liên Xô, các quốc gia vùng Baltic rơi vào tay Hilter nhanh chóng. Latvia chịu đựng dưới chính sách hà khắc của Hitler. Lần này, không chỉ người Latvia mà nhất là người Latvia gốc Do Thái trở thành mục tiêu trấn áp. Theo các thống kê, chỉ còn 10 phần trăm dân Latvia gốc Do Thái sống sót sau Thế chiến Thứ Hai.
Khi Hitler thua, Stalin trở lại, cưỡng chiếm và sau đó sáp nhập Latvia vào Liên Xô. Khoảng 136 ngàn người Latvia bị kết tội là “kẻ thù nhân dân” và bị đày đến các tại tập trung lao động khổ sai nhiều nơi trên vùng Trung Á và Siberia. Tài sản bị tịch thu. Ruộng đất bị tước đoạt. Các hình thức xét xử gọi là “Tòa án nhân dân” được dựng lên khắp nơi. Khi Stalin chết, Nikita Khrushchev lên và cho phép dân Latvia lưu đày được trở về nguyên quán, nhưng quá trễ, phần đông đã chết trong tù đày.
Thế hệ của Lina Lagunaite lớn lên trong nền giáo dục Cộng Sản tuyên truyền tẩy não. Toàn bộ lịch sử Latvia cận đại bị hệ thống tuyên truyền Liên Xô viết lại. Thỏa hiệp Molotov–Ribbentrop, chiếm đóng vùng Baltic không được nhắc đến. Lina không được học lịch sử Latvia chính thống mà được đầu độc bằng những thông tin dối trá như “Con đường Lenin là con đường hạnh phúc”, “Stalin là anh hùng giải phóng dân tộc Latvia”. Triết học Mác Lê là môn học chính. Lina Lagunaite bị đoàn ngũ hóa từ khi còn bé. Một tầng lớp Latvia phản quốc được Liên Xô đào tạo để phục vụ cho chế độ CS. Đảng CS Latvia lúc đầu chỉ 400 đảng viên đã phát triển thành một tập đoàn tham nhũng, bán nước, tiếp tay với CS Liên Xô đày đọa chính đồng bào mình. Chính thành phần phản quốc trong cái gọi là “Quốc hội Latvia” đã bỏ phiếu sáp nhập Latvia vào Liên Xô.
Nhưng dân tộc Latvia và Cộng Hòa Latvia vẫn sống, vẫn tồn tại. Ngày 27 tháng Hai, 1990, cả nước Latvia đứng chào lá quốc kỳ hai màu trắng và huyết dụ được khai sinh trong thời kỳ độc lập 1918. “Cờ tổ quốc” nền đỏ búa liềm với ngôi sao vàng CS bị ném vào sọt rác của quá khứ đáng quên. Hầu hết Dân biểu Quốc hội Latvia bỏ phiếu thuận chọn lá cờ hai màu trắng và huyết dụ làm quốc kỳ chưa từng trước lá cờ đó lần nào. Tuy nhiên, giá trị của một lá cờ không chỉ được xác định bằng thời gian của một đời người mà bằng giá trị của di sản lịch sử mà lá cờ chuyên chở. Năm sau, ngày 10 tháng 9, 1991, đảng CS Latvia cũng bị Quốc Hội Latvia cấm hoạt động.
Những yếu tố giúp Latvia sống là những bài học mà các bậc ông bà, cha mẹ Việt Nam nên học. Như nữ sinh viên Lina Lagunaite kể lại cho phóng viên LA Times “Ông nội tôi và sau đó cha tôi luôn dặn dò chúng tôi Latvia là một nước tự do độc lập”, các thế hệ cha ông Việt Nam, qua giáo dục gia đình, phải có trách nhiệm hun đúc niềm tin dân tộc nơi thế hệ trẻ để các em luôn hãnh diện với gia phong và huyết thống của mình. Gia phong huyết thống của đại gia đình Việt Nam là màu da các em có, là chiếc áo dài các em mặc, là tiếng nói, là ca dao, là lá trầu, trái cau, là nụ cười của trẻ thơ, lời ru và cả giọt nước mắt đau lòng của mẹ. Và xa hơn, gia phong và huyết thống là giá trị tự do, độc lập dân tộc đã tích lũy và kế thừa qua nhiều nghìn năm trước kết tụ trong nhận thức của mỗi con người.
Nữ sinh viên Lina Lagunaite nhún vai xem việc Lavia độc lập là chuyện bình thường bởi vì em được hun đúc một niềm tin sâu xa vào lịch sử Latvia: “Latvia bao giờ cũng là một nước tự do. Sự kiện vừa xảy ra chẳng có gì khác”. Em đã chiến thắng bộ máy tuyên truyền CS. Em vượt qua được chính sách đồng hóa vô cùng tàn nhẫn của Nga. Em biết mình là ai. Lina Lagunaite học thuộc lịch sử chính thống của Latvia. Bởi vì nếu không thuộc sử sẽ dẫn đến câu hỏi "tôi là ai", dẫn đến việc thiếu niềm tin vào sức sống và sự trường tồn của nòi giống, dẫn đến những cái nhìn thiển cận về tương lai đất nước.
Không riêng Lina Lagunaite mà rất đông những người thuộc thế hệ Lina Lagunaite cũng được ông bà, cha mẹ dạy dỗ tốt như vậy và chính thế hệ này là thành phần nòng cốt trong các cuộc biểu tình đòi độc lập cho Latvia trong ba năm 1987 đến 1990. Trong lễ kỷ niệm 70 năm Độc Lập Latvia vào năm 1988, có ước lượng 500 ngàn người, hơn một phần tư dân số Latvia trong đó đa số là tuổi trẻ, tham dự.
Một người Việt Nam nào quan tâm đến tương lai dân tộc cũng đều muốn thấy đất nước một ngày được sống trong tự do dân chủ. Nhưng mơ ước cũng chỉ là mơ ước nếu không được cụ thể hóa bằng hành động yểm trợ cho các sinh hoạt của tuổi trẻ, góp công, góp sức vào các phong trào dân chủ của tuổi trẻ. Đừng đợi tuổi trẻ tìm mà hãy đứng đậy đi về phía tuổi trẻ, gõ cửa tâm hồn họ, thắp lên ngọn lửa tin yêu và hy vọng trong lòng họ, nuôi dưỡng truyền thống độc lập và tự chủ trong nhận thức họ như cha ông của Lina Lagunaite đã làm ở Latvia .
Bài Thơ Tháng Tư
Trần Trung Ðạo
Mỗi năm vào dịp tháng tư
Tôi lại giống như một ông đồ già
Loay hoay bày ra giấy bút
Cố viết một bài thơ về đất nước
Chuyện bên nhà và cả chuyện lưu vong
Nhưng đã bao lần bút gãy mực loang
Bài thơ tháng tư tôi chưa hề viết được.
Phải chăng khi đến tận cùng khổ nhục
Con người bỗng trở nên
Bình thản tự nhiên
Có những chuyện buồn nhức nhối con tim
Vẫn có kẻ
Có thể bật cười
Dù là cười chua chát
Bài thơ nầy chắc sẽ dài
Vì đời tôi nhiều lưu lạc
Và cũng chắc sẽ buồn
Vì là chuyện nước non.
Phải chăng tôi nên bắt đầu
Khi những chiếc trực thăng
Sắp sửa rời thành phố
Trong đám người đang bon chen lố nhố
Tôi thấy dường như
Nhiều con chuột cống ở Sài Gòn
Cũng cố kiếm đường đi
Chúng cõng trên mình những chiếc va-li
Chứa đầy đô la vàng bạc
Dành dụm từ thời đi buôn gạo lậu
Dấu diếm từ thời lo bão lụt miền Trung
Tôi thấy chúng nghiêng mình
Hai gối run run
Trước những anh cảnh binh người Mỹ
Chúng nói những gì tôi nghe không kỹ
Chỉ thấy họ lắc đầu
Rồi bước vô trong
Có lẽ lại là chuyện hối lộ
Ðể dược đi đông
Ngòai chuyện ấy chúng còn biết gì hơn nữa
Tôi đứng nhìn qua đôi cánh cửa
Cầu mong cho chúng được đi mau
Những con chuột cống nầy
Gặm nhấm đã lâu
Và bán nước từ khi còn rất trẻ
Thuở Tây qua chúng đầu quân rất lẹ
Tây bỏ đi chúng theo Mỹ vì đô-la
Những chuyện về chủ nghĩa quốc gia
Hay dân tộc thiêng liêng
Chúng đọc biết bao lần
Nhưng chưa hề hiểu nghĩa
Tôi đứng nhìn qua đôi cánh cửa
Thầm cầu mong cho chúng được đi nhanh.
Phải chăng tôi nên bắt đầu
Khi những chiếc xe tăng
Lăn xích tiến vào thành phố
Tôi đứng lặng nhìn Tự Do vừa sụp đổ
Cây Dân Chủ chưa xanh
Ðã héo úa bên đường
Mới giã từ một bọn bất lương
Lại phải đứng nhìn những tên ăn cắp
Chúng đang nhân danh
Hòa bình
Tự do
Thống nhất
Ðể biến con người thành con vật ngây thơ
Chỉ biết lắng nghe
Chỉ biết cúi đầu chờ
Chỉ biết Ðảng
Ðảng trở thành tất cả
Lịch sử, tình yêu, tổ tiên, mồ mả
Chỉ còn là những chuyện phù phiếm, viễn vông
Chúng biến những nương dâu bãi mía cánh đồng
Thành những nông trường hoang vu tập thể
Biến nhà máy thành những nơi hoang phế
Biến học đường
Thành những nơi để thầy trò tố cáo lẫn nhau
Biến cả bình minh thành những tối thương đau
Biến tình yêu
Thành hận thù
Bon chen
Nghi kỵ
Từ thôn quê cho đến nơi đô thị
Ðã mọc thêm nhiều nhà cách mạng thứ ba mươi
Những bạn bè thân thiết thuở rong chơi
Bỗng một sáng thành những têm chém trộm
Chế độ đã dạy cho chúng
Một con đường tồn tại
Con đường phản bội lương tâm
Phản bội gia đình tổ quốc nhân dân
Phản bội chính tâm hồn vốn rất đáng yêu của chúng
Tôi đứng nhìn non sông đang phủ xuống
Một màu đen tang tóc đau thương
Người lính bộ binh buông súng đứng bên đường
Ðang cúi mặt cố che niềm tủi nhục
Anh không khóc
Sao trời như bão động
Anh không cười
Sao chua chát nghẹn trên môi
Về đâu anh nắng đã tắt trên đồi
Sương đang xuống trên cuộc đời còn sót lại
Ðời của anh
Ðời một tên chiến bại
Có gì vui để lại mai sau.
Phải chăng tôi nên bắt đầu
Khi những chiếc xe bộ đội nối nhau
Mang gia đình tôi đến vùng kinh tế mới
Ðến Ðồng Xoài trời vừa sập tối
Lại phải sắp hàng nghe nghị quyết triển khai
Gia đình tôi bảy người
Chen chúc tránh mưa
Căn nhà nhỏ một gian không vách
Mẹ tôi ngồi đôi tay gầy lạnh ngắt
Vẫn cố nhường chỗ ấm cho con
Gạo lãnh lúc chiều không đủ nấu cơm
Nên đêm ấy cả nhà ăn cháo trắng
Mỗi giọt cháo là một liều cay đắng
Chảy vào vết thương đang ung mủ trong hồn
Tôi, đứa con đầu trong bảy đứa con
Hơn hai mươi tuổi vẫn hai bàn tay trắng
Nuôi tôi lớn
Mẹ một sương hai nắng
Học ra trường lương không đủ nuôi thân
Mẹ tôi chưa hề trách cứ phân vân
Nhưng tôi đọc những buồn lo
Từ trong ánh mắt
Ðêm hôm ấy tôi ngồi nghe mưa rót
Vào lòng tôi những chua xót căm hờn
Bao năm rồi trong cảnh cô đơn
Mẹ tôi sống
Ðôi mắt buồn hiu
Chưa bao giờ khô lệ.
Phải chăng tôi nên bắt đầu
Khi chiếc ghe nhỏ
Máy hư
Ðang thả lênh đênh trên biển
Bốn phương trời chưa biết sẽ về đâu
Biển vẫn vang lên những khúc nhạc sầu
Ðược viết bằng những cung trầm
Ðong đưa vào vô tận
Như để tiễn đưa tôi
Một người Việt Nam bạc phận
Ði về bên thế giới hư vô
Chiếc quan tài mong manh trên sóng nhấp nhô
Ðang tiếc nuối những gì còn sót lại
Biển một màu đen
Tang chế
Buồn man dại
Và âm u như số phận con người
Ngồi một mình yên lặng trên mui
Cố nghĩ một câu thơ để làm di chúc
Dù biết chẳng còn ai để đọc
Chẳng còn ai thương tiếc tấm thân tôi
Hai mươi sáu năm lưu lạc trên đời
Sống chưa đủ nhưng đã thừa để chết
Lòng tôi an nhiên không hề sợ sệt
Bỗng thấy ung dung thanh thản lạ thường
Tôi chợt hiểu tại sao
Con người ai cũng khóc khi sanh
Nhưng nhiều kẻ lại mỉm cười khi nhắm mắt
Hai mươi sáu năm
Ðời tôi buồn hiu hắt
Chẳng còn gì để lại cho nhân gian
Tuổi thanh xuân với chút mộng vàng
Ðã vụt tắt ngay trong ngày nước mất
Nếu tôi có chết hôm nay
Cũng chẳng phải là người thứ nhất
Và hẳn nhiên không phải kẻ sau cùng
Trên vùng biển nầy từ độ tháng tư đen
Ðã thắm máu bao nhiêu người Việt Nam mất nước.
Phải chăng tôi nên bắt đầu
Bằng những ngày đầu tiên trên Mỹ quốc
Bước chân hoang trên xứ lạ quê người
Ngỡ ngàng nhìn cuộc sống nổi trôi
Không dám khóc
Chẳng dám cười
Chỉ biết xót xa
Ngậm ngùi
Ngơ ngác
Thiên hạ nhìn tôi một người tỵ nạn
Dăm kẻ đã sớt chia
Cũng đôi kẻ khinh thường
Tôi hiểu ra rằng khi rời bỏ quê hương
Là chối bỏ những gì yêu quí nhất
Hai chữ tự do tôi vô tình đánh mất
Cứ tưởng rằng mình đang giữ nó trên tay
Tự do là gì tôi đã hiểu sai
Nó vô nghĩa đối với một người không tổ quốc
Ðêm đầu tiên tôi nằm nghe thương nhớ
Chảy vào tim đau nhức tận linh hồn
Mẹ tôi giờ nầy còn khóc nữa không
Hay cố ngủ để chiêm bao giờ hạnh ngộ
Em tôi đứng thập thò trên góc phố
Ðợi anh về dù chỉ mới ra đi
Người con gái tôi yêu đang tuổi xuân thì
Có về lại một lần thăm xóm vắng
Sài Gòn bây giờ trời mưa hay nắng
Ở bên nầy tuyết vẫn trắng như tang
Nhìn thành phố nguy nga tôi thấy ngỡ ngàng
Thấy tội nghiệp cho Sài Gòn tăm tối
Tôi nhớ cả những con đường lầy lội
Những con đường ngày hai buổi tôi đi
Tôi nằm mơ làm một cánh chim di
Bay trở lại một lần rồi sẽ chết
Hai tiếng quê hương sao vô cùng tha thiết
Học lâu rồi nhưng mới hiểu ra đây
Quê hương là những gì tôi không có hôm nay.
Mười bảy năm đã trôi qua
Sài Gòn xưa vẫn thế
Vẫn những đau thương dằn vặt kiếp con người
Mười bảy mùa thu
Bao độ lá vàng rơi
Tóc mẹ trắng
Bạc theo từng nỗi nhớ
Mẹ tôi đã bỏ vùng kinh tế mới
Về lại Sài Gòn tìm một chỗ che mưa
Cuộc sống bây giờ đã đỡ hơn xưa
Bởi vì có tôi
Chứ không phải nhờ có đảng
Em tôi lớn không làm người Cộng Sản
Nên suốt đời phải lam lũ kiếm ăn
Tuổi hoa niên chỉ có một lần
Chúng đã bỏ quên trên vùng Kinh Tế Mới
Mười bảy năm đường Sài Gòn vẫn tối
Mưa vẫn rơi hoài
Trên lối cũ thân quen
Người phu quét đường vẫn dậy sớm mỗi đêm
Ôm chiếc chổi lạnh lùng khua góc phố
Bác xích lô trên đoạn đường loang lỗ
Bao năm rồi vẫn đi sớm về khuya
Chiếc lưng trần trầy trụi với nắng mưa
Không dám trách ai
Chỉ đổ thừa số mạng
Cậu bé đánh giày ngày xưa
Bây giờ đã trở thành tên du đãng
Học thêm nghề đâm mướn chém thuê
Tương lai em biền biệt sẽ không về
Cơn gió lốc cuốn đi thời thơ dại
Những con chuột cống ra đi
Một số hình như đang tìm đường trở lại
Vì tham nhũng lâu ngày nên đã hóa thành tinh
Chúng đang biến thân làm lãnh tụ anh minh
Tung bùa phép để thu hồi quyền lực
Tội nghiệp đồng bào tôi
Ðã bao đời khổ cực
Sẽ thêm một lần ngậm đắng nuốt cay
Ở tại Việt Nam trong mười bảy năm nay
Ngoài tham nhũng
Năng xuất chẳng có gì tăng nhanh hơn là nghị quyết
Ðảng Cộng Sản vẫn tự khoe khoang
Là muôn đời bất diệt
Vẫn le lói giữa đêm mưa một bóng sao vàng.
Và tôi
Bao năm rồi vẫn những bước chân hoang
Rất mệt nhọc như giòng sông chảy ngược
Baì thơ tháng Tư tôi chưa hề viết được
Mười bảy năm dài đâu chỉ kể dăm trang
Trước những đau thương của đất mẹ điêu tàn
Ngôn ngữ của tôi đã trở thành vô nghĩa
Ðời của tôi dù buồn bao nhiêu nữa
Cũng không buồn bằng chuyện nước tôi đau
Baì thơ nầy dù viết đến năm sau
Cũng chỉ là bài thơ dang dở.
Trần Trung Ðạo
30-4-1992
Link của trang: Bài Thơ Tháng Tư
Người Con Gái Việt Nam Nô Lệ Trên Đại Lộ Ayutthaya.
Đọc bản tin “18.000 gái Việt ra nước ngoài hành nghề mại dâm mỗi năm” trong đó trích lời phát biểu của Jeremey Douglas, Trưởng đại diện khu vực Đông Nam Á - Thái Bình Dương của Cơ quan phòng chống ma túy và tội phạm của Liên hợp quốc (UNODC) tôi chợt nhớ đến phóng sự của một nhà báo Mỹ viết về cảnh các cô gái VN vừa mới lớn đang hành nghề mãi dâm trên trên đại lộ Sri Ayutthaya, thủ đô Bankok, Thái Lan đầu thập niên 1990.
Các em đều trong tuổi vị thành niên. Hầu hết chỉ mười sáu, mười bảy tuổi. Lẽ ra giờ này các em phải ngồi trong lớp học, học làm người phụ nữ VN, học chuyện thêu thùa, may vá, trông con và học cả chuyện yêu đương, đẹp như trăng khi tròn khi khuyết. Thế nhưng, nghèo đói đã xô đẩy em khỏi ngôi trường mà em yêu mến. Nghiệt ngã đã xua em ra khỏi vòng tay nuông chiều của mẹ. Lạc hậu đã xô em xuống giòng sông Chao Phraya nước đục quê người.
Đêm đó tôi viết bài thơ Người Con Gái Việt Nam Trên Đại Lộ Ayutthaya.
Những cô gái 16, 17 tuổi đứng trên đường Sri Ayuthaya ngày đó bây giờ không còn nữa. Các em đã về đâu giữa một thành phố, mà nơi đó, theo thống kê của cơ quan AIDS Liên Hiệp Quốc, UNAIDS, 44 phần trăm gái mãi dâm mang trong người bịnh AIDS. Các em hoặc đã chết trong một trại AIDS ở Bangkok, ở Chiang Mai, hay nếu may mắn sống sót trở về được quê hương cũng chỉ để lây lất ở một góc tối nào đó trong chuỗi ngày tàn tạ của đời mình.
Mấy chục năm sau, chỗ của em đứng ngày xưa không phải vì em chết đi mà bỏ trống.Chiếc giường tre nơi em đã nằm chờ khách không phải vì em ra đi mà bỏ trống. Nơi em đứng năm xưa đã có một bàn chân Việt khác vừa đứng đó. Trên manh chiếu em nằm đã có người con gái Việt khác đang nằm. Sau 40 năm "độc lập, tự do, hạnh phúc" hàng ngàn con gái Việt Nam vẫn nối gót nhau đi làm thân gái khách.
Dưới đây là bài thơ khá dài Người Con Gái Việt Nam Trên Đại Lộ Ayutthaya. Nhạc sĩ Phan Ni Tấn phổ thành ca khúc và ca sĩ Đình Nguyên trình bày trong Đêm Thơ Nhạc Mẹ và Quê Hương tại Toronto.
NGƯỜI CON GÁI VIỆT NAM TRÊN ÐẠI LỘ SRI AYUTTHAYA
Người con gái Việt Nam
Trên đại lộ Sri Ayutthaya, Bangkok
Em đứng đó một mình ôm mặt khóc
Như chợt nhớ ra đây không phải Sài Gòn
Mái tóc thu buồn
Mái tóc héo hon
Bay phơ phất giữa phố phường xa lạ
Mười sáu tuổi kiếp giang hồ chung chạ
Trôi lang thang như những bọt bèo
Ðất nước nghèo không giữ nổi chân em
Nên xứ người em làm thân gái khách
Tuổi của em như sao mai mới mọc
Ðẹp vô tư như những cánh lan rừng
Tuổi bắt đầu của một mùa xuân
Có hoa bướm tung tăng
Có một chút tình yêu nhẹ nhàng thơ mộng
Lẽ ra ngày này em đang ngồi trong lớp học
Học làm người phụ nữ Việt Nam
Học chuyện thêu thùa may vá trông con
Học cả chuyện yêu đương
Ðẹp như trăng khi tròn khi khuyết
Bỗng dưng hôm nay em mất hết
Mất cả tuổi thơ mất cả cuộc đời
Bangkok chiều nay mưa lất phất rơi
Có làm em nhớ Sài Gòn mưa tháng sáu
Nhớ con hẻm vào nhà em
Dường như lúc nào cũng tối
Nhớ mẹ già đôi mắt dõi mù tăm
Nhớ đám em thơ đang đứng mỏi mòn trông
Tin của chị từ phương nào biền biệt
Còn ở đấy cả một trời thương tiếc
Như ngàn năm mây trắng vẫn còn bay
Nhìn sông Chao Phraya nước đục chiều nay
Có làm em nhớ đến sông Nhà Bè
Nhớ những con lạch nhỏ
Ðầy những rong rêu rác rưới
Cống rãnh gập ghềnh
Nước vẫn một màu đen nhưng là nước của em
Sẽ không thể nào đen như thế mãi
Khi cố bập bẹ vài ba tiếng Thái
Có làm em nhớ thuở lên năm
Ba bảo em đánh vần hai chữ Việt Nam
Em cố gắng năm lần bảy lượt
Nhưng cuối cùng dù sao em nói được
Mẹ thưởng em bằng những chiếc hôn nồng
Ba mỉm cười hy vọng chảy mênh mông
Ánh lửa tương lai đã bắt đầu nhen nhúm
Ánh lửa ngày xưa
Cho ngày mai tươi sáng
Ðã tàn đi theo giông bão cuộc đời
Sau những lúc đau thương da thịt rã rời
Em có khóc một mình trong bóng tối
Mỗi giọt lệ sẽ mang màu sám hối
Mỗi lời rên chôn giấu những ăn năn
Tóc thu buồn như những sợi oan khiên
Trói lấy cuộc đời em nghiệt ngã
Về đâu em chiều nay trên đất lạ
Về đâu em mưa gió phủ đầy sông
Người con gái Việt Nam trên đại lộ Sri Ayutthaya
Ðang nhắm mắt nhìn đời trôi vô tận
Lịch sử Việt Nam
Vinh nhục thăng trầm bao nhiêu bận
Nhưng chưa bao giờ đen tối hơn hôm nay
Ông cha ta có khi phải xuống biển tìm ngọc trai
Lên non tìm ngà voi trầm hương châu báu
Có những lúc cả giòng sông thấm máu
Có nhiều khi xương trắng gởi rừng sâu
Nhưng chưa một lần trong bốn ngàn năm
Có những cô gái Việt Nam
Phải sang xứ người bán thân nuôi miệng
Tủi nhục nầy không bao giờ rửa sạch
Nỗi đau nầy không phải của riêng em
Mà của mọi người còn một chút lương tâm
Và còn biết thế nào là quốc nhục
Ðêm nay anh viết nốt bài thơ
Dẫu biết chẳng thể nào tới tay em được
Thơ của anh
Tâm sự của một người anh nhu nhược
Giữa muôn vạn khổ đau chỉ biết đứng nhìn
Lơ láo giữa chợ đời
Vết thương nặng trong tim
Anh vẫn ung dung như người khách lạ
Nước Mỹ ấm no làm anh quên tất cả
Quên bảy chục triệu đồng bào đang cảnh lầm than
Quên đám em thơ lưu lạc bốn phương ngàn
Quên cả chính anh với những đau thương thời thơ ấu
Ngày anh đi mang hờn căm nung nấu
Hẹn non sông một sớm sẽ quay về
Ðem thanh bình gieo rắc vạn trời quê
Ðem mạch sống ươm trên từng nắm đất
Giấc mộng ngày xưa
Dù anh không còn muốn nhắc
Vẫn lạnh lùng sống lại giữa đêm mơ
Anh đang khóc một mình
Hay đang khóc trong thơ
Không, chỉ hạt bụi vừa rơi vào trong mắt
Hạt bụi đó chính là đời em đã mất.
Trần Trung Đạo
Trần Trung Đạo (Danlambao) - Chiều thứ Sáu ngày 6 tháng 9, 1991 các báo lớn trên khắp thế giới loan tin “Moscow chính thức công nhận quyền độc lập của ba quốc gia Lithuania, Latvia và Estonia sau nửa thế kỷ kiểm soát”. Ngoại trưởng Liên Xô Boris N. Pankin tuyên bố “Chúng tôi công nhận chủ quyền độc lập của ba quốc gia vừa tách rời khỏi Liên Bang Xô Viết. Chúng ta đang chứng kiến một biến cố lịch sử ngay tại thời điểm này”. Lời tuyên bố của Ngoại trưởng Liên Xô phát ra khi 250 ngàn quân Sô Viết vẫn còn đóng trên lãnh thổ ba quốc gia vùng Baltic: Latvia, Estonia và Lithuania.
Đối với phần lớn nhân loại đó là tin khá bất ngờ. Các thủ đô Riga, Tallinn, Vilnius tràn ngập niềm vui. Tuy nhiên với cô nữ sinh viên Lina Lagunaite đang theo học tại đại học Kaunas, cách thủ đô Riga của Latvia chừng một giờ lái xe, tin đó chẳng làm cô ta hồi hộp chút nào. Trả lời cho phóng viên John Thor Dahlburg của báo Los Angeles Times, Lina nhún vai “Latvia bao giờ cũng là một nước tự do. Sự kiện vừa xảy ra chẳng có gì khác. Ông nội tôi và sau đó cha tôi luôn dặn dò chúng tôi Latvia là một nước tự do độc lập”.
Lời phát biểu của nữ sinh viên Lina Lagunaite rất bình thường nhưng chuyên chở một ý nghĩa tinh thần quan trọng.
Tinh thần độc lập dân tộc và chế độ Cộng Hòa được thiết lập tại Latvia từ năm 1918, rất lâu trước khi Lina ra đời vẫn sống. Thế hệ của Lina Lagunaite và có thể cả của cha cô ta đều sinh ra sau ngày 18 tháng 11, 1918, Ngày Độc Lập của Cộng Hòa Latvia, nhưng tinh thần độc lập đó như một dòng sông không ngừng chảy dù đã chảy trong đau thương và chịu đựng, trong máu và nước mắt suốt 51 năm dưới hai chế độ độc tài khát máu nhất nhân loại: Hitler và Stalin.
Không tính 200 năm dưới sự cai trị hà khắc của các triều đại Nga Hoàng, thời gian từ 1939 đến 1990 là một thời gian khủng khiếp để một dân tộc với dân số chưa đến 2 triệu như Latvia phải chịu đựng từ Stalin sang Hilter, trở lại Stalin và thời kỳ CS sau đó.
Năm 1939, Stalin thỏa thuận với Hitler qua hiệp ước bất can thiệp Molotov–Ribbentrop xua quân chiếm đóng Latvia. Phần lớn sĩ quan cao cấp trong quân đội Cộng Hòa Latvia đều bị giết chết. Hầu hết các lãnh đạo và viên chức chính phủ Cộng Hòa đều bị bắt và đày sang các trại tù miền Trung Á.
Năm 1941, khi Hitler xé hiệp ước Molotov–Ribbentrop mở Mặt trận Miền Đông tấn công Liên Xô, các quốc gia vùng Baltic rơi vào tay Hilter nhanh chóng. Latvia chịu đựng dưới chính sách hà khắc của Hitler. Lần này, không chỉ người Latvia mà nhất là người Latvia gốc Do Thái trở thành mục tiêu trấn áp. Theo các thống kê, chỉ còn 10 phần trăm dân Latvia gốc Do Thái sống sót sau Thế chiến Thứ Hai.
Khi Hitler thua, Stalin trở lại, cưỡng chiếm và sau đó sáp nhập Latvia vào Liên Xô. Khoảng 136 ngàn người Latvia bị kết tội là “kẻ thù nhân dân” và bị đày đến các tại tập trung lao động khổ sai nhiều nơi trên vùng Trung Á và Siberia. Tài sản bị tịch thu. Ruộng đất bị tước đoạt. Các hình thức xét xử gọi là “Tòa án nhân dân” được dựng lên khắp nơi. Khi Stalin chết, Nikita Khrushchev lên và cho phép dân Latvia lưu đày được trở về nguyên quán, nhưng quá trễ, phần đông đã chết trong tù đày.
Thế hệ của Lina Lagunaite lớn lên trong nền giáo dục Cộng Sản tuyên truyền tẩy não. Toàn bộ lịch sử Latvia cận đại bị hệ thống tuyên truyền Liên Xô viết lại. Thỏa hiệp Molotov–Ribbentrop, chiếm đóng vùng Baltic không được nhắc đến. Lina không được học lịch sử Latvia chính thống mà được đầu độc bằng những thông tin dối trá như “Con đường Lenin là con đường hạnh phúc”, “Stalin là anh hùng giải phóng dân tộc Latvia”. Triết học Mác Lê là môn học chính. Lina Lagunaite bị đoàn ngũ hóa từ khi còn bé. Một tầng lớp Latvia phản quốc được Liên Xô đào tạo để phục vụ cho chế độ CS. Đảng CS Latvia lúc đầu chỉ 400 đảng viên đã phát triển thành một tập đoàn tham nhũng, bán nước, tiếp tay với CS Liên Xô đày đọa chính đồng bào mình. Chính thành phần phản quốc trong cái gọi là “Quốc hội Latvia” đã bỏ phiếu sáp nhập Latvia vào Liên Xô.
Nhưng dân tộc Latvia và Cộng Hòa Latvia vẫn sống, vẫn tồn tại. Ngày 27 tháng Hai, 1990, cả nước Latvia đứng chào lá quốc kỳ hai màu trắng và huyết dụ được khai sinh trong thời kỳ độc lập 1918. “Cờ tổ quốc” nền đỏ búa liềm với ngôi sao vàng CS bị ném vào sọt rác của quá khứ đáng quên. Hầu hết Dân biểu Quốc hội Latvia bỏ phiếu thuận chọn lá cờ hai màu trắng và huyết dụ làm quốc kỳ chưa từng trước lá cờ đó lần nào. Tuy nhiên, giá trị của một lá cờ không chỉ được xác định bằng thời gian của một đời người mà bằng giá trị của di sản lịch sử mà lá cờ chuyên chở. Năm sau, ngày 10 tháng 9, 1991, đảng CS Latvia cũng bị Quốc Hội Latvia cấm hoạt động.
Những yếu tố giúp Latvia sống là những bài học mà các bậc ông bà, cha mẹ Việt Nam nên học. Như nữ sinh viên Lina Lagunaite kể lại cho phóng viên LA Times “Ông nội tôi và sau đó cha tôi luôn dặn dò chúng tôi Latvia là một nước tự do độc lập”, các thế hệ cha ông Việt Nam, qua giáo dục gia đình, phải có trách nhiệm hun đúc niềm tin dân tộc nơi thế hệ trẻ để các em luôn hãnh diện với gia phong và huyết thống của mình. Gia phong huyết thống của đại gia đình Việt Nam là màu da các em có, là chiếc áo dài các em mặc, là tiếng nói, là ca dao, là lá trầu, trái cau, là nụ cười của trẻ thơ, lời ru và cả giọt nước mắt đau lòng của mẹ. Và xa hơn, gia phong và huyết thống là giá trị tự do, độc lập dân tộc đã tích lũy và kế thừa qua nhiều nghìn năm trước kết tụ trong nhận thức của mỗi con người.
Nữ sinh viên Lina Lagunaite nhún vai xem việc Lavia độc lập là chuyện bình thường bởi vì em được hun đúc một niềm tin sâu xa vào lịch sử Latvia: “Latvia bao giờ cũng là một nước tự do. Sự kiện vừa xảy ra chẳng có gì khác”. Em đã chiến thắng bộ máy tuyên truyền CS. Em vượt qua được chính sách đồng hóa vô cùng tàn nhẫn của Nga. Em biết mình là ai. Lina Lagunaite học thuộc lịch sử chính thống của Latvia. Bởi vì nếu không thuộc sử sẽ dẫn đến câu hỏi "tôi là ai", dẫn đến việc thiếu niềm tin vào sức sống và sự trường tồn của nòi giống, dẫn đến những cái nhìn thiển cận về tương lai đất nước.
Không riêng Lina Lagunaite mà rất đông những người thuộc thế hệ Lina Lagunaite cũng được ông bà, cha mẹ dạy dỗ tốt như vậy và chính thế hệ này là thành phần nòng cốt trong các cuộc biểu tình đòi độc lập cho Latvia trong ba năm 1987 đến 1990. Trong lễ kỷ niệm 70 năm Độc Lập Latvia vào năm 1988, có ước lượng 500 ngàn người, hơn một phần tư dân số Latvia trong đó đa số là tuổi trẻ, tham dự.
Một người Việt Nam nào quan tâm đến tương lai dân tộc cũng đều muốn thấy đất nước một ngày được sống trong tự do dân chủ. Nhưng mơ ước cũng chỉ là mơ ước nếu không được cụ thể hóa bằng hành động yểm trợ cho các sinh hoạt của tuổi trẻ, góp công, góp sức vào các phong trào dân chủ của tuổi trẻ. Đừng đợi tuổi trẻ tìm mà hãy đứng đậy đi về phía tuổi trẻ, gõ cửa tâm hồn họ, thắp lên ngọn lửa tin yêu và hy vọng trong lòng họ, nuôi dưỡng truyền thống độc lập và tự chủ trong nhận thức họ như cha ông của Lina Lagunaite đã làm ở Latvia .
Bài Thơ Tháng Tư
Trần Trung Ðạo
Mỗi năm vào dịp tháng tư Tôi lại giống như một ông đồ già Loay hoay bày ra giấy bút Cố viết một bài thơ về đất nước Chuyện bên nhà và cả chuyện lưu vong Nhưng đã bao lần bút gãy mực loang Bài thơ tháng tư tôi chưa hề viết được. Phải chăng khi đến tận cùng khổ nhục Con người bỗng trở nên Bình thản tự nhiên Có những chuyện buồn nhức nhối con tim Vẫn có kẻ Có thể bật cười Dù là cười chua chát Bài thơ nầy chắc sẽ dài Vì đời tôi nhiều lưu lạc Và cũng chắc sẽ buồn Vì là chuyện nước non. Phải chăng tôi nên bắt đầu Khi những chiếc trực thăng Sắp sửa rời thành phố Trong đám người đang bon chen lố nhố Tôi thấy dường như Nhiều con chuột cống ở Sài Gòn Cũng cố kiếm đường đi Chúng cõng trên mình những chiếc va-li Chứa đầy đô la vàng bạc Dành dụm từ thời đi buôn gạo lậu Dấu diếm từ thời lo bão lụt miền Trung Tôi thấy chúng nghiêng mình Hai gối run run Trước những anh cảnh binh người Mỹ Chúng nói những gì tôi nghe không kỹ Chỉ thấy họ lắc đầu Rồi bước vô trong Có lẽ lại là chuyện hối lộ Ðể dược đi đông Ngòai chuyện ấy chúng còn biết gì hơn nữa Tôi đứng nhìn qua đôi cánh cửa Cầu mong cho chúng được đi mau Những con chuột cống nầy Gặm nhấm đã lâu Và bán nước từ khi còn rất trẻ Thuở Tây qua chúng đầu quân rất lẹ Tây bỏ đi chúng theo Mỹ vì đô-la Những chuyện về chủ nghĩa quốc gia Hay dân tộc thiêng liêng Chúng đọc biết bao lần Nhưng chưa hề hiểu nghĩa Tôi đứng nhìn qua đôi cánh cửa Thầm cầu mong cho chúng được đi nhanh. Phải chăng tôi nên bắt đầu Khi những chiếc xe tăng Lăn xích tiến vào thành phố Tôi đứng lặng nhìn Tự Do vừa sụp đổ Cây Dân Chủ chưa xanh Ðã héo úa bên đường Mới giã từ một bọn bất lương Lại phải đứng nhìn những tên ăn cắp Chúng đang nhân danh Hòa bình Tự do Thống nhất Ðể biến con người thành con vật ngây thơ Chỉ biết lắng nghe Chỉ biết cúi đầu chờ Chỉ biết Ðảng Ðảng trở thành tất cả Lịch sử, tình yêu, tổ tiên, mồ mả Chỉ còn là những chuyện phù phiếm, viễn vông Chúng biến những nương dâu bãi mía cánh đồng Thành những nông trường hoang vu tập thể Biến nhà máy thành những nơi hoang phế Biến học đường Thành những nơi để thầy trò tố cáo lẫn nhau Biến cả bình minh thành những tối thương đau Biến tình yêu Thành hận thù Bon chen Nghi kỵ Từ thôn quê cho đến nơi đô thị Ðã mọc thêm nhiều nhà cách mạng thứ ba mươi Những bạn bè thân thiết thuở rong chơi Bỗng một sáng thành những têm chém trộm Chế độ đã dạy cho chúng Một con đường tồn tại Con đường phản bội lương tâm Phản bội gia đình tổ quốc nhân dân Phản bội chính tâm hồn vốn rất đáng yêu của chúng Tôi đứng nhìn non sông đang phủ xuống Một màu đen tang tóc đau thương Người lính bộ binh buông súng đứng bên đường Ðang cúi mặt cố che niềm tủi nhục Anh không khóc Sao trời như bão động Anh không cười Sao chua chát nghẹn trên môi Về đâu anh nắng đã tắt trên đồi Sương đang xuống trên cuộc đời còn sót lại Ðời của anh Ðời một tên chiến bại Có gì vui để lại mai sau. Phải chăng tôi nên bắt đầu Khi những chiếc xe bộ đội nối nhau Mang gia đình tôi đến vùng kinh tế mới Ðến Ðồng Xoài trời vừa sập tối Lại phải sắp hàng nghe nghị quyết triển khai Gia đình tôi bảy người Chen chúc tránh mưa Căn nhà nhỏ một gian không vách Mẹ tôi ngồi đôi tay gầy lạnh ngắt Vẫn cố nhường chỗ ấm cho con Gạo lãnh lúc chiều không đủ nấu cơm Nên đêm ấy cả nhà ăn cháo trắng Mỗi giọt cháo là một liều cay đắng Chảy vào vết thương đang ung mủ trong hồn Tôi, đứa con đầu trong bảy đứa con Hơn hai mươi tuổi vẫn hai bàn tay trắng Nuôi tôi lớn Mẹ một sương hai nắng Học ra trường lương không đủ nuôi thân Mẹ tôi chưa hề trách cứ phân vân Nhưng tôi đọc những buồn lo Từ trong ánh mắt Ðêm hôm ấy tôi ngồi nghe mưa rót Vào lòng tôi những chua xót căm hờn Bao năm rồi trong cảnh cô đơn Mẹ tôi sống Ðôi mắt buồn hiu Chưa bao giờ khô lệ. Phải chăng tôi nên bắt đầu Khi chiếc ghe nhỏ Máy hư Ðang thả lênh đênh trên biển Bốn phương trời chưa biết sẽ về đâu Biển vẫn vang lên những khúc nhạc sầu Ðược viết bằng những cung trầm Ðong đưa vào vô tận Như để tiễn đưa tôi Một người Việt Nam bạc phận Ði về bên thế giới hư vô Chiếc quan tài mong manh trên sóng nhấp nhô Ðang tiếc nuối những gì còn sót lại Biển một màu đen Tang chế Buồn man dại Và âm u như số phận con người Ngồi một mình yên lặng trên mui Cố nghĩ một câu thơ để làm di chúc Dù biết chẳng còn ai để đọc Chẳng còn ai thương tiếc tấm thân tôi Hai mươi sáu năm lưu lạc trên đời Sống chưa đủ nhưng đã thừa để chết Lòng tôi an nhiên không hề sợ sệt Bỗng thấy ung dung thanh thản lạ thường Tôi chợt hiểu tại sao Con người ai cũng khóc khi sanh Nhưng nhiều kẻ lại mỉm cười khi nhắm mắt Hai mươi sáu năm Ðời tôi buồn hiu hắt Chẳng còn gì để lại cho nhân gian Tuổi thanh xuân với chút mộng vàng Ðã vụt tắt ngay trong ngày nước mất Nếu tôi có chết hôm nay Cũng chẳng phải là người thứ nhất Và hẳn nhiên không phải kẻ sau cùng Trên vùng biển nầy từ độ tháng tư đen Ðã thắm máu bao nhiêu người Việt Nam mất nước. Phải chăng tôi nên bắt đầu Bằng những ngày đầu tiên trên Mỹ quốc Bước chân hoang trên xứ lạ quê người Ngỡ ngàng nhìn cuộc sống nổi trôi Không dám khóc Chẳng dám cười Chỉ biết xót xa Ngậm ngùi Ngơ ngác Thiên hạ nhìn tôi một người tỵ nạn Dăm kẻ đã sớt chia Cũng đôi kẻ khinh thường Tôi hiểu ra rằng khi rời bỏ quê hương Là chối bỏ những gì yêu quí nhất Hai chữ tự do tôi vô tình đánh mất Cứ tưởng rằng mình đang giữ nó trên tay Tự do là gì tôi đã hiểu sai Nó vô nghĩa đối với một người không tổ quốc Ðêm đầu tiên tôi nằm nghe thương nhớ Chảy vào tim đau nhức tận linh hồn Mẹ tôi giờ nầy còn khóc nữa không Hay cố ngủ để chiêm bao giờ hạnh ngộ Em tôi đứng thập thò trên góc phố Ðợi anh về dù chỉ mới ra đi Người con gái tôi yêu đang tuổi xuân thì Có về lại một lần thăm xóm vắng Sài Gòn bây giờ trời mưa hay nắng Ở bên nầy tuyết vẫn trắng như tang Nhìn thành phố nguy nga tôi thấy ngỡ ngàng Thấy tội nghiệp cho Sài Gòn tăm tối Tôi nhớ cả những con đường lầy lội Những con đường ngày hai buổi tôi đi Tôi nằm mơ làm một cánh chim di Bay trở lại một lần rồi sẽ chết Hai tiếng quê hương sao vô cùng tha thiết Học lâu rồi nhưng mới hiểu ra đây Quê hương là những gì tôi không có hôm nay. Mười bảy năm đã trôi qua Sài Gòn xưa vẫn thế Vẫn những đau thương dằn vặt kiếp con người Mười bảy mùa thu Bao độ lá vàng rơi Tóc mẹ trắng Bạc theo từng nỗi nhớ Mẹ tôi đã bỏ vùng kinh tế mới Về lại Sài Gòn tìm một chỗ che mưa Cuộc sống bây giờ đã đỡ hơn xưa Bởi vì có tôi Chứ không phải nhờ có đảng Em tôi lớn không làm người Cộng Sản Nên suốt đời phải lam lũ kiếm ăn Tuổi hoa niên chỉ có một lần Chúng đã bỏ quên trên vùng Kinh Tế Mới Mười bảy năm đường Sài Gòn vẫn tối Mưa vẫn rơi hoài Trên lối cũ thân quen Người phu quét đường vẫn dậy sớm mỗi đêm Ôm chiếc chổi lạnh lùng khua góc phố Bác xích lô trên đoạn đường loang lỗ Bao năm rồi vẫn đi sớm về khuya Chiếc lưng trần trầy trụi với nắng mưa Không dám trách ai Chỉ đổ thừa số mạng Cậu bé đánh giày ngày xưa Bây giờ đã trở thành tên du đãng Học thêm nghề đâm mướn chém thuê Tương lai em biền biệt sẽ không về Cơn gió lốc cuốn đi thời thơ dại Những con chuột cống ra đi Một số hình như đang tìm đường trở lại Vì tham nhũng lâu ngày nên đã hóa thành tinh Chúng đang biến thân làm lãnh tụ anh minh Tung bùa phép để thu hồi quyền lực Tội nghiệp đồng bào tôi Ðã bao đời khổ cực Sẽ thêm một lần ngậm đắng nuốt cay Ở tại Việt Nam trong mười bảy năm nay Ngoài tham nhũng Năng xuất chẳng có gì tăng nhanh hơn là nghị quyết Ðảng Cộng Sản vẫn tự khoe khoang Là muôn đời bất diệt Vẫn le lói giữa đêm mưa một bóng sao vàng. Và tôi Bao năm rồi vẫn những bước chân hoang Rất mệt nhọc như giòng sông chảy ngược Baì thơ tháng Tư tôi chưa hề viết được Mười bảy năm dài đâu chỉ kể dăm trang Trước những đau thương của đất mẹ điêu tàn Ngôn ngữ của tôi đã trở thành vô nghĩa Ðời của tôi dù buồn bao nhiêu nữa Cũng không buồn bằng chuyện nước tôi đau Baì thơ nầy dù viết đến năm sau Cũng chỉ là bài thơ dang dở. Trần Trung Ðạo 30-4-1992 Link của trang: Bài Thơ Tháng Tư |
Người Con Gái Việt Nam Nô Lệ Trên Đại Lộ Ayutthaya.
Hãy nói trước ngày chết
Trần Trung Đạo
Trung Cộng sẽ đổ và bài học Latvia cho người Việt Nam
Trần Trung Đạo (Danlambao) - Mọi
chế độc chà đạp lên quyền con người sớm hay muộn đều phải đổ. Ismail
Enver Pasha của Ottoman, Hitler của Đức Quốc Xã, Lenin, Stalin và các
lãnh đạo CS Liên Xô, Mengistu Haile Mariam của Ethiopia v.v.. đã đổ, các
quốc gia toàn trị còn lại như Trung Cộng, CSVN rồi cũng sẽ phải đổ. Một
người yêu nước, khôn ngoan, thức thời là người biết chọn một chỗ đứng,
một hướng đi về phía dân tộc để tranh đấu và nếu cần để chết vì tương
lai tự do, dân chủ và thịnh vượng cho con cháu mai sau.
*
Ngân sách quốc phòng của Trung Cộng khác nhau tùy theo nguồn ước lượng.
Theo công bố chính thức của Trung Cộng, ngân sách quốc phòng năm 2014 là
131.5 tỉ đô la nhưng theo Stockholm International Peace Research
Institute năm 2013 Trung Cộng đã dành 188 tỉ đô la cho chi phí quốc
phòng. Trung Cộng có quân đội hiện dịch 2.3 triệu quân với 500 ngàn quân
trừ bị. Trung Cộng có kho vũ khí và phương tiện chiến tranh tối tân và
hiện đại hơn tất cả các quốc gia khác ở Á Châu. Cho dù tối tân và đông
đảo bao nhiêu cũng không thể so với 27 ngàn đầu đạn nguyên tử, các hạm
đội hùng mạnh và 250 sư đoàn bộ binh trang bị tận răng của Liên Xô trước
ngày 25 tháng 12 năm 1991. Nhưng Liên Xô đã đổ, rồi Trung Cộng cũng
phải đổ.
Bao giờ Trung Cộng đổ?
Gordon Chang, nhà phân tích kinh tế chính trị đã làm việc 20 năm tại lục địa Trung Quốc, trong tác phẩm The Coming Collapse of China xuất bản 2001 tiên đoán Trung Cộng sẽ đổ vào năm 2011.
Lý do, theo Chang trong phần hỏi đáp về tác phẩm của ông, đã viết: “Mao
Trạch Đông, người sáng lập ra Trung Cộng, xây dựng một xã hội bất bình
thường và cô lập chính nó từ các quốc gia khác. Hệ thống đó có thể tồn
tại mãi cho đến khi Trung Cộng biệt lập từ thế giới, nhưng những người
kế tục Mao đã tìm cách mở cửa ra thế giới bên ngoài. Khi một quốc gia
trở nên hội nhập nhiều hơn với các quốc gia khác, một lực đẩy áp dụng
cho toàn thế giới – chính trị, kinh tế và xã hội – cũng ảnh hưởng Trung
Cộng. Tại một điểm trong tiến trình này, hệ thống bất bình thường của
Mao sẽ bị bỏ rơi vì về căn bản không thích hợp với vai trò mà Trung Cộng
tìm kiếm trong hệ thống quốc tế. Một thời gian ngắn, chính phủ Trung
Cộng sẽ không còn khả năng để đáp ứng với các thách thức của một xã hội
mở rộng và năng động”.
Trung Cộng không đổ như Gordon Chang đoán.
Thận trọng hơn Gordon Chang, công ty Strafor, một công ty thông tin tình
báo chiến lược toàn cầu hiện do George Friedman làm Chủ tịch Chấp hành,
trong Dự đoán Thập niên công bố ngày 21 tháng Giêng, 2010 cho
rằng nền kinh tế Trung Cộng sẽ đổ trong vòng 10 năm tới. Trả lời thay
mặt cho Strafor, Peter Zeihan, phó chủ tịch công ty, giải thích lý do: “Chúng
tôi đã phân tích vấn đề này trước đây về một hệ thống kinh tế Trung
Quốc bất ổn và chúng tôi nghĩ sự bất ổn đó đạt điểm vỡ khi các mâu thuẫn
nội tại của Trung Quốc bùng ra và tan nát”.
Bước vào năm thứ năm của thập niên, Trung Cộng vẫn chưa đổ theo ước tính của Strafor.
Tuy nhiên, dù không xảy ra như Gordon Chang dự đoán hay chưa xảy ra như
Strafor ước tính, cả hai và rất đông các nhà phân tích kinh tế chính
trị, đều có một nhận xét căn bản rất giống nhau rằng Trung Cộng sớm muộn
cũng sẽ đổ vì phải đương đầu với những khó khăn không thể vượt qua.
Những vấn đề của Trung Cộng
Dân số già nua
Dân số tại các quốc gia tiên tiến có khuynh hướng tăng chậm và điều này
có nghĩa tỉ lệ người cao tuổi ngày tăng cao so với thế hệ vừa sanh. Thế
nhưng, tại Trung Cộng mức độ chênh lệch đó cao nhất trên thế giới. Giai
đoạn hòa bình sau năm 1949 với chính sách kiểm soát dân số còn tương đối
lỏng lẻo là cơ hội cho một số rất đông dân được sinh ra. Lớp người này
sau đó trở thành lực lượng lao động chính trong giai đoạn hội nhập vào
thế giới đầu thập niên 1980, giúp thúc đẩy nền kinh tế và giữ chi phí y
tế an sinh xã hội thấp. Người dân trong giai đoạn này làm nhiều nhưng
tiêu ít. Điều kiện đó đang bị đảo ngược. Hiện nay Trung Cộng là xã hội
tiêu thụ nhưng có ít trẻ con hơn người già.
Theo ước tính của đề án PewResearch Global Attitues Project, năm 2050
Trung Cộng sẽ chỉ tăng 25 triệu so với 400 triệu của Ấn Độ. Các phân
tích dân số ước tính Trung Cộng đang trở nên quốc gia không chỉ già nhất
thế giới mà còn già nhanh nhất thế giới. Trong thời gian vài năm nữa,
Trung Cộng sẽ là viện dưỡng lão khổng lồ. Một quốc gia già nua có nghĩa
các chi phí an sinh xã hội, dịch vụ y tế cũng gia tăng một cách tương
ứng và là một gánh nặng không chịu nổi cho đất nước 1.4 tỉ dân. Lực
lượng lao động phần lớn được dùng trong giai đoạn sản xuất dây chuyền,
thiếu sáng tạo kỹ nghệ mang tính tiên tiến và khai phá. Phần lớn hàng
hóa, dù tiêu dùng hay kỹ thuật cao cấp cũng được phát minh, sáng chế từ
nước khác.
Tham nhũng
Tham nhũng xảy ra ở mọi quốc gia trên thế giới nhưng tại các nước do
đảng CS cai trị tham nhũng không chỉ trầm trọng mà còn có tính đảng.
Gọi là tính đảng bởi vì tình trạng tham nhũng phát sinh ngay trong lòng
cơ chế chính trị, do cơ chế nuôi dưỡng, tràn lan sang các bộ phận của hệ
thống và dần dần làm hư thối toàn xã hội. Từ Giang Trạch Dân đến Hồ Cẩm
Đào đều đưa mục tiêu chống tham nhũng lên hàng đầu nhưng cả hai đều
biết tham nhũng sẽ tồn tại cùng với sự tồn tại của đảng CS. Các chương
trình chống tham nhũng “đầu voi đuôi chuột” được phát động ồn ào và đầu
hàng chỉ sau 18 tháng. Lý do, bịnh ung thư tham nhũng lan quá rộng và
quá sâu đến các bộ phận sinh tử của đất nước, nhất là trong quân đội.
Sự phân cách giàu nghèo xảy ra tại hầu hết các nước phát triển, trong
đó, một vài phần trăm người dân sở hữu một nguồn lớn của cải xã hội. Tại
Trung Cộng, chỉ một phần trăm trong tổng số trên một tỉ người sở hữu 40
phần trăm của cải. Điều khác giữa Trung Cộng và các quốc gia tư bản là
số tài sản mà một phần trăm nắm giữ tại Trung Cộng là do tham ô, hủ hóa,
là máu xương, mồ hôi nước mắt của người dân làm ra.
Thiếu tính chính danh lãnh đạo đất nước
Theo tác giả Ross Terrill trong tác phẩm The New Chinese Empire
tại Trung Cộng chủ quyền của con người không tồn tại ngay cả trong lý
thuyết chứ đừng nói chi là thực tế. Mọi quyền hạn đều tập trung trong
tay đảng nhưng không ai bầu đảng CS, không ai trao cho đảng quyền lãnh
đạo. Trong thời kỳ mới mở cửa, người dân tập trung xây dựng cuộc sống
sau khi vừa bước ra khỏi thời tem phiếu nên có khuynh hướng chấp nhận
hay không quá quan tâm đến việc ai lãnh đạo mình nhưng thái độ đó đang
thay đổi nhanh chóng.
Tại Trung Cộng không có một cơ quan, đoàn thể xã hội nào mà không đặt
dưới sự lãnh đạo của đảng CS. Mặc dù quốc gia có nhiều ngàn tờ báo nhưng
không có tờ báo nào đưa vấn đề chính sách ra bàn cãi. Khi mức độ hội
nhập vào thế giới gia tăng sự bất mãn trong quần chúng đối với đảng và
nhà nước CS cũng gia tăng. Theo giáo sư David Shambaugh, đại học George
Washington, mức độ trấn áp hiện nay tại Trung Cộng lên cao nhất kể từ
năm 1989.
Bất ổn xã hội
Theo Gini Index, tiêu chuẩn đo lường mức độ mất cân xứng trong
việc phân phối lợi tức gia đình, Trung Cộng là một trong số mười phần
trăm mất cân xứng nhất trên thế giới. Hiện nay các sinh viên tốt nghiệp
đại học không có công ăn việc làm tốt như các thế hệ sinh viên trước
đây.
Các thành phần giàu có đang tìm cách chuyển tiền ra nước ngoài để mua
tài sản cố định và tìm cách định cư. Theo thống kê của Shanghai ‘s Hurun
Research Institue thực hiện vào tháng Giêng, 2014, có đến 64 phần trăm
trong số 393 người giàu có được thăm dò đang tính hay sẽ tính di chuyển
ra nước ngoài. Mỗi năm tại Trung Cộng có 200 ngàn cuộc biểu tình trong
các mức độ và hình thức khác nhau, từ những cuộc biểu tình đẫm máu ở Tây
Tạng, Xinjiang cho đến các đình công nhỏ trong các công ty.
Xã hội bưng bít Trung Cộng không thể thích nghi với thế giới luôn đổi
thay và sinh động. Các chính sách tự diễn biến trong suốt 25 năm qua của
các lãnh đạo Trung Cộng đều có tính cách chiến thuật, phòng thủ, vá víu
từng giai đoạn. Trung Cộng gặp ít nhiều may mắn về cung ứng hàng hóa rẻ
cho thị trường thế giới trong giai đoạn đầu của toàn cầu hóa nhưng về
lâu dài khi mức cung cầu được bão hòa, mức độ phát triển kinh tế sẽ chậm
lại. Các lãnh đạo Trung Cộng biết điều đó nhưng biết là một chuyện mà
vượt qua được hay không là chuyện khác. Đổi mới quá xa Trung Cộng sẽ trở
thành Liên Xô năm 1991 mà không đổi mới cách mạng cũng sẽ bùng vở từ
trong lòng quần chúng.
Ô nhiễm
Đây là lãnh vực mà Trung Cộng giữ kỷ lục hàng đầu thế giới trong nhiều
năm chưa có đối thủ tranh giành được. Điều kiện an toàn hầm mỏ, Trung
Cộng cũng được vào mức tệ hại nhất thế giới. Nước, không khí, kỹ nghệ bị
ô nhiễm là nguồn của các bịnh ung thư và các bịnh liên quan đến bộ phận
hô hấp. Tuy che đậy, chính phủ Trung Cộng phải thừa nhận 70% sông, hồ
bị ô nhiễm. Năm 2007, World Bank trong một tổng kết đã tố cáo tình trạng
ô nhiễm tại Trung Cộng là lý do cho 760 ngàn trẻ em chết non và các
bệnh hô hấp khác.
Hai tác giả Joseph Kahn và Jim Yardley của New York Times trong
bài điều tra năm 2007 cho rằng tình trạng ô nhiễm đe dọa vai trò lãnh
đạo của đảng CSTQ. Cũng theo bài điều tra này, 500 triệu người dân Trung
Quốc không có nước uống an toàn vệ sinh. Chỉ vỏn vẹn 1 phần trăm dân
chúng thở không khí với mức độ trong lành tương tự như một người dân Âu
Châu thở. Đảng và nhà nước CSTQ công bố hàng loạt các chương trình bảo
vệ môi trường nhưng không đạt kết quả bởi vì người dân không có quyền
góp ý và báo chí không được phép phê bình.
Chủ trương của Mỹ trước viễn ảnh Trung Cộng đổ: một chính sách hai phương cách (dual-track policy)
Vì có nhiều ẩn số chưa giải đáp nên không ai có thể có một câu trả lời
dứt khoát Trung Cộng sẽ chuyển hóa qua tự do dân chủ trong hòa bình hay
sẽ trở thành một hay nhiều nước tự do sau một cuộc chiến tranh đẫm máu.
Để đáp ứng cả hai tình huống, Mỹ áp dụng một chính sách hai phương cách (dual-track policy) đối với Trung Cộng.
Giáo sư Aaron L. Friedberg, thuộc đại học Princeton và nguyên Phụ tá An
ninh Quốc gia tại văn phòng Phó Tổng Thống vào năm 2005, giải thích
chính sách này gồm hai mặt: vừa hợp tác xuyên qua ngoại giao, mậu dịch,
khoa học kỹ thuật và văn hóa giáo dục nhưng đồng thời cũng tăng cường
quân sự để đáp ứng với sự gia tăng quân sự của Trung Cộng trong vùng
Đông Á qua các hợp tác quân sự với Úc, Nhật, Nam Hàn và Philippines.
Khả năng tốt đẹp nhất cho Mỹ và nhân loại là thông qua mậu dịch và hợp
tác, Mỹ sẽ thúc đẩy Trung Cộng từng bước chuyển hóa sang xã hội tự do.
Tuy nhiên, sau mấy chục năm theo đuổi từ Nixon đến Obama, mục đích giải
phóng chính trị trong hòa bình cho Trung Cộng ngày càng xa thêm.
Sự thất bại của chủ trương một chính sách hai phương cách (dual-track policy)
Chủ trương chính sách hai phương cách (dual-track policy) với
Trung Cộng đã chứng tỏ không thành công. Mặc dù không công khai tuyên
bố, mục đích của Trung Cộng là làm bá chủ biển Đông, và điều đó đi ngược
lại quyền lợi tối quan trọng của Mỹ và đông minh tại Á Châu.
Về mặt đối nội, cải cách chính trị sẽ diễn ra tại Trung Cộng trước mắt
cũng như lâu dài. Kinh nghiệm đổi mới tại Liên Xô trước năm 1991 cho
lãnh đạo CSTQ biết đổi mới quá đà sẽ dẫn đến những phản ứng xã hội ngoài
tầm kiểm soát của đảng.
Về mặt bang giao quốc tế, Trung Cộng không hành xử với tư cách một cường
quốc có trách nhiệm, cụ thể qua việc Bắc Hàn thử nghiệm hỏa tiễn tầm
xa và việc Iran thí nghiệm nguyên tử. Ngoài ra, trong lúc Mỹ cắt giảm
ngân sách quốc phòng, Trung Cộng lại gia tăng với mục đích nắm phần ưu
thế, ít nhất tại vùng Đông Á Châu. Lãnh đạo Trung Cộng mặc dù mạnh về
kinh tế nhưng luôn sống trong nỗi bất an bị Mỹ bao vây và lật đổ.
Cách mạng bạo động
Lịch sử Trung Quốc cho thấy rất ít khi một biến cố chính trị diễn ra
trong êm đẹp. Khả năng rất thấp cho một cuộc cách mạng nhung, cách mạng
da cam, hoa lài diễn ra tại Trung Cộng. Cách mạng tại Trung Cộng sẽ là
cách mạng máu. Vũ khí của giới cầm quyền dù có hiện đại bao nhiêu cũng
không thể ngăn chận được sức mạnh của toàn dân khi họ đã quyết tâm đứng
dậy.
Một yếu tố mà lãnh đạo Trung Cộng không dự đoán được là sự phẩn uất bùng
nổ của 1.4 tỉ dân. “Năm nọc độc” như bộ máy tuyên truyền Trung Cộng gọi
gồm Đài Loan, Tây Tạng ly khai, thiểu số Uighurs, Falun Gong, các nhà
tranh đấu dân chủ, trong đó bốn “nọc độc” nằm ngay trong lục địa và sẽ
trở thành lực lượng quyết định số phận của đảng CSTQ.
Mặc dù phong trào CS trên phạm vi thế giới không còn tồn tại, sự cách
ngăn về ý thức hệ giữa Mỹ và Trung Cộng quá lớn để đặt qua một bên bởi
vì ý thức hệ ảnh hưởng đến sự tin tưởng giữa hai chính phủ. Điều rõ ràng
rằng nếu Trung Cộng là một quốc gia dân chủ, sự xung đột quyền lợi sẽ
không trầm trọng như xung đột giữa Mỹ dân chủ tự do và Trung Quốc độc
tài CS. Khi cách mạng bùng nổ, Mỹ và Tây Phương, vị lợi ích kinh tế
chính trị, sẽ ủng hộ các lực lượng dân chủ.
Phản ứng của lãnh đạo Trung Cộng trước thời điểm đổ
Sinh mạng của chế độ CSTQ gắn liền với phát triển kinh tế. Từ 1980 đến
2011 nền kinh tế Trung Cộng tăng trưởng trung bình 10 phần trăm mỗi năm.
Mức phát triển đó không bao giờ trở lại. Nhà phân tích Bob David của tờ
The Wall Street Journal nhận định trong mười năm tới kinh tế
Trung Cộng chỉ phát triển từ 3.9 phần trăm. Một số nhà phân tích khác bi
quan hơn khi cho rằng kinh tế Trung Cộng chỉ tăng 1.6 đến 1.7 phần
trăm. Mức phát triển đó là một mức chậm tại các nước kỹ nghệ nhưng là
một tai họa nếu xảy ra tại Trung Cộng.
Điều gì sẽ xảy ra? Trung Cộng theo lý thuyết buộc sẽ giảm cường độ các
xung đột và tranh chấp với các nước láng giềng để tập trung giải quyết
các vấn đề nội bộ. Tuy nhiên, theo Andy Morimoto phân tích trong Can China Fall Peacefully? đăng trong The National Interest ngày 19 tháng 11, 2014, lúc đó Trung Cộng sẽ phát động chiến tranh để hợp thức hóa vai trò lãnh đạo của đảng CS.
Bằng chứng, trong thập niên 1950, Trung Cộng thay vì tập trung tái thiết
kinh tế sau cuộc chiến tranh dài, đã phát động chiến tranh Triều Tiên
để củng cố vai trò của đảng. “Sự xúi dục của nước ngoài” thường là bình
phong để thanh trừng nội bộ đảng. Edward Wong, sử gia về Trung Quốc,
trên New York Times ngày 11 tháng 11, 2014 trong bình luận In New China, ‘Hostile’ West Is Still Derided,
Tập Cận Bình trong khi trải thảm đỏ chào đón TT Mỹ Barack Obama, cùng
lúc đã ca ngợi blogger Zhou Xiaoping như có “tinh thần tích cực” vì
blogger này đã viết bài chống Mỹ.
Cũng theo Andy Morimoto, làm việc tại Hội Đồng Chicago Về Các Vấn Đề Thế
Giới, “viễn ảnh hòa bình tại Á Châu không nhiều hứa hẹn” và ông đề nghị
chính phủ Mỹ thay vì dùng hai phương cách nên tập trung vào việc tăng
cường quân sự tại Á Châu bởi vì tiên đoán hợp lý nhất vẫn là chiến tranh
sẽ bùng nổ trong tương lai.
Lối thoát của Việt Nam
Để giới hạn hay giảm nhẹ mức ảnh hưởng của chiến tranh, chọn lựa duy
nhất của Việt Nam là phải thoát ra khỏi quỹ đạo Trung Cộng trước khi
Trung Cộng đổ. Không có cánh cửa nào khác hơn là dân chủ. Tuy nhiên lãnh
đạo CS Việt Nam không có khả năng đưa đất nước ra khỏi quỹ đạo Trung
Cộng bằng con đường dân chủ.
Stalin, trong buổi họp với Mao và Hồ Chí Minh tại Moscow giữa tháng
Giêng 1950, đã phó thác sinh mạng CSVN vào tay Trung Cộng. Từ đó, CSVN
hoàn toàn lệ thuộc vào Trung Cộng không chỉ phương tiện chiến tranh,
kinh tế, quốc phòng, hệ ý thức, cơ sở lý luận mà cả cách nói, cách ăn,
cách mặc. Đọc các tài liệu quốc tế trong thời kỳ chống Pháp để thấy Mao
gần như đơn phương quyết định mọi hoạt động quân sự của Việt Minh kể cả
việc chọn ngày, chọn tháng cần phải chiếm cho được Điện Biên Phủ. Máu
xương của bao thanh niên Việt Nam đổ xuống trong chiến tranh chống Pháp
trong hàng ngũ Việt Minh có thể phát xuất từ lòng yêu nước chân thành
nhưng đã bị CSVN và CS quốc tế lợi dụng từng nắm xương, từng giọt máu.
Và hôm nay, Trung Cộng là mảnh ván duy nhất còn lại để lãnh đạo CSVN bám
vào. Dù thỉnh thoảng vẫn giả giọng hát bài ca yêu nước, thương dân,
lãnh đạo CS biết không có mảnh ván Trung Cộng, chế độ CSVN sẽ chìm. Chọn
lựa duy nhất cho một Việt Nam dân chủ vẫn thuộc về các thành phần Việt
Nam yêu nước và không Cộng Sản.
Bài học Latvia độc lập dân chủ trước khi Liên Xô đổ
Latvia là quốc gia nhỏ, hiện theo thể chế Cộng Hòa vùng Baltic, thủ đô
Riga, có dân số thống kê năm 2010 là 2 triệu người, có chung biên giới
với Estonia, Lithuania, Belarus và Nga. Latvia độc lập năm 1918, nhưng
bị Liên Xô chiếm năm 1940, bị Đức Quốc Xã chiếm năm 1941, bị Liên Xô
chiếm lần nữa năm 1944 và sau đó trở thành nước CS trong hệ thống Liên
Xô mãi cho đến khi chính thức độc lập năm 1991. Trước khủng hoảng kinh
tế thế giới 2008, Latvia là quốc gia có mức phát triển kinh tế nhanh
nhất Châu Âu. GPD trên đầu người năm 2013 của Latvia là 15,375 đô la.
Hiện nay, Latvia hội viên của NATO, Liên Hiệp Châu Âu (EU), WTO, UN, IMF
và nhiều tổ chức quốc tế khác.
Bằng việc chấp nhận Tuyên Bố về Tái Lập Nền Độc Lập của Cộng Hòa Latvia (The Declaration on Restoration of Independence of the Republic of Latvia), Latvia chính thức thoát ra khỏi quỹ đạo Liên Xô ngày 4 tháng 5 năm 1990, hơn một năm rưỡi trước khi Liên Xô đổ.
Lãnh đạo của nền cộng hòa Latvia khẳng định họ không phải là một nước
cộng hòa tân lập mà kế tục chế độ cộng hòa được thành lập từ 1918. Mặc
dù đại đa số thành viên bỏ phiếu hay chấp nhận bản tuyên bố chưa sinh ra
trong giai đoạn lịch sử 71 năm trước đó, họ biết rằng lịch sử Latvia là
một giòng sông, có lúc êm đềm, có khi gềnh thác nhưng liên tục chảy.
Giọt nước Latvia của thời điểm 1990 đã bắt đầu từ thượng nguồn Latvia
năm 1918 đầy hy sinh gian khổ qua tay Hitler và Stalin, hai lãnh tụ độc
tài tàn ác nhất trong lịch sử loài người.
Mặc dù hiện nay Latvia có nhiều đảng, tổ chức chính trị nhưng trong thời
điểm 1990, các lãnh đạo phong trào dân chủ Latvia theo đuổi các mục
tiêu hết sức cụ thể và sáng suốt:
(1). Tập trung mọi thành phần dân tộc dưới một mặt trận duy nhất là
Phong Trào Dân Tộc Latvia (Latvian People’s Front) nhằm theo đuổi chỉ
một mục tiêu là loại bỏ chế độ CS tại Latvia và thoát khỏi quỹ đạo
Moscow.
(2). Kế tục nền Cộng Hòa đã ra đời năm 1918 thay vì thành lập quốc gia mới.
(3). Dứt khoát đứng về phía Tây Phương dân chủ ngay từ ngày đầu tuyên bố
độc lập để sau đó được trở thành hội viên của Liên Hiệp Âu Châu
(European Union) và thành viên của NATO.
(4). Vận dụng nhưng không bị gạt gẫm trước mọi cải tổ kinh tế chính trị của Mikhail Gorbachev.
(5). Từ chối đề nghị của Boris Yeltsin tham gia vào Khối Thịnh Vượng
chung cùng với 11 quốc gia cựu Liên Xô trong hội nghị tại Kazakhstan để
rồi khối này bị cuốn vào vòng kiểm soát của Nga cho đến hôm nay.
Trong số 138 đại biểu bỏ phiếu chấp thuận bản Tuyên Bố về Tái Lập Nền
Độc Lập của Cộng Hòa Latvia buổi sáng ngày 3 tháng 5 năm 1990 không phải
đều có một quá khứ giống nhau nhưng cùng chia sẻ một ước vọng tương lai
tươi đẹp cho dân tộc họ. Dân số Latvia chỉ vỏn vẹn 2 triệu người nhưng
đã thắng Liên Xô hùng mạnh gấp ngàn lần hơn bởi vì không có sức mạnh nào
mạnh hơn sức mạnh của đoàn kết dân tộc.
Mọi chế độc chà đạp lên quyền con người sớm hay muộn đều phải đổ. Ismail
Enver Pasha của Ottoman, Hitler của Đức Quốc Xã, Lenin, Stalin và các
lãnh đạo CS Liên Xô, Mengistu Haile Mariam của Ethiopia v.v.. đã đổ, các
quốc gia toàn trị còn lại như Trung Cộng, CSVN rồi cũng sẽ phải đổ. Một
người yêu nước, khôn ngoan, thức thời là người biết chọn một chỗ đứng,
một hướng đi về phía dân tộc để tranh đấu và nếu cần để chết vì tương
lai tự do, dân chủ và thịnh vượng cho con cháu mai sau.
_______________________________________
Tham khảo:
1. Yang Kuisong, Changes in Mao Zedong’s Attitude toward the Indochina
War, 1949-1973, Woodrow Wilson International Center for Scholar, 2002
2. Jung Chang and Jon Halliday, Mao: The Unknown Story, Anchor Books, November 14, 2006
3. Gordon Chang, The Coming Collapse of China. Author Q&A, why will China Collapse?
4. STRATFOR'S TOP PREDICTIONS FOR THE NEXT DECADE: China Collapse, Global Labor Shortages, New American Dominance.
6. David Shambaugh, China at the Crossroads: Ten Major Reform Challenges, George Washington University, October 1 2014
7. Pollution in China, Wikipedia.org
8. Steven Metz, U.S. Military Must Prepare for China’s Rise—and Fall , World Politics review,, April 23, 2014
9. Bucking Beijing, An Alternative U.S. China Policy
10. Chinese Military , The Lowy Institute.
13. How Democracy is Latvia, Commission of Strategic Analysis, Latvijas Universitate, 2005
*************************************
Tôi Mất Em Rồi.
Thơ Trần Trung Phán.
Em bỏ tôi chi giữa chợ đời
Sầu theo năm tháng hạt mưa rơi
Tôi buồn tôi khóc đời binh phế
Khổ -hận-sầu-thương mãi một thời
Cắn chặt vành môi nghe rướm máu
Nhớ con giờ lại biết tìm nơi
Nhà xưa vắng bóng người xưa cũ
Quạnh quẻ buồn hiu rách tả tơi
Em bỏ tôi chi giữa chợ đời
Theo người với biển với dòng khơi
Đem con về chốn trùng dương rộng
Năm tháng đi qua chẳng một lời
Em bảo rằng tôi cái nợ đời
Bỏ theo người mới để tìm chơi
Bể dâu biến đổi đời tan nát
Cuộc chiến về chi chẳng gọi mời
Tôi mãi nằm đây rách tả tơi
Hởi người chiến hữu khắp muôn nơi
Chút tình an ủi đời binh phế
Sống nốt thời gian thuở cuối đời !.