Nguyễn Cao Quyền (Danlambao)
- Dân chủ là một ý niệm khó tưởng tượng trong truyền thống
Đông Á. Dân chủ không chỉ hiện hữu trong các khát vọng mà chủ
yếu phải là thực tiễn chính trị. Nếu hiểu theo chiều hướng
này thì chưa có giai đoại nào trong lịch sử Trung Hoa có thể
lấy làm thí dụ.
Trung Quốc có một truyền thống quân chủ chuyên chế lâu bền và
liên tục nhất so với bất cứ một quốc gia nào trên thế giới. Mô
hình chuyên chế đó biểu lộ dới ba dạng thức: chuyên chế quân
phiệt, chuyên chế pháp quyền và chuyên chế quan liêu...
Chuyên chế quan liêu chịu ảnh hưởng của Nho Giáo đã có truyền
thống đậm nét nhất, liên tục nhất và lâu dài nhất. Nho Giáo
đã tạo Trung Quốc thành một “xã hội luân thường” gồm
toàn những con người chức năng và nghĩa vụ. Họ đã vì luân lý
của Khổng Tử mà chịu hy sinh tự do để dựng nên những đế chế
tồn tại quá lâu trong lịch sử.
So sánh với các xã hội Tây Phương ta thấy có một sự tương phản
rõ rệt. Cá nhân trong xã hội Tây Phương là loại cá nhân đồng
loạt, tương tác hàng ngang trong xã hội. Cá nhân đó buộc phải
chấp nhận sự tồn tại của các cá nhân khác trong tư cách đồng
hạng, bình quyền và bình đẳng. Loại cá nhân này cần đến các
khế ước xã hội, đến pháp luật, đến tư hữu để bảo vệ tự do
của mình. Họ coi tự do là một vấn đề sinh tử, vì thế cho nên
một số nước Tây Phương đã nhanh chóng trờ thành dân chủ.
Sau cuộc trấn áp Thiên An Môn năm 1989, Đảng CSTQ bị phá sản về
mặt đạo đức. Trong nước gần như không còn ai tin vào những khẩu
hiệu mà Đảng vẫn hô hào về xã hội chủ nghĩa. Ngoài nước mô hình chính trị Trung Quốc bị cả loài người ghê tởm.
Mặc dầu bị tai tiếng như thế, nhưng 20 năm sau, Đảng CSTQ đã tạo
được sự ủng hộ mới của quần chúng qua thành tích đã đem lại
một sự phát triển kinh tế đáng kinh ngạc và qua cố gắng làm
hồi sinh chủ nghĩa Đại Hán. Những việc này tạo ấn tượng chế
độ đang tìm cách tự do hóa, nhưng đây là một ngộ nhận nguy hiểm.
Ưu tiên hàng đầu của Đảng CSTQ vẫn như cũ là nắm giữ quyền
lực tuyệt đối. Tăng trưởng kinh tế không bao giờ dẫn đến dân
chủ khi mà chế độ độc tài, độc đảng vẫn còn tồn tại. Thật
ra Đảng CSTQ chỉ đang cố gắng hiện đại hóa chủ nghĩa chuyên chế để thích ứng với thời đại.
Trong khi kinh tế tăng trưởng, Đảng tìm cách liên hiệp với các lãnh tụ kinh doanh,
sẵn sàng ủng hộ chế độ chuyên chế để đổi lại sự giàu có.
Thay vì xuất hiện như giai cấp trung lưu với khả năng thách thức
chính quyền, nhóm lãnh tụ kinh doanh này ủng hộ đường lối cai
trị bằng biện pháp mạnh để dẹp yên những bất ổn trong dân
chúng.
Điều đáng chú ý hơn cả là Đảng CSTQ đang tìm cách xuất cảng
sách lược nói trên ra nước ngoài và yểm trợ tài chánh cho
những nơi mà mô hình “tư bản chuyên chế” này đang được sao
lại. Việt Nam đang nhắm mắt sử dụng chiếc phao cứu vớt đó. Mô
hình tư bản chuyên chế là một thách thức đối với các giá
trị dân chủ, một thách thức cần cảnh giác.
Sự lạm dụng nguyên tắc dân chủ
Nguyên tắc dân chủ bị Trung Quốc và các nước độc tài Đông Á lạm dụng nhiều nhất là nguyên tắc “chủ quyền quốc gia”.
Thuật ngữ này xuất phát từ tư tưởng của Macheaveli và Jean
Bodin, và qua dòng chảy của lịch sử đã được các quốc gia Âu
Châu bồi dưỡng khi ký kết Hiệp Ước Wesphalia (1648) để xác nhận
chủ quyền của Thụy Sĩ và Hòa Lan. Việc sử dụng ý niệm này
rất hạn chế trong thế kỷ 17 và phải đợi đến thế kỷ 20 mới
trở thành thông dụng.
Trong Bản Tuyên Ngôn Bangkok năm 1993, một số nước Á Châu đã căn cứ vào ý niệm “chủ quyền quốc gia”
để đòi hỏi phía Tây Phương phải tôn trọng lãnh thổ, không được
can thiệp vào công việc nội bộ và không được sử dụng “nhân quyền” để tạo áp lực chính trị.
Hiển nhiên là tất cả những nguyên tắc dân chủ và tự do nói
trên đều là những sản phẩm của văn hóa Tây Phương nhưng đã được
nhóm người bênh vực các giá trị Á Châu đem ra sử dụng một
cách lạ kỳ. Lạ kỳ ở chỗ trong khi họ đả kích dữ dội các ý
niệm về nhân quyền thì họ lại trân qúy một cách quá đáng ý niệm chủ quyền quốc gia.
Họ không hiểu rằng sự phát triển của ý niệm chủ quyền quốc gia và ý niệm nhân quyền là sự phát triển song hành. Không những thế, giữa hai ý niệm đó còn có ba mối liên hệ mật thiết.
Thứ nhất, quy chế bình đẳng và độc lập của chủ quyền
quốc gia trong sinh hoạt quốc tế, chỉ là sự quảng diễn của
cùng một loại quy chế ban cho nhân quyền trong sinh hoạt giữa con
người và con người. Nếu nguyên tắc chủ quyền quốc gia được
đặt ra để bênh vực những quốc gia nhỏ yếu chống lại sự đàn
áp và hà hiếp của các quốc gia lớn mạnh hơn, thì cũng chẳng
khác gì trường hợp nguyên tắc nhân quyền được đặt ra để bênh
vực những cá nhân và tập thể nhỏ bé chống lại sự lạm dụng
của các lực lượng xã hội lớn mạnh hơn. Cả hai ý niệm đó đều
nhằm tái phân phối sự bất bình đẳng về quyền lực.
Ngày nay khi giá trị của ý niệm chủ quyền quốc gia dần dần
trở thành lỗi thời thì những nước bị hội chứng thuộc địa ám
ảnh vẫn chưa theo kịp đà tiến hóa của tiến trình thay đổi
này. Lạ kỳ hơn nữa là khi sử dụng ý niệm chủ quyền quốc gia
để lưu ý các nước Tây Phương không được hà hiếp các tiểu quốc
đang phát triển, thì chính các tiểu quốc này lại dùng ý niệm
đó như một chiếc lá chắn để tự do vi phạm quyền của con dân
trong nước họ. Làm như vậy không chỉ là một sự vi phạm luân lý
mà còn hạ thấp tư cách và trình độ văn minh của giai cấp
lãnh đạo quốc gia họ trước mắt cộng đồng thế giới.
Thứ hai, nếu xét về phương diện chức năng thì nhân quyền
còn bổ túc cho chủ quyền. Thật vậy, trong thời kỳ Trung Cổ,
cá nhân chỉ sống và phụ thuộc vảo quyền hành của những đơn
vị dân cư nhỏ như bộ lạc, xóm làng... Sang thời hiện đại,
những cấu trúc xã hội này bị loại bỏ để nhường chỗ cho Nhà
Nước. Chính vì có sự thay đổi này mà Nhà Nước nắm trong tay
một quyền lực quá lớn, đã đe dọa nhân quyền. Trái lại, cá
nhân chỉ có tay không nên khó có thể bảo vệ những quyền tự do
bẩm sinh của chính mình.
Vì thế, người ta nghĩ ra ý niệm nhân quyền để trang bị
cho cá nhân phương tiện tự bảo vệ hầu chống lại sự bạo ngược
của kẻ cầm quyền. Đó là một bài học về liên hệ chức năng
giữa hai ý niệm chủ quyền và nhân quyền không thể nào không
biết tới.
Thư ba, giữa chủ quyền và nhân quyền còn có một liên hệ
khác về phương diện luân lý. Về mặt này, người ta đưa ra quan
điểm Nhà Nước không được phép ỷ vào quyền lực của mình để vi
phạm nhân quyền. Trái lại Nhà Nước có trách nhiệm phải bảo
vệ những quyền đó. Trách nhiệm này là trách nhiệm giải phóng
con người khỏi sự quản chế quá chặt chẽ của bộ lạc, xóm
làng, mà Nhà Nước đã được nhân dân giao phó. Cho nên chủ quyền
phải được nhân quyền bổ túc và tăng cường để có chính danh
tồn tại.
*
Chủ quyền có thể mang tính tuyệt đối trong sinh hoạt quốc tế
giữa các quốc gia với nhau để thực hiện bình đẳng, nhưng không
thể được coi như vô giới hạn trong sinh hoạt quốc nội. Từ thực
tế này, có thể khẳng định rằng: không có chủ quyền nếu
không có nhân quyền và can thiệp vào sự đàn áp nhân quyền của
một quốc gia không phải là can thiệp vào việc nội bộ của xứ
này.
Những người muốn làm giảm giá trị của các ý niệm nhân quyền
Tây Phương thường nói rằng: “Thế giới được phân chia thành hai
khu vực văn hóa: khu vực Á Châu gồm các nước Đông Phương và khu
vực Tây Phương gồm các nước Âu Châu và Bắc Mỹ. Cho nên mọi xâm
phạm của bên nào vào lãnh vực văn hóa của bên kia phải được
coi như một “hành động đế quốc văn hóa” và mọi giá trị văn
hóa mỗi bên nêu ra chỉ có giá trị tương đối.
Thật ra, nếu muốn vô tư thì phải nói rằng, thế giới không có
hai hệ giá trị văn hóa ngang hàng Tây Phương và Đông Phương. Nếu
phải so sánh hai nền văn hóa này thì chỉ có thể là sự so
sánh giữa cái “hiện đại” và cái “lỗi thời”. Tây Phương với
sức phát triển về mọi mặt tương trưng cho cái ‘hiện đại”. Còn
Đông Phương với sự tụt hậu về mọi mặt tượng trưng cho cái “lỗi
thời”. Bằng chứng dễ nhận biết nhất là các “giá trị” Á Châu
đã tỏ ra bất tương hợp với các giá trị hiện đại của nhân
loại như nhân quyền và dân chủ.
Kết luận
Cách nhìn và sự lưỡng phân tuyệt đối nói trên không được người
Tây Phương công nhận, vì chủ nghĩa dân chủ tự do với sự nhìn
nhận các quyền dân sự, chính trị và các quyền của thiểu số
không xa lạ gì đối với Á Châu mà trái lại còn phù hợp với
điều kiện của vùng này. Giữa hai chủ nghĩa thật ra không có
bất cứ một tình trạng đối chọi nào như nhiều người tưởng
tượng.
Nhìn vào tình trạng thay đổi hiện nay ở Á Châu, ta thấy sự
phát triển kinh tế đã kéo theo hiện tượng đô thị hóa nhanh
chóng và sự lan tỏa của kinh tế thị trường vào các ngõ ngách
của xã hội. Kinh tế thị trường cũng kéo theo sự phổ biến
việc sử dụng nhân tài, tinh thần thi đua trong mọi lãnh vực, cơ
hội nâng cao giáo dục quần chúng, nâng cao hiểu biết kỹ thuật
và nới rộng hoạt động thông tin. Tất cả những thay đổi đó đều
là những lực phát triển theo hướng hỗ trợ cho tính phổ quát
của cá nhân chủ nghĩa.
Nói như vậy để chứng minh là các dân tộc Á Châu không xa lạ gì
với tiêu chuẩn của tự do nhân quyền trong dĩ vãng cũng như
trong hiện tại và chủ nghĩa tự do không phải là khó chấp nhận
đối với các dân tộc trong vùng./.
Tháng 5 năm 2016