XIN ĐỜI HAI CHỮ TỰ DO
Quảng Hương
Thời gian trôi qua tính cho đến nay cũng đã 30 năm gia
đình tôi đến định cư tại Đức quốc nầy với ý nguyện ra đi lánh nạn Cộng Sản VN
mong cầu 2 chử TỰ DO đựơc đánh đổi bằng cái vô giá của đời tôi. Sau nhiều lần vượt
biên thất baị , bị tình ngừơi gạt
gẫm nhau, sự mất mát tiền của cũng khá nhiều nhưng may mắn cho chúng tôi là
không tổn hại đến nhân mạng mặc dầu chuyến đi cuối cùng đầy rủi ro nguy
hiểm, có lẽ nhờ sự nhất tâm cầu nguyện của mọi người trên tàu lúc bấy giờ nên được ơn trên cảm ứng và đưa
đẩy cho chúng tôi đến bến bờ tự do, nơi đã cho tạm dung trong những ngày
chờ đợi đi định cư đó là đất nước Mã Lai, cái hòn đảo nơi mà không may tàu
chúng tôi laị có duyên với chốn nầy, nên những bạn đồng hành đi trước đã đặc
cho cái biệt danh là:“ Buồn lâu bi đát „ (Pulau Bidong) có lẽ những ai đã sống
qua ở đây đều phải cảm nhận điều nầy.
Tôi cũng xin cám ơn và không quên những ngày tháng lưu
laị đó, nhiều kỷ niệm vui buồn, vất vả, khổ cực nhưng hạnh phúc vẫn tràn ngập
phủ kín tâm hồn tôi vì đã được hít và thở bầu không khí tự do. Sau 9 tháng chờ đợi
đầy thử thách và kiên nhẫn, để đón nhận ngày hạnh phúc nhất của gia đình tôi
lúc bấy giờ là ngày được rời đảo đi định cư
đến một đất nước tự do xa lạ mà tôi chưa bao giờ hình dung đựơc. Chính
quyền và công dân ở xứ Đức nầy đã dang rộng vòng tay, đầy tình thương nhân ái để
đón tiếp chúng tôi, chia xẻ và an ủi như sự đền bù những thương đau mất mát cho
tất cả những nạn nhân đồng cảnh ngộ như tôi vậy.
Kinh nghiệm đau thương của bản thân tôi quá đủ để kinh
sợ và ghê tởm caí chế độ độc tài, hung bạo của bọn Cộng nô, xin ghi lại một
chút kỷ niệm khổ đau mất mát của đời tôi: Đựơc sinh ra và lớn lên nơi kinh đô xứ
Huế, thành phố đựơc nỗi danh thơ mộng, danh lam thắng cảnh nỗi tiếng, nhưng cũng
là nơi xảy ra nhiều biến động tan thương:
„ Sông Hương núi Ngự
mộng thơ
Ai đi cũng nhớ, ai về cũng thương!“
Tuổi thơ của
tôi tràn đầy kỷ niệm đẹp, song thân tôi đã dạy dỗ và uốn nắn con cái trong lễ
giáo nho phong , đã ban cho anh em chúng tôi trọn vẹn yêu thương từ tinh thần lẫn
vật chất, dìu dắt hứơng dẫn cho chúng tôi sống trong đạo đức nhân nghĩa. Nhưng
hạnh phúc và bình an chẳng trôi mãi như thế, năm biến cố Mậu Thân (1968) xảy đến
cho tất cả người con xứ Huế sự chết chóc tan thương đổ nát. Gia đình tôi là nạn nhân của cuộc chiến, Việt cọng xâm
chiếm Kinh thành Huế, gieo rắc tai hoạ giết chết người dân vô tôị, trong đó Ba tôi cũng đã bị
VC thủ tiêu vì kết tội là ngụy quyền, ông ngoại tôi bị pháo kích chết, xung quanh
thành phố Huế có những nấm mồ chôn tập thể của những người dân vô tôị bị Việt Cọng
chôn sống , mà tất cả người con đất Huế là nhân chứng. Sau biến cố Mậu Thân
kinh hoàng đã làm cho những ai đang sinh sống tại xứ sở nầy đều ám ảnh sợ hải mỗi độ giao thừa đón Xuân hằng
năm Tết đến. Mẹ tôi lúc đó chỉ mới 35 tuổi xuân , tuổi còn son trẻ, còn nhiều hứa
hẹn hạnh phúc cho tương lai mà phải hứng
chịu quá nặng nề thương đau mất mát, goá phụ trẻ lại chít trên đầu một giải khăn
tang cho cha, một vành khăn sô cho chồng. Anh em chúng tôi bấy giờ cũng còn
non daị, anh cả tôi mới 16, tôi 15 tuổi đời, là con thứ 2 trong gia đình 10 người
con, và em út tôi chỉ mới 10 ngày tuổi đã phải quấn trên đầu 2 vành khăn tang
cho cha và ông ngoại. Chúng tôi là những trẻ con ngây thơ vô tội, chưa đủ trưởng
thành cứng cáp để lăn lộn với đời mà bọn Việt gian khác máu đã nhẫn tâm cướp mất
người cha yêu qúy của tôi, cần phải sống để nuôi dưỡng bảo bọc đàn con khôn lớn.
Sau khi vắng bóng ba tôi, mẹ tôi vừa đóng vai trò người mẹ lẫn cha , một đời hy
sinh tận tụy cho gia đình chồng con, người đầy nghị lực và can đảm, giáo dục
con cái vuông tròn, anh em chúng tôi luôn đón nhận tràn đầy tình thương lẫn vật
chất. Cuộc đời tưởng chừng luôn hạnh phúc êm đềm, nào ngờ biến cố Mậu Thân chưa
nguôi thì 75 loạn ly mất nước xảy đến, gia đình chúng tôi laị đón nhận thêm sự tổn thương mất mát, nhiều đe dọa về mọi mặt,
Việt cọng đã cướp đoạt tất cả của người
dân miền Nam sự sống và quyền làm người.
. Một
chế độ độc ác, độc tài phi đạo đức, đàn áp tôn giáo , chà đạp nhân quyền , luôn
luôn gieo rắc khổ đau, chết chóc chia lìa cho người dân vô tội, trẻ em nghèo
không có cơ hội cắp sách đến trường , tương lai đen tối mất hết tuổi thơ, các
em chỉ biết hằng ngày mưu sinh bằng những tấm vé số, hay tìm kiếm nơi những đống
rác để độ nhật nuôi thân, những thế hệ trẻ nhiều hứa hẹn tươi sáng cho đất nước
lại không được tiếp nhận văn hóa đầu tư chất xám thì thử hỏi quốc gia đó có được
văn minh tiến bộ hay không?. Việt cọng chỉ muốn thống trị, đè đầu, bóp họng người
dân trong tận cùng cuộc sống, đảng Cộng sản đã uốn nắn con người sống như thời
tiền sử, lạc hậu ngu dốt để dễ bề cai trị!...
Mục đích của chúng là chiếm cho bằng được miền Nam VN,
vì đó là miếng mồi thơm ngon mà chúng từng thèm khác, bất chấp mọi thủ đoạn
gian trá mị dân để chiếm trọn lảnh thổ VN. Sau khi đạt được tham vọng, bọn
chúng dở trò độc ác, dáng xuống cho người dân vô tôị chết chóc, gia đình ly tán, trả thù nghi kỵ lẫn
nhau, nhà cửa tan nát, thành phần cựu Sĩ quan, quân lính, văn võ đều phải đi cải
tạo, có người ra đi chẳng hẹn ngày về. Vợ con của các cựu quân nhân đi cải tạo
phải chịu cảnh thiếu thốn cơ cực, nhiều bà thiếu phụ còn son trẻ hoàn cảnh đưa đẩy phải sang ngang bước thêm một
bước nữa trong ân hận nghẹn ngào. Một số người hốt hoảng chưa chuẩn bị đủ tinh
thần để đối phó thì phải tìm con đường chết để giải thoát cho bản thân hay cả
gia đình, trong đó có một trường hợp đầy bi thảm bàng hoàng của cô bạn thân xấu
số của tôi vì quá khiếp sợ, người chồng không lối thoát trong cảnh tù đày cải tạo,
nên đã vượt ngục về thăm vợ con và cuối cùng chọn con đường kết liễu cả gia đình 2 vợ chồng và một đứa
con vừa đầy 3 tuổi, với một bào thai vài tháng tuổi được che chở trong bụng Mẹ
chưa đủ nhân duyên ra chào đời đã phải chết một cách oan ức, may mắn cho đứa
con 3 tuổi vì nó không chịu nổi cái vị đắng của thuốc rầy đã ói ra nên được sống
sót, mà tôi đã chứng kiến cuối năm 1975, không biết bây giờ cuộc đời em bé nầy
ra sao, mấy chục năm sống dưới chế độ Việt cọng , lớn lên trong một tâm trạng đau
khổ mồ côi cha lẫn mẹ khi vừa tròn 3 tuổi đời , thảm kich nầy tôi chưa từng
nghe thấy dưới chế độ Cọng Hòa VN, tôi cầu mong cho em có một cuộc đời an lạc ấm
no hạnh phúc, đời em đã nhiều bất hạnh mất mát lớn lao rồi. Kế đến một vài
thành phần sa cơ khốn đốn phải tình nguyện đi kinh tế mới. Các nhà kinh doanh tư bản bị đánh tư sản và bắt
buộc kiểm kê tài sản. Gia đình phía bên tôi và bên chồng đều nạn nhân bị đánh tư
sản, nhà cửa bị trưng dụng để làm mậu dịch quốc doanh, Ông nội tôi lúc bấy giờ
cũng đã gần 80 tuổi, mặc dù tuổi già sức yếu vẫn bị đi học tập tại địa phương
vì lý lịch 3 đời chưa sạch, sáng vát ô đi chiều vát ô về, VC đã quy tội Ôn tôi
cũng là ngụy quyền, từ thời Pháp thuộc cho đến chế độ Cọng Hòa, Ôn nội tôi làm chức Chánh tổng tại làng
Dương Nỗ, Phú Vang Huế cũng bị liệt kê làm tay sai cho ngụy, sau một thời gian
ngắn vì lý do sức khoẻ nên được trả về điạ phương, vẫn bị theo dõi. Và đất đai
tài sản bị trưng dụng , cửa hàng của Mệ nội và O tôi buôn bán trước 75 nằm cạnh trụ
sở làm việc của Ôn tôi thời đó cũng bị tịch
thu cho đến bây giờ vẫn không trả laị vì lý do kết tội Ôn nội tôi ăn hối lộ của
dân, nhưng con người Ôn tôi sống rất nhân từ, dân làng ai cũng qúy mến Ôn tôi cả,
họ thường gọi Ôn tôi là bác Chánh Lâm,
Lâm là tên thật của Ôn tôi, hồi đó mỗi khi về làng thăm Ôn Mệ tôi trong
dịp Tết hay làng có đua ghe , trò chơi đua ghe là thông lệ hằng năm được tổ chức nỗi tiếng của làng tôi lúc bấy giờ thường chiếm giải nhất. Xe ngừng đầu ngỏ thì bà con dân làng đều niềm nở
thăm hỏi, nhiều người lại nói vô tư :“a hôm nay cháu nội ông Chánh Lâm về thăm
„đó là những kỷ niệm thân thương thời thơ ấu của tôi, bây giờ đã về với dĩ vảng
để nhớ mà thôi. Thời thế đưa đẩy Ôn tôi trong sự khổ đau bất lực, không có con đường
lựa chọn khác hơn, đau khổ vì biết các cháu của Ôn sẻ âm thầm ra đi tìm TỰ DO,
Ôn tôi rất thương chúng tôi vì ba tôi là người con trai độc nhất của Ôn, nỗi trống
vắng sợ hãi mất con đã qua rồi đến sẽ xa cháu thuờng hiển lộ trên nét mặt và
ánh mắt của Ôn. Tôi vẫn còn nhớ mãi câu hỏi của Ôn:“ mấy đứa con bỏ Ôn mà đi thôi à„. ruột tôi lại thắc mỗi khi nghe đến. Có lẽ sự
cô đơn, tủi thân tuổi già, thiếu tình thương an ủi của con cháu, sống trong tuyệt
vọng nên Ôn tôi ngả bệnh nặng và đã ra đi
theo lẽ vô thường, mà giờ phút cận tử đó không có mặt các cháu để nói lời vĩnh
biệt. Ngày đau buồn của chúng tôi nhất là khi chuyến vượt biên bị thất bại ở
Phan Thiết, vừa chạy thoát về đến nhà lúc 6 giờ sáng và ngay sau đó được hay
tin Ôn nôị chúng tôi đã vĩnh viễn ra đi để về cõi Phật rồi, chị em chúng tôi lập
tức mua vé máy bay từ phi trường Tân Sơn Nhất bay thẳng đến phi trường Đà Nẳng,
hồi đó phi trường Phú Bài Huế chưa hoạt động nên chúng tôi dùng xe ra Huế để thăm viếng nhà Ôn
tôi, đứng trước bàn thờ lạy di ảnh của Ôn lòng buồn vô tận, có lẽ đây cũng là sự
toại nguyện cho Ôn đựơc con cháu về thắp nén nhang lần đầu và cũng là lần chót
trước khi rời khỏi nơi chôn nhau cắt rốn. Chúng tôi lai chuẩn bị khăn gói trở
laị Sài Gòn lo cho chuyến vượt biên sắp tới, sự chia ly nào cũng đánh đổi bằng
nước mắt, ba mẹ chồng và mẹ tôi cũng đau xót khi phải từ giả con cháu, cố nén
thương đau, chỉ cầu mong sao cho chúng tôi được bình an đi đến nơi đến chốn. Chấp
nhận ở laị sau để làm hậu cứ cho chúng tôi nêú chuyến đi bất thành trở về vẫn
có nơi chở che cho gia đình mấy chị em tôi. Mặc dầu sự ra đi đổi cái giá qúa đắt
được trả bằng xương máu và nước mắt, nhưng chúng tôi không ân hận do dự chút
nào cả, kinh nghiệm đau đớn cho gia đình cha mẹ 2 bên của tôi là lý do thôi
thúc chúng tôi bỏ nước ra đi, lựa chọn 2 chữ TỰ DO quá lớn lao vô giá để đánh đổi
nó .
Cuối
cùng thì vợ chồng con cái tôi cùng mấy người em tôi, với hơn 60 ngừơi trên chiếc
tàu mong manh rất may mắn đã đến bờ tự do bình an, cũng ngậm ngùi đau xót cho
những người xấu số không may bỏ mình dưới lòng đaị dương. Đất nước và ân nhân Đức
đã dang tay đầy tình thương nhân aí đón nhận vào xứ sở họ, lo lắng, cưu mang và
chia xẻ ấm no cho chúng ta trên khắp mọi miền Đức quốc, để có được ngày hôm
nay, sau 30 năm an cư lạc nghiệp cho chính chúng ta và thế hệ con cháu sau này
trên xứ người cũng thành đạt, đóng góp vào mọi ngành nghề, sánh vai cùng với người
bản xứ để tô đẹp thêm cho đời trên đất nước Tự Do, không cô phụ lòng ưu ái cưu
mang của đất nước này.
Chúng
ta vì lý tưởng tự do, phản đối sự cai trị sai lầm ngu dốt của đảng Cộng sản VN
nên chọn con đường lánh nạn Cộng Sản chứ không vì cơm aó để ra đi. Đây là lý do
mà con dấu ấn đó đã khắc mãi trên con người của chúng tôi 4 chữ TỴ NẠN CỘNG SẢN
.Có một số người cũng bỏ nước ra đi trong thời điểm nầy, bán sống bán chết tìm
mọi phương tiện để ra đi trốn thoát nhà tù cai trị VC, vợ kêu khóc vì chưa thấy
mặt chồng trên chiếc tàu, chồng kêu vợ nhanh chân kẻo bị bỏ laị ở quê nhà, may
mắn được đến bờ tự do, lòng nhân đạo của các nước Tây Phương ở đây đã thương
xót cho số phận đi tìm tự do, nên được chấp nhận cho vào an cư lạc nghiệp ở mọi
đất nước tự do nầy, sau mấy mươi năm yên ổn ở xứ người, đã làm ngơ với hiện taị,
mau chóng quên dĩ vãng đau thương bỏ nước ra đi của mình, đã vô tình tiếp tay
làm giàu trục lợi cho VC, qua về VN như là một bổn phận cao qúy, hảnh diện với
những công việc mà họ cho là đã làm lợi cho đất nước VN. Chưa kể một số người
Việt tỵ nạn đem tiền về để hưởng thụ vội vả như để trả thù một đời culy cực nhọc
trên Quê Hương thứ 2 của họ, thật đau buồn cho việc làm thiếu sáng suốt của ai đó
đã vô tình như tiêm những liều thuốc độc vào cho các mầm non tuổi trẻ của quê
nhà đang sống thoi thóp chờ ngày hấp hối vội vả vĩnh biệt cỏi đời nầy.
Chúng tôi có duyên với xứ sở Đức, một đất nước tôi
không chọn mà đến, cũng xa lạ bỡ ngỡ cho chúng tôi bước đầu. Nhưng theo thời
gian cái gì cũng qua thôi, vạn sự khởi đầu nan, dần dần mọi thứ khó khăn ban đầu
cũng cố gắng khắc phục, từ từ hội nhập vào đời sống sinh hoạt tại đất nước nầy.
Giờ đây cũng là dịp đánh dấu kỷ niệm 30 năm hội ngộ của tất cả người dân Việt tỵ
nạn Cộng Sản trên mọi miền đất nước nói chung và vùng tam biên Bodensee nói
riêng. Ngày đánh dấu cho sự trưởng thành lớn mạnh của cộng đồng người Việt tỵ nạn
Cộng sản chúng ta, cơ hội gặp gỡ laị những đồng bào thân thương, xa gần, để nhắc
nhở cho chúng ta và thế hệ con cháu chúng ta đừng bao giờ quên những kỷ niệm khổ
đau, tủi nhục, chia ly mất mát, hy sinh xương máu của cha ông chúng ta để đánh đổi
2 chữ TỰ DO. Để đánh thức cho những ai đã ngủ quên vì lý tưởng ra đi của mình,
và nhắc nhủ cho con em chúng ta vì sao chúng ta có mặt ngày hôm nay trên các đất
nước TỰ DO nầy. Đây cũng là cơ hội để chúng ta nói lên sự trân qúy và tri ân những
đất nước và công dân của các xứ sở nầy đã cưu mang và chia xẻ cho tất cả chúng
ta để có được ngày hôm nay.
Quảng Hương
NIỀM ĐAU QUÊ HƯƠNG
Thơ Quảng Hương
39 năm TỰ DO nơi xứ lạ
Hạnh phúc bình an chạnh lòng nhớ
Quê hương tôi sao vẫn đoạ đày !
Đến bao giờ được sánh cùng ai ?
Nhìn quê người, khát khao hổ thẹn
Cho quê mình sao lắm khổ đau ,
Tự do đó , ngục tù tăm tối ,
Vẫn đời đời nô lệ hay sao !!!
Cuộc sống dân lành như câm điếc ,
Mất hết tương lai cả tuổi thơ ,
Bước lầm lũi đi vào ngỏ cụt ,
Cơm đâu có ấm lòng no dạ
Aó rách sờn nát, lạnh xương da .
Kiếm qua ngày cơm thừa , canh cặn ,
Đâu dám mơ tưởng chút cao xa ,
Đời em mộng thường như thế đó !
Vì đâu số phận mãi cơ hàn .
Cầu mong vận nước sớm đổi thay ,
Đạo đức công bằng là chân lý ,
Cho người con Việt được ấm no ,
Dân chủ thực sự trong TỰ DO ! ..