Hạt sương khuya (Danlambao)
- Trong nhiều năm qua, tôi có dịp đi khắp đó đây, tham gia rất nhiều
các chương trình văn nghệ đấu tranh. Từ biểu tình, đến hội thảo, lễ
tưởng niệm 30 tháng 4, cũng như những buổi lễ tưởng niệm các vị anh hùng
dân tộc. Thật lòng tôi rất đau buồn khi nhìn cảnh người ngày càng lưa
thưa. Có những hội trường chỉ nhìn thấy ghế, không thấy người. Nguyên
nhân của vấn đề cần có cái nhìn sáng suốt, bình tĩnh để tìm ra một giải
pháp tốt đẹp.
Ở đây tôi không có ý “trách hờn” hoặc nhắm vào bất cứ cá nhân hay tổ
chức nào, mà tôi cho rằng đây là trách nhiệm chung của mỗi người chúng
ta. Sự việc này đã khiến tôi trăn trở và đắn đo rất nhiều trước khi nói
đến, vì tôi hiểu hơn ai hết những vấn nạn trong “cộng đồng”, mà trong đó
là cả một chính sách thâm độc ở đằng sau của ngụy quyền cộng sản luôn
manh nha thâu tóm cho bằng được mọi quyền lực nằm hết trong tay chúng.
Xin đừng vội cho rằng tôi coi thường trí tuệ của cộng đồng. “Cẩn tắt vô
ưu”. Nếu chúng ta không đủ sáng suốt, bình tĩnh... thì chính sách văn
hóa vận của chúng sẽ tràn ngập một cách tinh vi, qua những chương trình
văn nghệ “hấp dẫn” với những giải thưởng giọng ca vàng, xanh, đỏ, tím...
khi kịp nhận ra thì hỡi ôi, rách thêm một đống việc. Chưa kể những
chương trình từ thiện mang tính cách “danh chính, ngôn thuận”, đến lúc
ấy chúng ta sẽ mất đi cái chính nghĩa khi phản đối việc làm rất “ cao
cả” ấy. Đó là chưa kể đến biết bao hệ lụy... phân hóa hay bất hòa cũng
từ đó mà ra.
Cách đây hơn 30 năm... lúc ấy tôi còn trẻ, còn nhiệt huyết, còn sức
khỏe, có cơ hội đi đây đó để tham dự những buổi “Đại nhạc hội” được tổ
chức trong những ngày tết hoặc vào những ngày tháng “Tư Đen”. Tôi còn
nhớ giai đoạn đó, tâm trạng những người lưu vong rất khao khát khi có
dịp ngồi lại với nhau để hàn huyên, để nhắc lại câu chuyện thuyền nhân
hay những tháng ngày ngồi nhớ nhà bên bờ biển Palawan, Pulau Bidong,
Singapore... hôm nào.
Khoảng đầu thập niên 80, tinh thần đấu tranh của đồng bào hải ngoại lên
rất cao. Vào thời điểm ấy, các phong trào Đông tiến đang làm nức lòng
những người con xa xứ, sống ly hương nhưng lòng vẫn muốn quay về Đất Tổ.
Những Ca khúc lưu vong, Ca khúc đấu tranh đã khơi lại vết thương lòng
của những người bỏ nước ra đi. Tôi nhớ hoài hình ảnh chị Nguyệt Ánh và
anh Việt Dzũng trong bộ đồ bà ba đen. Từ “Phục Quốc Quân”, đến “Dưới
Ngọn Cờ Phục Quốc”, hay “Tiếng Hát Em Thơ” cho đến “Tôi Muốn Về Diệt
Cộng” v.v... Tất cả những ca từ ấy đã theo tôi suốt chặng đường lưu
vong, hun đúc trong tôi một tinh thần bất khuất, quyết không khoan
nhượng, không làm ngơ trước cảnh non sông đang chìm dần trong nỗi đau
trầm uất. Để từ đó tôi biết chọn cho mình một hướng đi vững chắc, lấy Tổ
Quốc-Danh Dự- Trách Nhiệm làm kim chỉ nam soi đường, dù gian nan, dù
nhục nhằn, trong tôi luôn có Hồn Thiêng Sông Núi đi cùng.
Những năm tháng ấy, văn nghệ có thể nói là một món ăn tinh thần hiếm
quý. Do hoàn cảnh sống của người Việt tị nạn lúc bấy giờ, phần vì lo
miếng cơm manh áo, lo sống hội nhập với người dân bản xứ, ít khi có dịp
rảnh rỗi để có thể tổ chức văn nghệ thường xuyên như bây giờ. Vì thế mỗi
khi có chương trình “Đại nhạc hội”, mọi người khắp nơi đổ về, con số
đôi khi lên cả mấy ngàn. Mặc dù lúc ấy chỉ có những bài hát đấu tranh
hay những ca khúc lưu vong làm tim thổn thức, nhưng tình đồng hương,
nghĩa đồng bào thật ấm áp bên những ca khúc đầy “máu lệ”.
Sau 30 năm... những ca khúc ấy giờ chỉ còn là một dấu ấn xa mờ. Rồi
những ca khúc mới ra đời, nổi trôi theo cùng vận nước. Sài Gòn không còn
“một lần đi là một lần vĩnh biệt”, cuộc sống không còn là những khát
vọng của một lần quay về. Rồi chính sách mở cửa để cứu nền kinh tế đang
sắp đưa “cả nước xuống hố” ra đời, những “đĩ điếm” ngày nào bỗng chốc
trở thành những “khúc ruột ngàn dặm”. “Thành phố Hồ Chí Minh” mở cửa
“hân hoan” chào đón những bước chân lưu vong hôm nào, thèm khát quay về
dù đôi chân tị nạn vẫn còn in hằn những vệt máu khô, liêu xiêu bước trên
nấm mồ quá khứ, phản bội lại chính mình để rồi sống hồn nhiên như chưa
từng có một lần thề thốt trên ngôn từ của hai chữ Tự Do.
Nghị quyết 36 cứ thế mà thẳng tiến, lằn ranh Quốc-Cộng chỉ còn là dấu
chấm hỏi một khi hai chữ “Việt kiều” được gắn huy chương “ áo gấm về
làng” sáng chói như một đại gia của thời “mở cửa”. Thương cho “Một Lần
Đi”, đau cho “Ngày Quật Khởi”, khóc cho lời thề dưới “Lá Cờ Thiêng”. Tất
cả giờ chỉ còn là những tiếng than vô vọng. Tìm lại dấu vết xưa, chợt
nghe hồn thổn thức những cảm xúc của một thời tị nạn, ăn gạo chợ người
nghe thèm bát cơm quê Mẹ, dù chỉ là một con khô của những ngày “con nước
kém”, nhưng sao đậm đà mùi biển mặn quê hương.
Chủ nghĩa Cộng sản sụp đổ tại Đông Âu, nước Đức thống nhất. Nghĩa đồng
bào lại một lần nữa được người Việt tị nạn Cộng sản giang đôi tay cứu
giúp. Biết bao vấn nạn như cơn thác lũ tràn về cuốn trôi “niềm tin và
hy vọng”. Cũng giọng nói Việt Nam, cũng máu đỏ da vàng, nhưng sao xa lạ
quá. Rồi tất cả đổi thay, chẳng ai buồn khóc cho một lần đi là một lần
vĩnh biệt. Sài Gòn-Paris, Sài Gòn-Luân Đôn, Sài Gòn-Frankfurt, Sài
Gòn-Cali, hay Sài Gòn-Sydney, chỉ cần tung “cánh chim” là tìm về “tổ
ấm”. Khát khao đã chết, niềm tin vỡ vụn, hạnh phúc xói mòn.
“Đại nhạc hội” không còn nghe tiếng khóc của “Một Lần Đi”. “Một Chút Quà
Cho Quê Hương” không còn là cái kim, sợi chỉ. Người ta bắt đầu thổn
thức với “Quê Hương là chùm khế ngọt”, ôi những trái khế không chỉ trả
bằng vàng mà phải trả bằng máu và nước mắt của những thân phận khốn cùng
sống vất vưởng trên một quê hương đầy những hận thù và dối trá.
Có sống qua những tháng ngày đau thương ấy, mới cảm nhận được những mất
mát hôm nay. Có lẽ chỉ có thế hệ của tôi trở về trước, mới thấm thía sự
xâm thực về mặt văn hóa nói chung, âm nhạc nói riêng một cách tinh vi từ
nhà cầm quyền Việt cộng qua chính sách “Hòa hợp, hòa giải” mà đành bất
lực, bởi “há miệng” sẽ bị đập ngay cho một gáo nước lạnh về tội “chia rẽ
tình đoàn kết dân tộc”. Ngẫm lại mà rơi nước mắt, cộng đồng hải ngoại
bốn mươi năm đấu tranh là vì sao? Bốn mươi năm với những kiến thức “hội
nhập” đủ để người Việt hải ngoại hiểu được những gì họ đang làm là đang
lội ngược dòng với cuộc sống “hưởng thụ” cho chính bản thân mình. “Tiên
trách kỷ, hậu tránh nhân”... nhìn lại những buổi văn nghệ hay đại nhạc
hội được tổ chức trong những năm gần đây, tôi tự hỏi: Có phải chính
chúng ta đã quá thờ ơ, quá dễ dãi với bản thân, hay vì chúng ta thiếu
trách nhiệm? Tôi đã phải kêu trời không thấu khi nhận lãnh “điều hợp”
một chương trình với những chủ đề rất lớn, nhưng nội dung thì hỡi ơi...
TÔI MUỐN KHÓC. Xin hãy tha lỗi cho tôi, ở đây tôi không vơ đũa cả nắm và
cũng không có ý chỉ trích bất cứ hội đoàn hay một cá nhân nào, mà chính
tôi cũng đang chửi rủa bản thân “nhu nhược” của mình trong cách hành
xử, khi buông xuôi và chấp nhận như một điều tất yếu.
Chúng ta không thể hát cho Tù Nhân Lương Tâm, những người Dân Oan, những
buổi tưởng niệm hay những chủ đề về “Tuổi trẻ và cội nguồn dân tộc”
bằng những ca khúc “Đừng xa em đêm nay, Lại gần hôn em v.v...”, rồi sau
đó dập dìu trong những điệu nhảy “bốc lửa”. Thú thật là tôi rất đau lòng
dù đã được nghe giải thích từ ban tổ chức rằng: “Phải có nhảy đầm thì
mới có khách tham dự”. Tôi không phủ nhận cái nỗi khổ tâm của ban tổ
chức, nhưng cách làm việc đó sẽ để lại cái hậu quả là... chính chúng ta
đang nuôi dưỡng một thói quen làm mất đi giá trị không chỉ về mặt “đấu
tranh tâm lý” mà cả về hình thức “Văn hóa, Nghệ Thuật” cũng bị xói mòn
bởi cái lợi trước mắt mà cái di hại về lâu dài nó ngấm ngầm một cách
tinh vi không thể cảm nhận được.
Ngày nay, văn nghệ không còn là một nhu cầu để nuôi dưỡng “tinh thần”
cho những người Việt lưu vong, nó đơn thuần như một thói quen “tâm lý”
vô thưởng vô phạt, nhưng vô hình chung lại là cửa ngõ để chính sách “văn
hóa vận” của nhà cầm quyền xâm nhập một cách vô thức. Nhìn trên khía
cạnh nghệ thuật, “đa số” cho rằng nghệ thuật phi chính trị. Điều này với
tôi chỉ đúng ở những tâm hồn yêu chuộng và hiểu giá trị đích thực của
nghệ thuật. Một khi rơi vào bàn tay của kẻ tham vọng, thì nghệ thuật sẽ
được khai thác tối đa cho mục tiêu tối thượng. Có lẽ đã đến lúc “chúng
ta” cần quan tâm hơn trên lĩnh vực “Âm Nhạc”, vì đó chính là vũ khí một
khi bắn đi sức mạnh sẽ hơn ngàn quả đạn bom, những câu nệ hình thức,
những hơn thua tranh chấp chỉ làm cho cuộc đấu tranh trở nên mất chính
nghĩa và phải đắc tội muôn đời với Tiền nhân. Xin hãy vì cái chung, dẹp
bỏ đi cái tôi nhỏ nhoi riêng lẻ ấy, để thấy sức mạnh “hợp quần” sẽ là
thành trì vững chắc, không có một thế lực nào có thể xâm nhập và phá
hoại.
Tôi đang cố gắng để thoát ra khỏi cái vòng “lẩn quẩn”ấy. Dù biết rằng
gian nan, và sẽ rất cô độc trên con đường vắng bóng “tha nhân” này. Sau
lưng có thể là những giọng cười “mai mỉa”, nhưng tôi chấp nhận làm một
kẻ quê mùa đi tìm lại quá khứ bị ruồng bỏ bởi thời gian. Tôi níu kéo,
tôi vụng dại vì tôi sợ sẽ đánh mất cái còn lại của riêng mình. Bởi tôi
biết, nơi này chỉ là đất tạm dung, tôi được đón nhận bởi sự bao dung của
những tấm lòng nhân ái, nhưng tôi biết tôi là ai, tôi từ đâu đến.
Bốn mươi năm nhìn lại chỉ để ngậm ngùi thêm cho những kiếp người hoài
đời đi tìm một lẽ sống mới cho dân tộc. Những nhiệt huyết hôm nào; giờ
chỉ còn là những tháng ngày nhìn qua song cửa chờ hoàng hôn tắt lịm. Nỗi
đau của một thân phận thì có sá gì, nỗi đau của một dân tộc mới là điều
đáng nói. Hãy ngủ yên đi những cội mai già chết trong một chiều đông
giá, những nấm xương tàn chôn vùi nơi xứ lạ rồi đây cũng sẽ biết tìm
đường để về lại chốn xưa, hãy thanh thản như một cuộc rong chơi của kiếp
người, bởi hạnh phúc cây đời đâu phải để dành riêng cho những trái tim
suốt phận người chỉ biết cặm cụi cho lẽ sống của một dân tộc triền miên
trong thù hận.
Paris 25-11-2015
PS: Kính nhờ trang nhà Dân Làm Báo giúp Hạt sương khuya phổ biến chương trình “Khúc Tù Ca- Hát Cho Việt Khang”
do tôi cùng nhóm anh em Vọng Trùng Dương tổ chức. Xin hãy đến để chia
sẻ với một người con đất Việt, người đã khiến chúng ta thức tỉnh trước
sự mất còn của dân tộc. Đến để nghe Kiều Thu trải lòng mình trong ca
khúc “Viễn Khúc Việt Nam”. Đến để nghe Thanh Xuân ray rức với “Những đứa
con của Mẹ” và cho tôi được chia sẻ với những người con của Mẹ Việt Nam
trong những Khúc Tù Ca đầy máu lệ. Xin chân thành cảm ơn trang nhà Dân
Làm Báo đã giúp tôi chia sẻ những cảm nghĩ của mình đến với Đồng Bào
khắp nơi trên thế giới. Xin hãy giúp tôi hoàn thiện bản thân mình để
sống xứng đáng làm người Việt Nam bất diệt.