Kết quả Giải Dân Báo “Cộng Sản & Tôi” là bằng chứng hùng hồn đáng chúc mừng nhất!
Nguyễn Thị Thanh Bình (Danlambao)
- Tình trạng phát ngôn tỏ dấu vui mừng, hoặc “buồn ơi chào mi”, khi đã
lịch sự chờ được gạch tên “mời” ra, hoặc tuyên bố rũ bỏ muộn còn hơn
không với Hội Nhà Văn VN của những nhà văn, nhà thơ tiếng tăm chân chính
đang đến hồi bị thương tổn, và hứa hẹn một thái độ tự trọng từ chối
những xúc phạm có hiệu ứng cánh bướm, hẳn nhiên bỗng làm chúng ta liên
tưởng đến những khước bỏ của những đảng viên CSVN phản tỉnh cách đây
không lâu không hẳn vì tính rầm rộ của nó, mà có thể vì họ là những
khuôn mặt trí thức được chú ý và vì “tư tưởng lớn gặp nhau” với cố luật
sư Lê Hiếu Đằng cuối đời trên giường bệnh bỗng kịp tỉnh ngộ.
Thì cũng chính bây giờ nơi sân chơi này, coi như cũng khá ồn ào sinh
động, thử ví như bằng chứng của những-lá-phiếu-nhân-dân kiểu mới, chúng
ta đã có dịp mở đường làm thành một cuộc lên tiếng thi viết vạch trần
mãnh liệt, được nhiều đáp ứng tâm đắc của một câu trả lời dứt khoát, cái
dứt khoát đến từ những con chữ mạnh mẽ thương đau gói trọn từ những số
phận của toàn dân, chứ nào phải là một cuộc dân ý ở những thùng phiếu
định mệnh tự do. Đó là: “Sự chịu đựng của Cộng Sản và Tôi dưới ách 85 năm, 40 năm đã quá dài quá đủ quá ngập ngụa!”,
và vì thế không dưng chúng ta bỗng trở thành một tập hợp, một kết nối
được những ngòi bút nhân bản cả trong và khắp nơi trên toàn thế giới yêu
chuộng tự do cùng hội ngộ, nhất quyết cho một nền báo chí Việt Nam độc
lập trung thực, tôn trọng sự thật và khinh bỉ những thứ văn nô, báo nô,
bồi bút. Xin lỗi, không ai có thể khai trừ, xóa sổ tên của bạn khi chính
bạn đã tự chọn được đứng riêng, mạnh dạn tách riêng bất cứ một guồng
máy công cụ nào của Đảng CSVN, và độc lập trong những sinh hoạt với
những trái tim cùng chí hướng. Xin hãy vì khát vọng Tự Do của đất nước
này, những con người được mệnh danh là ngòi bút trí thức, hãy bằng những
ngọn gió ngạo nghễ rũ bỏ nốt những tàn tích phế thải không khá nổi của
những lập trình robot quốc doanh.
Hầu hết những người viết đã có lòng tham gia đều thấy mình được viết
thực sự như những nhu cầu giải tỏa nội tâm đã bị dồn nén ức chế quá lâu,
và họ đã viết bằng cả con tim xúc động, bằng cả tấm lòng dàn trải thôi
thúc nên rất dễ đi sâu vào tâm tư người đọc. Do đó, họ không cần phải tự
đặt hay oằn lên vai mình một thiên chức to tát nào cả, nhưng độc giả
vẫn cảm được bằng ý thức trách nhiệm lương tâm tôn vinh sự thật, nhất là
sự dũng cảm trong tinh thần được viết thẳng, nói thẳng mà không sợ bị
lưỡi hái răn đe nào của chế độ độc tài cản trở hay kiểm duyệt, và cũng
như bất cứ một tước đoạt sẽ trù dập bổ xuống.
Nói chung theo nghĩa dân dã của chốn giang hồ hệ lụy, họ là những người
viết đích thực can đảm có sức chơi sức chịu, tuyệt nhiên không muốn dính
dáng gì đến những chi hội của cơ quan công cụ chính phủ “quang vinh”
này
Tại sao viết và cần viết, cần đi nói cùng thế giới sự thật
Các bạn, tất cả những cây viết “xuất thần” đã có mặt hôm nay nơi đây, và
chắc hẳn không thể không có mặt ở những tháng ngày chưa yên nguôi sắp
đến, kể cả những người viết chưa có cơ may được trình làng lần này vẫn
sẽ hứa hẹn một điều: Trong tay chúng ta chẳng có gì, ngoài gia tài trí
tuệ kếch sù của một ngòi bút, một bàn viết vẫn luôn phủ đầy bóng tối đe
dọa rình rập nhưng không thể bẻ gãy hết những đường phím, vì còn muốn
được vươn tới như một công dân toàn cầu, và tự nhủ không ai có quyền
trấn đoạt nổi thứ tiếng nói được xem là đệ tứ quyền của nhân loại.
Chúng ta sẽ phải tiếp tục viết, và giá gì chúng ta đều thấy mình phải
viết trong tinh thần dấn thân trọn vẹn, như lời của nhà thơ bất khuất tự
do Phùng Quán: “Bút giấy tôi ai cướp giật đi. Tôi sẽ dùng dao viết văn lên đá.”
Và khi chúng ta đã chọn lựa được viết trong một tâm thể như thế, như với
gần cả trăm tác phẩm choáng ngợp những cảnh đời, những ưu tư thời cuộc,
những kinh nghiệm sinh tử của một giai đoạn lịch sử, những cách nhìn...
đã quyết liệt phô bày, đăng tải được dịp trở về đậm nét trong tâm trí,
chúng ta thấy rõ chính mình cũng đã góp công làm đánh động vào lòng
người hơn bao giờ hết, đánh động vào cộng đồng thế giới nếu một ngày gần
đây có anh chị em nào trong chúng ta muốn liên lạc vận động thành lập
Ban Dịch Thuật, chắc chắn chúng ta sẽ thực hiện được ý định đem “triển
lãm” cùng thế giới toàn bộ những hình ảnh này, để mang tặng Đài Tưởng
Niệm Nạn Nhân CNCS ở Washington D.C, nơi đó chính Tổng Thống George Bush
trong ngày thành lập năm 2007, nhân đúng vào dịp 20 năm, ngày mà cố
Tổng Thống Ronald Reagan đứng đọc diễn văn bốc lửa, kêu gọi “Hãy phá đổ
bức tường này!” trước Bức Tường Berlin, cũng đã rất tán đồng, ủng hộ cao
kiến này. Như thế, những câu chuyện lịch sử được kể lại như trong cơn
mộng du, ác mộng sẽ có cơ hội nhắc nhở tội ác phản nhân loại của Cộng
Sản với thế giới và để lại một bài học đích đáng cho thế hệ mai sau, nên
điều này có đánh động vào lòng địch (vận) hay không cũng chẳng quan
trọng, vì nằm ngoài mong mỏi còn hòng thay đổi những ý nghĩ sám hối muộn
màng của ai kia.
Cảm tạ và còn mãi những tấm lòng
Một lần nữa xin được cảm tạ nhau, cảm tạ ơn đời đã cho những trái tim
cùng một nhịp đập giống nòi được gặp gỡ, hạnh ngộ được tích cực hưởng
ứng đóng góp cùng gởi gấm. Của quý bạn, quý BGK, và quý BTC, cũng như
quý bảo trợ viên đã là những viên gạch vững chãi đầu tiên để xây dựng
tinh thần Giải Thưởng Dân Báo “Cộng Sản và Tôi” và những kỳ vọng
được tiếp nối của những “cuộc chơi”, cuộc hành trình rong chơi vẫn còn
dài, và không kém phần linh động, lay động trên một sân chơi vốn dĩ cởi
mở, thách đố phản biện và đối thoại, phấn đấu vinh danh báo chí Tự Do
như Danlambao. Ở đây phải kể là những ủng hộ tinh thần lẫn vật chất, với ước mong nên tiếp tục của nhà văn Cao-Đắc Tuấn,
cũng như của nữ độc giả ẩn danh ở Canada hôm nào đã động viên cả hai
mặt, kể cả niềm mong mỏi cần đi tới, và còn vô số những độc giả vừa thầm
lặng vừa chia sẻ, lẫn bằng hữu bà con xa gần luôn tìm cách cổ võ, và
sẵn sàng “đối mặt” giùm với những kẻ vô hồn vô lối DLV.
Trong đó, những hỗ trợ mới nhất sau đây xin được ghi nhận:
- Dược sĩ Nguyễn Mậu Trinh, ngoài Giải Khuyến Khích 100$
US hôm nào, còn xin đóng góp thêm 250$ US, mà BTC xin gọi là Giải Khuyến
Khích Đặc Biệt, để dành tặng Mục Sư Nguyễn Trung Tôn.
- Bác sĩ Nguyễn Quốc Quân, bào đệ của B/S Nguyễn Đan Quế, có nhã ý đóng góp 250$ US vào những Giải Khuyến Khích.
- Nhà văn Uyên Thao sẵn sàng nhịn thuốc lá tặng một Giải
Khuyến Khích 100$ US, và dĩ nhiên cũng rất vui lòng lãnh trọng trách
hoàn thành “Tuyển Tập Giải Dân Báo: Cộng Sản và Tôi”, do chính nhà xuất
bản Tiếng Quê Hương của mình in ấn và phát hành.
- Kỹ sư T. Nguyễn ở Florida tặng thêm một Giải Khuyến Khích 100$ US.
- Cuối cùng nhưng không kém phần nhiệt liệt ủng hộ, đại diện nhóm New Hope, Tuổi Trẻ Dấn Thân của cựu tù nhân lương tâm Trương Quốc Huy cũng hết lòng đóng góp 450$ US cho chương trình, vào lúc BTC cần đáp ứng nhu cầu tăng cường khích lệ đội ngũ dự thi.
Và bây giờ như một chọn lựa ngẫu nhiên, khá thích hợp, cuộc công bố kết
quả Giải Thưởng này được rơi đúng vào thời điểm của những gặp gỡ xoay
quanh những đối thoại nhân quyền vừa được mở ra, đánh dấu Ngày Nhân
Quyền cho Việt Nam năm thứ 21, được cựu Tổng Thống Bill Clinton ký thành
Đạo luật, chọn 11/5 mỗi năm để kỷ niệm, và với bà con đồng hương Thủ Đô
Hoa Kỳ vẫn còn nặng lòng với quê hương thì người người thi nhau có mặt ở
Quốc Hội, và cùng dẫn đầu một phái đoàn nhân sĩ của B/S Nguyễn Quốc
Quân vào Bộ Ngoại Giao, mà hồ sơ Nhân Quyền của VN vẫn cứ dày cộm, cũng
như đề tài “CS & Tôi” chắc đến khi nào cạn vơi và không còn gì để
nói để tồn tại, thì chúng ta mới thấy được bóng dáng Tự Do, Dân Chủ
chăng.
Kết quả:
Vì nhận thấy kết quả chênh lệch quá suýt soát, BGK đành không chọn được
Giải Khôi Nguyên, nên phải chia thành hai Giải Nhì. Do đó, chúng ta xin
chúc mừng “3 Khôi Nguyên” trong một nghĩa nào đó, đã cùng dẫn đầu cuộc
thi đầy ý nghĩa hào hứng này.
Ở đây xin tạm mở vài ngoặc kép, để trích dẫn từ 3 tác phẩm của 3 nhà văn
này, mỗi người một đoạn ngắn còn đọng lại trong lòng BGK, để chúng ta
cùng thưởng thức:
“Đất đai không còn, chỉ còn tay trắng, cuộc sống người dân quê tôi
lại lùi dần cho đến những năm 70 thì đúng là không ai giàu hơn ai. Nhiều
nhà trong thôn hai anh em mấy năm chỉ có một chiếc quần dài, đứa học
sáng đứa học chiều thay nhau mặc, còn nếu học chung buổi thì một thằng
tự nghỉ... Lão Lục đầu làng có con đi làm ăn xa Tết không về, thương đứa
con dâu vất vả nuôi ba đứa con nhỏ, để bớt miệng ăn lão đã treo cổ vào
chiều ba mươi Tết, trước khi lìa đời lão còn kịp để lại cho con dâu và
ba đứa cháu hai cái măng tre mà đêm trước lão đào trộm ở rặng tre gai
gần khu nghĩa địa.” (Chuyện Làng Tôi - Hoàng Hùng)
“Nếu trong quá khứ tôi đã từng thần tượng, tôn thờ những gì về Cộng
Sản, thì giờ đây tôi đã hiểu ra được, những thứ ấy đều chỉ là ảo ảnh từ
bàn tay Cộng Sản tạo dựng nên để “cấy hạt giống đỏ” cho các thế hệ sinh
sau đẻ muộn; những trang sử hào hùng, những thành tích vang dội năm châu
địa cầu cũng chỉ là một màn kịch lừa bịp của Cộng Sản để mị dân mà dễ
bề thống trị và vơ vét của cải toàn dân thành của riêng mình...” (Quá Khứ, Hiện Tại và Tương Lai - Quang Hình)
“Với tôi, qua bốn mươi năm từ lúc tuổi thơ cho đến bây giờ, tôi chiêm
nghiệm và tin chắc một điều: Người Cộng Sản đã làm được điều mà ông tổ
(C.Marx) của họ từng nguyền rủa “chỉ có cầm thú mới quay mặt đi trước
nỗi đau của đồng loại để liếm bộ lông của mình!” Một khi ngay cả chị em,
anh em ruột thịt, họ có thể quay lưng vì người đó nghèo quá, không còn
“xứng tầm” với họ thì nghĩa lý gì một thành phố, một hàng cây, nghĩa lý
gì với hơn 90 triệu dân mà phần đông là đói khổ, cần lao, bán mặt cho
đất bán lưng cho trời, không phải họ hàng của họ!” (Sài Gòn 40 Tuổi Đau và Những Cuộc Đời Mất Tên - Liêu Thái, tên dự thi là Uyên Trần)
3 Giải Hai đồng hạng theo thứ tự tựa đề ABC:
Chuyện Làng Tôi - Hoàng Hùng (1000$ US)
Quá Khứ, Hiện Tại và Tương Lai - Quang Hình (1000$ US)
Sài Gòn 40 Tuổi Đau và Những Cuộc Đời Mất Tên -Liêu Thái, tên dự thi là Uyên Trần (1000$ US)
Giải Ba:
Hồi Ức Sau 30/4/1975, Tôi Đi Thăm Nuôi Chồng! - Nguyễn Thị Ngọc (600$ US)
Giải Tư:
Bốn Mươi Năm Nhìn Lại Ngày 30 Tháng 4 Năm 1975 - Yên Tánh (400$ US)
Giải Năm:
Ngày Trở Lại - Người Đưa Tin (300$ US)
21 Giải Khuyến Khích theo thứ tự tựa đề ABC (mỗi Giải 100$ US):
1. Bà Tôi Bị Chôn Sống - Nguyệt Anh
2. Bên Lề Cuộc Sống - Nguyên Thạch
3. Bộ Mặt Thật Của Đảng CSVN - Hoàng Thị Mộc Lan
4. Bốn Mươi Mùa Tháng Tư - Huỳnh Thục Vy
5. Cha Tôi, Tôi và Thời Kỳ Quá Độ Tiến Lên Xã Hội Chủ Nghĩa - Trần Văn Lang
6. Chế Độ Cộng Sản Trong Tư Duy và Nhận Định Của Tôi - David Thiên Ngọc, Trần Thiên Đức
7. Chị Mai - Quý Denver
8. Chùm Thơ của Nguyễn Thanh Giang - Nguyễn Thanh Giang
9. Chuyện Chiếc Cầu Mang Sắc Tím - Đinh Nguyễn
10. Cộng Sản và Tôi - Người Sông La
11. Dị Ứng Hai Từ “Cộng Sản” - Cánh Dù Lộng Gió
12. Gặp Lại Kẻ Thù Xưa (thơ) - Phạm Đức Nhì
13. Gìn Vàng Giữ Ngọc - Trần Quốc Việt
14. Hai Miếng Mồi Nhử Khổng Lồ, Chất Chồng Xương Máu Nhân Dân Của CSVN - Phạm Thành
15. Hồi Ký Đau Thương - Người Sài Gòn
16. Lá Thư Cần Lắng Nghe Của Một Trí Thức Trẻ - Hoàng Vi Kha
17. Lời Nguyện Cầu Của Mẹ - Lưu Hoàng Kỳ
18. Ngàn Dâu Xanh Ngát - TMD
19. Ngày Dài Nhất - Quảng Phượng
20. Quãng Đời Tôi “Từ Chiến Tranh Đến Hòa Bình” - Lương Phạm
21. Xuân Trong Lòng - Phước An Thy (100$ US)
Giải Khuyến Khích Đặc Biệt:
Chuyện Nhà Tôi - Mục sư Nguyễn Trung Tôn (250$ US)
Xin được siết tay nhau bằng một lời nhắn
Sau khi đọc hết phần kết quả, hẳn bạn cũng hình dung được những chọn lựa
khó khăn của BGK, khi tất cả những tác phẩm dự thi được chọn đăng hoặc
lãnh giải hay không thì ít nhiều cũng đã để lại những ấn tượng thao thức
sâu đậm. Hẳn là không dễ để có một thước đo định vị cảm nhận nào đúng
nhất, và xin quý bạn hiểu cho tất cả chỉ là tương đối. Điều không thể
chối cãi là thứ nội lực tiềm tàng trong mỗi người viết về chủ đề này vẫn
còn rất mạnh mẽ. Tuồng như chúng ta chỉ muốn viết là để phơi bày và xóa
bỏ. Mà khi chưa xóa bỏ được thì chúng ta lại càng muốn viết, muốn tiếp
tục, muốn dâng trào.
91 bài chọn đăng sẽ góp mặt trong Tuyển Tập, và mỗi tác giả liên
lạc sẽ được gởi tặng sách lưu niệm. Luôn tiện xin được cảm ơn nhã ý của
nhiều độc giả muốn đón nhận dấu ấn Tuyển Tập này trước tiên, đặc biệt là
tác giả Quảng Phượng đã tự nguyện phát hành giùm những độc giả ở Đức.
Giá gì có họa sĩ tài hoa nào ra tay giùm một hình bìa thì tuyệt biết
mấy, và xin đa tạ trước.
Những tác giả trúng giải xin dùng đúng email đã sử dụng khi gởi bài, để trực tiếp với BTC hầu tiện việc thu xếp trao giải.
Ước gì chúng ta có thể an lòng ngồi viết những bài đồng dao, và những
chủ đề muôn thuở tình yêu, hoặc chỉ những điều về tự do, hạnh phúc, công
bằng no ấm của Con Người và Nhân Sinh, trong một thế giới không Cộng
Sản, bạn nhỉ.
14.05.2015
Thay mặt BTC,
Nguyễn Thị Thanh Bình (Danlambao)
- Tình trạng phát ngôn tỏ dấu vui mừng, hoặc “buồn ơi chào mi”, khi đã
lịch sự chờ được gạch tên “mời” ra, hoặc tuyên bố rũ bỏ muộn còn hơn
không với Hội Nhà Văn VN của những nhà văn, nhà thơ tiếng tăm chân chính
đang đến hồi bị thương tổn, và hứa hẹn một thái độ tự trọng từ chối
những xúc phạm có hiệu ứng cánh bướm, hẳn nhiên bỗng làm chúng ta liên
tưởng đến những khước bỏ của những đảng viên CSVN phản tỉnh cách đây
không lâu không hẳn vì tính rầm rộ của nó, mà có thể vì họ là những
khuôn mặt trí thức được chú ý và vì “tư tưởng lớn gặp nhau” với cố luật
sư Lê Hiếu Đằng cuối đời trên giường bệnh bỗng kịp tỉnh ngộ.
Thì cũng chính bây giờ nơi sân chơi này, coi như cũng khá ồn ào sinh
động, thử ví như bằng chứng của những-lá-phiếu-nhân-dân kiểu mới, chúng
ta đã có dịp mở đường làm thành một cuộc lên tiếng thi viết vạch trần
mãnh liệt, được nhiều đáp ứng tâm đắc của một câu trả lời dứt khoát, cái
dứt khoát đến từ những con chữ mạnh mẽ thương đau gói trọn từ những số
phận của toàn dân, chứ nào phải là một cuộc dân ý ở những thùng phiếu
định mệnh tự do. Đó là: “Sự chịu đựng của Cộng Sản và Tôi dưới ách 85 năm, 40 năm đã quá dài quá đủ quá ngập ngụa!”,
và vì thế không dưng chúng ta bỗng trở thành một tập hợp, một kết nối
được những ngòi bút nhân bản cả trong và khắp nơi trên toàn thế giới yêu
chuộng tự do cùng hội ngộ, nhất quyết cho một nền báo chí Việt Nam độc
lập trung thực, tôn trọng sự thật và khinh bỉ những thứ văn nô, báo nô,
bồi bút. Xin lỗi, không ai có thể khai trừ, xóa sổ tên của bạn khi chính
bạn đã tự chọn được đứng riêng, mạnh dạn tách riêng bất cứ một guồng
máy công cụ nào của Đảng CSVN, và độc lập trong những sinh hoạt với
những trái tim cùng chí hướng. Xin hãy vì khát vọng Tự Do của đất nước
này, những con người được mệnh danh là ngòi bút trí thức, hãy bằng những
ngọn gió ngạo nghễ rũ bỏ nốt những tàn tích phế thải không khá nổi của
những lập trình robot quốc doanh.
Hầu hết những người viết đã có lòng tham gia đều thấy mình được viết
thực sự như những nhu cầu giải tỏa nội tâm đã bị dồn nén ức chế quá lâu,
và họ đã viết bằng cả con tim xúc động, bằng cả tấm lòng dàn trải thôi
thúc nên rất dễ đi sâu vào tâm tư người đọc. Do đó, họ không cần phải tự
đặt hay oằn lên vai mình một thiên chức to tát nào cả, nhưng độc giả
vẫn cảm được bằng ý thức trách nhiệm lương tâm tôn vinh sự thật, nhất là
sự dũng cảm trong tinh thần được viết thẳng, nói thẳng mà không sợ bị
lưỡi hái răn đe nào của chế độ độc tài cản trở hay kiểm duyệt, và cũng
như bất cứ một tước đoạt sẽ trù dập bổ xuống.
Nói chung theo nghĩa dân dã của chốn giang hồ hệ lụy, họ là những người
viết đích thực can đảm có sức chơi sức chịu, tuyệt nhiên không muốn dính
dáng gì đến những chi hội của cơ quan công cụ chính phủ “quang vinh”
này
Tại sao viết và cần viết, cần đi nói cùng thế giới sự thật
Các bạn, tất cả những cây viết “xuất thần” đã có mặt hôm nay nơi đây, và
chắc hẳn không thể không có mặt ở những tháng ngày chưa yên nguôi sắp
đến, kể cả những người viết chưa có cơ may được trình làng lần này vẫn
sẽ hứa hẹn một điều: Trong tay chúng ta chẳng có gì, ngoài gia tài trí
tuệ kếch sù của một ngòi bút, một bàn viết vẫn luôn phủ đầy bóng tối đe
dọa rình rập nhưng không thể bẻ gãy hết những đường phím, vì còn muốn
được vươn tới như một công dân toàn cầu, và tự nhủ không ai có quyền
trấn đoạt nổi thứ tiếng nói được xem là đệ tứ quyền của nhân loại.
Chúng ta sẽ phải tiếp tục viết, và giá gì chúng ta đều thấy mình phải
viết trong tinh thần dấn thân trọn vẹn, như lời của nhà thơ bất khuất tự
do Phùng Quán: “Bút giấy tôi ai cướp giật đi. Tôi sẽ dùng dao viết văn lên đá.”
Và khi chúng ta đã chọn lựa được viết trong một tâm thể như thế, như với
gần cả trăm tác phẩm choáng ngợp những cảnh đời, những ưu tư thời cuộc,
những kinh nghiệm sinh tử của một giai đoạn lịch sử, những cách nhìn...
đã quyết liệt phô bày, đăng tải được dịp trở về đậm nét trong tâm trí,
chúng ta thấy rõ chính mình cũng đã góp công làm đánh động vào lòng
người hơn bao giờ hết, đánh động vào cộng đồng thế giới nếu một ngày gần
đây có anh chị em nào trong chúng ta muốn liên lạc vận động thành lập
Ban Dịch Thuật, chắc chắn chúng ta sẽ thực hiện được ý định đem “triển
lãm” cùng thế giới toàn bộ những hình ảnh này, để mang tặng Đài Tưởng
Niệm Nạn Nhân CNCS ở Washington D.C, nơi đó chính Tổng Thống George Bush
trong ngày thành lập năm 2007, nhân đúng vào dịp 20 năm, ngày mà cố
Tổng Thống Ronald Reagan đứng đọc diễn văn bốc lửa, kêu gọi “Hãy phá đổ
bức tường này!” trước Bức Tường Berlin, cũng đã rất tán đồng, ủng hộ cao
kiến này. Như thế, những câu chuyện lịch sử được kể lại như trong cơn
mộng du, ác mộng sẽ có cơ hội nhắc nhở tội ác phản nhân loại của Cộng
Sản với thế giới và để lại một bài học đích đáng cho thế hệ mai sau, nên
điều này có đánh động vào lòng địch (vận) hay không cũng chẳng quan
trọng, vì nằm ngoài mong mỏi còn hòng thay đổi những ý nghĩ sám hối muộn
màng của ai kia.
Cảm tạ và còn mãi những tấm lòng
Một lần nữa xin được cảm tạ nhau, cảm tạ ơn đời đã cho những trái tim
cùng một nhịp đập giống nòi được gặp gỡ, hạnh ngộ được tích cực hưởng
ứng đóng góp cùng gởi gấm. Của quý bạn, quý BGK, và quý BTC, cũng như
quý bảo trợ viên đã là những viên gạch vững chãi đầu tiên để xây dựng
tinh thần Giải Thưởng Dân Báo “Cộng Sản và Tôi” và những kỳ vọng
được tiếp nối của những “cuộc chơi”, cuộc hành trình rong chơi vẫn còn
dài, và không kém phần linh động, lay động trên một sân chơi vốn dĩ cởi
mở, thách đố phản biện và đối thoại, phấn đấu vinh danh báo chí Tự Do
như Danlambao. Ở đây phải kể là những ủng hộ tinh thần lẫn vật chất, với ước mong nên tiếp tục của nhà văn Cao-Đắc Tuấn,
cũng như của nữ độc giả ẩn danh ở Canada hôm nào đã động viên cả hai
mặt, kể cả niềm mong mỏi cần đi tới, và còn vô số những độc giả vừa thầm
lặng vừa chia sẻ, lẫn bằng hữu bà con xa gần luôn tìm cách cổ võ, và
sẵn sàng “đối mặt” giùm với những kẻ vô hồn vô lối DLV.
Trong đó, những hỗ trợ mới nhất sau đây xin được ghi nhận:
- Dược sĩ Nguyễn Mậu Trinh, ngoài Giải Khuyến Khích 100$
US hôm nào, còn xin đóng góp thêm 250$ US, mà BTC xin gọi là Giải Khuyến
Khích Đặc Biệt, để dành tặng Mục Sư Nguyễn Trung Tôn.
- Bác sĩ Nguyễn Quốc Quân, bào đệ của B/S Nguyễn Đan Quế, có nhã ý đóng góp 250$ US vào những Giải Khuyến Khích.
- Nhà văn Uyên Thao sẵn sàng nhịn thuốc lá tặng một Giải
Khuyến Khích 100$ US, và dĩ nhiên cũng rất vui lòng lãnh trọng trách
hoàn thành “Tuyển Tập Giải Dân Báo: Cộng Sản và Tôi”, do chính nhà xuất
bản Tiếng Quê Hương của mình in ấn và phát hành.
- Kỹ sư T. Nguyễn ở Florida tặng thêm một Giải Khuyến Khích 100$ US.
- Cuối cùng nhưng không kém phần nhiệt liệt ủng hộ, đại diện nhóm New Hope, Tuổi Trẻ Dấn Thân của cựu tù nhân lương tâm Trương Quốc Huy cũng hết lòng đóng góp 450$ US cho chương trình, vào lúc BTC cần đáp ứng nhu cầu tăng cường khích lệ đội ngũ dự thi.
Và bây giờ như một chọn lựa ngẫu nhiên, khá thích hợp, cuộc công bố kết
quả Giải Thưởng này được rơi đúng vào thời điểm của những gặp gỡ xoay
quanh những đối thoại nhân quyền vừa được mở ra, đánh dấu Ngày Nhân
Quyền cho Việt Nam năm thứ 21, được cựu Tổng Thống Bill Clinton ký thành
Đạo luật, chọn 11/5 mỗi năm để kỷ niệm, và với bà con đồng hương Thủ Đô
Hoa Kỳ vẫn còn nặng lòng với quê hương thì người người thi nhau có mặt ở
Quốc Hội, và cùng dẫn đầu một phái đoàn nhân sĩ của B/S Nguyễn Quốc
Quân vào Bộ Ngoại Giao, mà hồ sơ Nhân Quyền của VN vẫn cứ dày cộm, cũng
như đề tài “CS & Tôi” chắc đến khi nào cạn vơi và không còn gì để
nói để tồn tại, thì chúng ta mới thấy được bóng dáng Tự Do, Dân Chủ
chăng.
Kết quả:
Vì nhận thấy kết quả chênh lệch quá suýt soát, BGK đành không chọn được
Giải Khôi Nguyên, nên phải chia thành hai Giải Nhì. Do đó, chúng ta xin
chúc mừng “3 Khôi Nguyên” trong một nghĩa nào đó, đã cùng dẫn đầu cuộc
thi đầy ý nghĩa hào hứng này.
Ở đây xin tạm mở vài ngoặc kép, để trích dẫn từ 3 tác phẩm của 3 nhà văn
này, mỗi người một đoạn ngắn còn đọng lại trong lòng BGK, để chúng ta
cùng thưởng thức:
“Đất đai không còn, chỉ còn tay trắng, cuộc sống người dân quê tôi
lại lùi dần cho đến những năm 70 thì đúng là không ai giàu hơn ai. Nhiều
nhà trong thôn hai anh em mấy năm chỉ có một chiếc quần dài, đứa học
sáng đứa học chiều thay nhau mặc, còn nếu học chung buổi thì một thằng
tự nghỉ... Lão Lục đầu làng có con đi làm ăn xa Tết không về, thương đứa
con dâu vất vả nuôi ba đứa con nhỏ, để bớt miệng ăn lão đã treo cổ vào
chiều ba mươi Tết, trước khi lìa đời lão còn kịp để lại cho con dâu và
ba đứa cháu hai cái măng tre mà đêm trước lão đào trộm ở rặng tre gai
gần khu nghĩa địa.” (Chuyện Làng Tôi - Hoàng Hùng)
“Nếu trong quá khứ tôi đã từng thần tượng, tôn thờ những gì về Cộng
Sản, thì giờ đây tôi đã hiểu ra được, những thứ ấy đều chỉ là ảo ảnh từ
bàn tay Cộng Sản tạo dựng nên để “cấy hạt giống đỏ” cho các thế hệ sinh
sau đẻ muộn; những trang sử hào hùng, những thành tích vang dội năm châu
địa cầu cũng chỉ là một màn kịch lừa bịp của Cộng Sản để mị dân mà dễ
bề thống trị và vơ vét của cải toàn dân thành của riêng mình...” (Quá Khứ, Hiện Tại và Tương Lai - Quang Hình)
“Với tôi, qua bốn mươi năm từ lúc tuổi thơ cho đến bây giờ, tôi chiêm
nghiệm và tin chắc một điều: Người Cộng Sản đã làm được điều mà ông tổ
(C.Marx) của họ từng nguyền rủa “chỉ có cầm thú mới quay mặt đi trước
nỗi đau của đồng loại để liếm bộ lông của mình!” Một khi ngay cả chị em,
anh em ruột thịt, họ có thể quay lưng vì người đó nghèo quá, không còn
“xứng tầm” với họ thì nghĩa lý gì một thành phố, một hàng cây, nghĩa lý
gì với hơn 90 triệu dân mà phần đông là đói khổ, cần lao, bán mặt cho
đất bán lưng cho trời, không phải họ hàng của họ!” (Sài Gòn 40 Tuổi Đau và Những Cuộc Đời Mất Tên - Liêu Thái, tên dự thi là Uyên Trần)
3 Giải Hai đồng hạng theo thứ tự tựa đề ABC:
Chuyện Làng Tôi - Hoàng Hùng (1000$ US)
Quá Khứ, Hiện Tại và Tương Lai - Quang Hình (1000$ US)
Sài Gòn 40 Tuổi Đau và Những Cuộc Đời Mất Tên -Liêu Thái, tên dự thi là Uyên Trần (1000$ US)
Giải Ba:
Hồi Ức Sau 30/4/1975, Tôi Đi Thăm Nuôi Chồng! - Nguyễn Thị Ngọc (600$ US)
Giải Tư:
Bốn Mươi Năm Nhìn Lại Ngày 30 Tháng 4 Năm 1975 - Yên Tánh (400$ US)
Giải Năm:
Ngày Trở Lại - Người Đưa Tin (300$ US)
21 Giải Khuyến Khích theo thứ tự tựa đề ABC (mỗi Giải 100$ US):
1. Bà Tôi Bị Chôn Sống - Nguyệt Anh
2. Bên Lề Cuộc Sống - Nguyên Thạch
3. Bộ Mặt Thật Của Đảng CSVN - Hoàng Thị Mộc Lan
4. Bốn Mươi Mùa Tháng Tư - Huỳnh Thục Vy
5. Cha Tôi, Tôi và Thời Kỳ Quá Độ Tiến Lên Xã Hội Chủ Nghĩa - Trần Văn Lang
6. Chế Độ Cộng Sản Trong Tư Duy và Nhận Định Của Tôi - David Thiên Ngọc, Trần Thiên Đức
7. Chị Mai - Quý Denver
8. Chùm Thơ của Nguyễn Thanh Giang - Nguyễn Thanh Giang
9. Chuyện Chiếc Cầu Mang Sắc Tím - Đinh Nguyễn
10. Cộng Sản và Tôi - Người Sông La
11. Dị Ứng Hai Từ “Cộng Sản” - Cánh Dù Lộng Gió
12. Gặp Lại Kẻ Thù Xưa (thơ) - Phạm Đức Nhì
13. Gìn Vàng Giữ Ngọc - Trần Quốc Việt
14. Hai Miếng Mồi Nhử Khổng Lồ, Chất Chồng Xương Máu Nhân Dân Của CSVN - Phạm Thành
15. Hồi Ký Đau Thương - Người Sài Gòn
16. Lá Thư Cần Lắng Nghe Của Một Trí Thức Trẻ - Hoàng Vi Kha
17. Lời Nguyện Cầu Của Mẹ - Lưu Hoàng Kỳ
18. Ngàn Dâu Xanh Ngát - TMD
19. Ngày Dài Nhất - Quảng Phượng
20. Quãng Đời Tôi “Từ Chiến Tranh Đến Hòa Bình” - Lương Phạm
21. Xuân Trong Lòng - Phước An Thy (100$ US)
Giải Khuyến Khích Đặc Biệt:
Chuyện Nhà Tôi - Mục sư Nguyễn Trung Tôn (250$ US)
Xin được siết tay nhau bằng một lời nhắn
Sau khi đọc hết phần kết quả, hẳn bạn cũng hình dung được những chọn lựa
khó khăn của BGK, khi tất cả những tác phẩm dự thi được chọn đăng hoặc
lãnh giải hay không thì ít nhiều cũng đã để lại những ấn tượng thao thức
sâu đậm. Hẳn là không dễ để có một thước đo định vị cảm nhận nào đúng
nhất, và xin quý bạn hiểu cho tất cả chỉ là tương đối. Điều không thể
chối cãi là thứ nội lực tiềm tàng trong mỗi người viết về chủ đề này vẫn
còn rất mạnh mẽ. Tuồng như chúng ta chỉ muốn viết là để phơi bày và xóa
bỏ. Mà khi chưa xóa bỏ được thì chúng ta lại càng muốn viết, muốn tiếp
tục, muốn dâng trào.
91 bài chọn đăng sẽ góp mặt trong Tuyển Tập, và mỗi tác giả liên
lạc sẽ được gởi tặng sách lưu niệm. Luôn tiện xin được cảm ơn nhã ý của
nhiều độc giả muốn đón nhận dấu ấn Tuyển Tập này trước tiên, đặc biệt là
tác giả Quảng Phượng đã tự nguyện phát hành giùm những độc giả ở Đức.
Giá gì có họa sĩ tài hoa nào ra tay giùm một hình bìa thì tuyệt biết
mấy, và xin đa tạ trước.
Những tác giả trúng giải xin dùng đúng email đã sử dụng khi gởi bài, để trực tiếp với BTC hầu tiện việc thu xếp trao giải.
Ước gì chúng ta có thể an lòng ngồi viết những bài đồng dao, và những
chủ đề muôn thuở tình yêu, hoặc chỉ những điều về tự do, hạnh phúc, công
bằng no ấm của Con Người và Nhân Sinh, trong một thế giới không Cộng
Sản, bạn nhỉ.
14.05.2015
Thay mặt BTC,
Phải vạch mặt cộng sản để hướng về tương lai
Tôn Thất Thành (Danlambao) - Người Huế quá rành Cộng Sản
Nhắc đến Cộng Sản, dân Huế chúng tôi nhớ ngay đến Mậu Thân 68 mà chính
tôi cũng đã từng là nhân chứng sống. Những ngày đó, gần chục ngàn người
dân Huế đã bị Việt Cộng bắt đi và sát hại sau khi chúng bị đánh bật ra
khỏi Huế. Việt Cộng (VC) đã nhẫn tâm giết hại họ như một cách trả thù
hèn hạ, trả thù quân đội VNCH dù bất ngờ bị VC tráo trở vi phạm thỏa ước
đình chiến vẫn anh dũng chiến đấu đánh bại VC và tái chiếm lại Huế, trả
thù vì dân Huế đã không theo VC, không đồng khởi vùng lên theo lời kêu
gọi của VC trong thời gian chúng chiếm Huế. Và VC giết họ cũng là để rút
chạy cho nhanh, để bảo tồn bí mật thương vong, cơ sở, đồng thời cũng là
để khủng bố, đe dọa người dân Huế không được làm việc, hợp tác với
chính phủ VNCH trong tương lai…
Hàng chục ngàn người Huế là quân dân cán chính VNCH bị Việt Cộng bắt đi
rồi giết chết, trong đó có rất nhiều người chỉ là dân thường, là thầy
giáo, y tá, bác sĩ… vô tội sau đó đã bị VC thủ tiêu; giết tập thể bằng
các hình thức vô cùng dã man như chôn sống, đập bể đầu, trói chùm lại
rồi thả trôi sông trôi suối… phi tang mất xác! Và dân Huế, ít có nhà nào
thoát được, nhà nào cũng có người thân hoặc bà con gần, xa chết oan; có
nhà còn có vài người thân cùng thương vong trong cái lễ tết đáng nguyền
rủa nầy.
Nhà tôi cũng vậy, cũng có bà con bị chôn sống, rồi nhà hàng xóm bên
phải, bên trái, trước mặt, sau lưng... đâu đâu cũng nhìn thấy tóc tang,
chết chóc!
Nhắc đến VC, sau cái Tết Mậu Thân khủng khiếp với GIẢI KHĂN SÔ CHO HUẾ
dân Huế còn nhớ đến Mùa hè Đỏ lửa 72 với Đại lộ Kinh hoàng ngập đầy xác
người dân Quảng Trị chạy trốn VC vào Huế, bị chúng dùng đại pháo bắn
thẳng vào, có những đoạn đường mà máu xương trẻ em người già dân lành vô
tội nhầy nhụa ngập lút cả bàn chân...
Nhắc đến VC, dân Huế còn phải nhớ đến những ngày trước biến cố 30 tháng
4/75, con đường chạy trốn VC của dân Huế xuôi Nam bị VC phục kích cắt
ngang, chặn lại tại đèo Hải Vân, những chiếc xe chở đầy dân thường bị
trúng mìn, bị pháo kích, phục kích, bắn tỉa... Xác xe, xác lính và xác
thường dân vô tội chết, bị thương lăn lóc rải rác đầy đường.
Rồi còn là đoạn đường đầy máu và nước mắt khi phải quay ngược lại về Huế
rồi chạy xuống biển Thuận An trong hoảng loạn, giẫm đạp nhau tìm mọi
cách leo lên được một tàu Hải quân để xuôi Nam trốn chạy VC.
Phải nói là dân Huế có quá nhiều kinh nghiệm đau thương với VC, và cũng
như đa số dân Huế khác tôi cũng rất ghét và tởm lợm Cộng Sản, vậy mà
thật oái ăm bất ngờ, chính tôi cũng có một người thân là Cộng Sản. Ông
Ngoại tôi còn là liệt sĩ Việt Cộng!
Tôi không biết dưới suối vàng Ngoại tôi có chút tự hào nào về điều đó
không, nhưng tôi tin chắc là không, ít nhất nếu xét về mặt đoàn tụ gia
đình, hạnh phúc...
Mười bảy tuổi, tôi mới lần đầu tiên trong đời, biết mình có một ông
Ngoại đi tập kết còn sống ở Hà Nội. Gần 30/4/75, khi Huế đã bỏ ngỏ,
Ngoại tôi đã vào Huế tìm mẹ tôi ngay cùng lúc với phe chiến thắng.
Ấn tượng lần đầu gặp gỡ là ông cao lớn nhưng nét mặt đầy khắc khổ, tay
đeo đồng hồ Liên Xô, đi xe đạp nam mà có đeo bảng số, ngực tòn ten cái
radio, đầu nón cối chân dép râu... trông hơi ngố ngố; với tôi thì hơi
tức cười, nhìn quê quê... nhưng với mấy bộ đội ở Bắc vào đang đóng quân
gần nhà tôi thì họ ra mặt ao ước, thần tượng tôn sùng ông lắm.
Ngoại và mẹ tôi tâm sự nhiều, nhưng tôi còn nhớ rõ là ngay trong bữa cơm
đoàn tụ đầu tiên sau mấy chục năm tập kết xa cách trở về, ông và mẹ tôi
đã có những bất đồng trầm trọng. Ông than là ông rất buồn khi quay về,
có hai người con gái thì bà dì em mẹ tôi có chồng là đại tá bác sĩ Sài
Gòn, còn mẹ tôi lấy chồng dòng dõi Hoàng tộc phong kiến... Mẹ tôi vừa
khóc vừa trả lời là ông bỏ đi biền biệt, bỏ hai đứa con gái bơ vơ trong
đất Mỹ Ngụy mà không bị Mỹ Ngụy truy bức hành hạ bỏ đói, không phải làm
đĩ, lấy Mỹ mà được đối xử bình đẳng nhân đạo, có chồng con ăn học đàng
hoàng là may lắm rồi... Thấy mẹ tôi xốc quá, ông bàn qua tôi lúc đó đang
học lớp 12 là sẽ đem tôi ra Bắc, cho đổi sang họ ông, rồi cho thi vào
đại học, và theo ông, đó là cách duy nhất nếu muốn đi học tiếp, muốn cất
đầu được dưới chế độ mới: phải xóa bỏ lý lịch, trốn chạy gốc gác tổ
tiên ông bà...
Ba mẹ tôi phản đối chuyện chối bỏ ông bà, thay tên đổi họ. Ông bảo là cứ
sống với VC một thời gian rồi mới hiểu, nói trước không nghe thì sau
này có gì ráng chịu... Tới đây thì bữa cơm đoàn tụ cha con, ông cháu đầu
tiên sau 30 - 4 - 75 của gia đình tôi tan nát trong nước mắt và cãi cọ!
Mấy ngày sau đó, Ngoại làm huề rồi kêu mẹ tôi soạn quà và dẫn đi thăm bà con.
Quà từ Bắc mang vào mà Ngoại rất tự hào là mấy xấp vải cho con gái và
cháu, mà nói phải tội, loại vải đó đem may quần đùi tụi tôi còn chê. Quà
cho con cháu sau mấy chục năm xa cách, còn thêm mấy ký đường vàng, mấy
phong lương khô và mấy bao khoai lang, sắn khô xắc miếng, mà ngày nào
ông cũng phải mang ra phơi, vì nhiều chỗ đã mốc xanh mốc vàng và đầy mối
mọt.
Ngoại tôi là tuýp người mà nếu có ai đó hỏi ông theo VC khi nào thì ông
cãi ngay là ông không theo mà là đi làm cách mạng. Ông tự hào đi đánh
Tây cùng thời Lê Duẩn, Trường Chinh...
Mãi sau này, tôi có nghe loáng thoáng là ông đi làm cách mạng rất sớm
nhưng cũng bị sớm ra rìa và chuyển ngành ra làm dân vận, vì mấy vụ chống
đối cải cách ruộng đất, nhân văn... gì gì đó. Nhưng ông cũng tự trào
khoe rằng, nhờ vậy mà khi bị đẩy đi làm dân vận Việt kiều ở Thái nhằm dụ
Việt kiều ủng hộ VC và hồi hương, ông gặp được bà Ngoại kế, rồi "dân
vận" được bà đưa luôn về dinh...
Nhưng cũng chính điều mà Ngoại tôi có vẻ tự hào này, sau đó bà Ngoại kế
đã kể rằng chuyện bà hồi hương, nghe theo lời VC dụ dỗ là sai lầm lớn
nhất của cuộc đời bà. Sai lầm thứ hai là khi bỏ Thái về VN bà còn đem
hết gia tài vàng bạc nộp cho VC, vì tin lời họ nói là sẽ giữ giùm cho an
toàn, vì tưởng họ thực lòng khi cấp giấy khen cho bà là Việt kiều yêu
nước... Chính cái cú lừa đảo thứ hai nầy khi bà nộp vòng vàng vào thì dễ
nhưng lấy ra thì không thể, đã làm bà càng xuýt xoa, nguyền rủa VC mãi
và hục hặc với ông Ngoại tôi hoài cho đến khi bà mất!
Bà cũng bật mí là dân miền Bắc đang sống khổ lắm, tài sản đồ đạc xe đài
của ông, chút quà cáp ông đem vào Nam có được là do bà bán vòng vàng nữ
trang còn giấu giếm được đem từ Thái Lan về, chứ lương của ông cũng như
bao nhiêu cán bộ tập kết khác, không mua đủ gạo mà ăn!
Cũng có được điều an ủi là Ngoại tôi tuy đỏ nhưng cũng còn có khá nhiều
điều thành thực với con cháu, ngay trong chuyến đi thăm bà con sau 30
tháng 4, ông liên tục thở dài trước những điều nghe và thấy. Ông nói là
họ hàng miền Nam dù người nghèo nhất, cũng ở những căn nhà, đãi ông bữa
cơm, tặng ông món quà mà cả đời ông ngoài Bắc chỉ là mơ ước. Đi thăm bà
con về ông tổng kết, tiên tri được ngay, mức sống, trình độ của dân miền
Nam cao như thế thì chuyện "hòa hợp hòa giải dân tộc" với miền Bắc chắc
cũng phải còn lâu, lâu lắm...
Một thời gian sau, Ngoại bán nhà ở Hà Nội, chuyển vào sống ở quê Quảng Trị.
Lần sau này vào Ngoại cũng đi thăm lại bà con, nhờ bạn ông mượn được
chiếc xe zíp bộ đội chở đi nhưng khác với lần trước 30/4 xe chở ông đến
đậu ngay cổng từng nhà; lần này ông xuống xe từ xa, kêu tôi ôm quà đi bộ
vào. Ông bảo dân tình khổ quá, giải phóng cái gì mà càng ngày dân càng
điêu linh, đói thê thảm. Dân sợ nhưng hận chế độ, khinh cán bộ, mình còn
xe cộ làm chi cho họ hàng bà con thêm khinh ghét xa lánh!
Mấy năm sau, khi gia đình tôi sống không nổi ở Huế đã phải trốn chạy vào
Nam, lúc này dù đã hưu trí nhưng thấy dân quê ông đói khổ quá, Ngoại
tôi lại tình nguyện vào đội công tác xung phong đi tìm đất mới ở Tây
Nguyên, theo chủ trương của chính quyền đưa dân Quảng Trị quê ông đi lập
vùng kinh tế mới.
Đi được mấy chuyến thì Ngoại bị sốt rét ác tính quật ngã, chết mà không
đưa được xác về. Mấy đồng chí của Ngoại chôn đại Ngoại luôn trên rừng
già Tây Nguyên.
Có nhiều khi nghĩ về Ngoại, tôi cũng xót thương cho phần số của ông, do
đã lầm đường lạc lối khi đi theo con đường VC, do bị VC bội bạc, do bản
chất CS là lừa lọc vắt chanh bỏ vỏ, mà Ngoại tham gia từ đầu, vậy mà
suốt đời cũng chẳng được gì cho riêng bản thân, đừng nói chi đến giúp
gia đình, xã hội; bản thân ông ngay khi chết cũng chẳng được nấm mồ cho
ngay ngắn. Suốt đời cách mạng, bỏ bê gia đình mà rồi ngay cả khi ông
chết đi trong lúc đang làm nhiệm vụ, mấy đồng chí của ông cũng bỏ mặc
thân xác ông trong rừng già. Nghe mấy đứa em kể lại, chỉ sau này khi gia
đình kiện cáo làm dữ lắm thì ngày cải táng đưa hài cốt Ngoại về quê, họ
mới đến rao giảng điếu văn, tầm phào năm điều ba chuyện thành tích
tưởng niệm, rồi trao mảnh giấy lộn ghi là Liệt sĩ.
Từ khi Ngoại mất đi đến giờ, là cháu ruột nhưng do trốn chạy CS phải tha
phương nên tôi cũng chưa một lần đến thăm được mộ Ngoại, chưa thắp được
cây nhang nào lên mộ. Riêng tư trong gia đình, dù do hoàn cảnh trái
ngang như thế nào thì đó vẫn là thiếu sót, là tội lỗi. Chỉ xin tự hứa là
nếu mai nầy có dịp về lại VN, sẽ tìm về quê thắp cây nhang lên mộ mà
xin Ngoại lượng thứ.
Người ông Ngoại này riêng với tôi vẫn là ruột thịt, nhưng vì cái chung
của đất nước thì thật xót xa để phải nói thêm rằng, nếu lứa như ông biết
dừng lại sau thắng Pháp 1954 thì sẽ đẹp biết bao cho gia đình và dân
tộc. Dừng lại, đừng theo VC tập kết ra Bắc, đừng có ngày 30 - 4-75, đừng
về phe những người mang chiến tranh vào tàn phá miền Nam đòi giải phóng
miền Nam, chắc chắn là cuộc đời ông sẽ được thảnh thơi hơn, mà cuộc đời
con cháu ông cũng không phải khổ, vì những điều đau đớn trái ngang mà
bọn VC nhân danh cách mạng, cuối cùng, cho đến tận bây giờ, vẫn còn đang
mang lại.
Ngoại tôi là Liệt sĩ VC, thứ mà thế hệ chúng tôi, những đứa trẻ miền Nam
trước 1975 không cần đến. Ngoại mà chúng tôi cần, yêu là một Ngoại hiền
lành, gần gũi thương con thương cháu chứ không phải là một ông Ngoại
VC tập kết lên rừng, ra Bắc rồi theo xe tăng Nga, AK Tiệp, mã tấu Tàu
đem cái chủ nghĩa CS ngoại lai tàn độc về, úp chụp lên đầu con cháu rồi
gọi là giải phóng miền Nam...
Cái thế hệ những đứa cháu như lứa chúng tôi ngày xưa ấy, bây giờ, cũng
đã trên dưới năm mươi, cũng đã và đang lên chức Ngoại. Và phải chăng
lịch sử đang xoay vòng. Phải chăng chính cái đám cháu ngày nay mới đang
rất cần những Ngoại thương dám dũng cảm đứng lên, những Ngoại thương dám
dấn thân vì con cháu, vì độc lập tự do của dân tộc để tiếp tục làm một
cuộc cách mạng. Chỉ có khác một điều là cuộc cách mạng ngày hôm nay,
không hẳn đã cần đến súng đến gươm, mà có thể sẽ là một cuộc cách mạng
bằng tri thức, dùng các thành tựu KHKT về mạng toàn cầu, FB, dùng ngòi
bút... để vạch mặt CS và khơi dậy lòng tự hào dân tộc của toàn dân nhằm
chống lại bọn VC tham tàn bán nước và bè lũ ngoại xâm Phương Bắc!
Ngoại của tôi ơi, nếu có linh thiêng, ở thế giới bên kia, chắc Ngoại
cũng đã thấy rõ hết rồi những tội ác mà các đồng chí của Ngoại đã và
đang làm, đã và đang gây ra biết bao nhiêu là trái ngang đau xót cho dân
tộc này; đã thấy VN lệ thuộc Tàu và dân ta đang bị nhồi sọ, đàn áp,
khủng bố khổ đau... đến như thế nào; nên chắc Ngoại hiểu cho về nguyên
do đã dẫn đến những bất kính mạo phạm của con cháu riêng khi nói về con
đường mà Ngoại đã lầm lạc, lỡ bước đi qua.
Lịch sử không thể nào quay lại, vâng, nhưng dù sao đi nữa, trước sau gì
thì con cháu cũng vẫn xin được một lần Ngoại ơi; xin phép Ngoại được một
lần: phải nói lên hết những gì là sự thật; phải lên án con đường lầm
lạc mà Ngoại đã đi qua, phải vạch mặt bọn CS tàn độc và tởm lợm, như đức
Đạt Lai Lạt Ma đã từng nhận xét:
“Cộng Sản là loài cỏ dại, mọc trên hoang tàn của chiến tranh, là loại trùng độc, sinh sôi nẩy nở trên rác rưởi của cuộc đời.”
Vâng, chính VC đã kìm hãm sự phát triển của cả dân tộc VN, đã biến dân
tộc VN anh hùng thành một quốc gia hèn yếu nay đang lệ thuộc Tàu, trai
cu li gái đĩ điếm... Chính VC đã cầm tù đày đọa hàng triệu con người VN
trong các trại tập trung được mệnh danh là Trại cải tạo với hàng trăm
ngàn người đã phải chết thảm; đã xua đuổi, cướp đất cướp nhà cướp tài
Sản của hàng triệu gia đình miền Nam VN bằng thủ đoạn cưỡng bức đi Kinh
tế mới; cải tạo tư Sản, đổi tiền... Đã phân biệt đối xử theo lý lịch,
triệt đường sống, bức tử hàng triệu dân lành phải ra biển vượt biên bất
chấp mạng sống để hàng trăm ngàn người phải chết mất xác trên biển Đông,
làm mồi cho tôm cá.... Đã có hàng triệu triệu gia đình VN đã tan nát,
hàng triệu số phận lương dân bị vùi dập bất hạnh trở thành nạn nhân cộng
Sản...
Vâng, đã muộn màng lắm rồi và chắc chắn không còn con đường nào khác cho
dân tộc VN đau thương này, nếu còn muốn tồn tại và phục sinh như một
quốc gia có chủ quyền chứ không phải là phên dậu tôi tớ lệ thuộc Tàu; đó
là mọi người con dân Việt chưa bị nhồi sọ, còn có lương tri phải cùng
đồng lòng đứng lên vạch mặt Cộng Sản, tiêu diệt tận gốc loại trùng độc
nguy hiểm này, để muôn lòng như một, cùng với dân tộc Việt hướng về
tương lai.
Vâng, người Việt yêu nước thì hình như nơi nào, thời nào cũng có, nên
dẫu có là đã muộn lắm rồi nhưng cũng không phải là không thể, nếu như
đông đảo chúng ta còn có được một tấm lòng!
Bốn mươi mùa tháng Tư
Huỳnh Thục Vy (Danlambao) - Tháng Tư lại về...
Những vết thương âm ỉ lại thêm một lần đau nhức trong tâm thức nhiều
người Việt, những người đã từng chịu đau thương vì cuộc xâm lược mà
những người Cộng Sản Bắc Việt đã áp đặt lên miền Nam. Là một người trẻ
sinh sau 1975, tôi không phải nếm trải những kinh nghiệm đau đớn trong
cuộc chiến này. Nhưng hằng năm, cứ vào dịp này, trong lòng tôi lại thấp
thoáng những hoài niệm về giấc mơ thời tuổi trẻ của ba tôi những ngày
sống dưới chế độ Việt Nam Cộng Hoà.
Việt Nam Cộng Hoà chưa phải là nơi tôi mơ ước, vì tôi mơ ước nhiều hơn
thế: tôi mơ về một Việt Nam từ ải Bắc đến mũi Cà Mau, hoà bình, tự do
dân chủ và có vị thế chính trị lớn mạnh trong khu vực. Nhưng đất nước đã
mất này hoàn toàn xứng đáng để tôi dành một góc hoài niệm trong trái
tim mình. Vì ở đó, gia đình ông bà tôi được ấm no, các cô chú bác tôi
được sung túc và ba tôi được phép có một giấc mơ và có thể biến nó thành
sự thật. Nhưng mọi thứ đã tan tành sau ngày 30 tháng Tư đen tối ấy.
Tôi không phải là người sống với quá khứ vì tôi còn trẻ và tương lai còn
dài. Nhưng tôi tôn trọng những giá trị đã đạt được của tiền nhân, tôi
thương yêu và ước gì, tôi có thể xoa dịu được tất cả những ai phải chịu
những đớn đau, mất mát trong quá khứ đau buồn đó. Cứ mỗi tháng Tư về,
tôi nhớ đến rất nhiều điều của quá khứ tang thương miền Nam, đất nước
của ông bà tôi, đất nước thời niên thiếu của ba tôi. Tôi nhớ đến những
sĩ quan quân đội đã tuẫn tiết vì thất bại trong nỗ lực bảo vệ quốc gia
tự do của mình. Tôi nghĩ đến hàng trăm ngàn người bị sóng biển Đông nhấn
chìm. Tôi nhớ đến hàng ngàn quân cán chính Việt Nam Cộng Hoà phải bỏ
mạng trong các trại lao động khổ sai. Tôi cũng nghĩ đến bố chồng tôi,
một viên cảnh sát Việt Nam Cộng Hoà, đã bị đột quỵ và mất hết ý chí sống
từ sau 1975.
Những ngày này, tôi muốn tưởng niệm về quá khứ và cầu nguyện cho các
linh hồn hơn là rao giảng đạo đức khoan dung, vị tha. Không biết vô tình
hay cố ý, mỗi năm đến ngày này, nhiều người cứ nhắc về sự hoà giải.
Thật không hợp lý, hợp tình và đặc biệt khi nội dung những lời kêu gọi
này hoàn toàn thiên vị. Nếu tôi không nhầm, hầu hết những người cổ vũ
cho sự “hàn gắn”, “hòa hợp hoà giải” là những trí thức xuất thân từ các
gia đình miền Bắc Cộng Sản. Chúng ta cần phân biệt rõ sự “hoà giải” mà
họ nói không giống với sự hoà giải mà tác giả Nguyễn Gia Kiểng đã ưu tư
trong cuốn “Tổ quốc ăn năn” của ông.
Trong khi Nguyễn Gia Kiểng cổ vũ cho sự hóa giải các mâu thuẫn nội tại
về văn hoá, tâm thức, lịch sử đã in sâu trong lòng dân tộc do những hệ
luỵ của một thời kỳ lịch sử xa xôi, không kể riêng cuộc chiến tranh Việt
Nam. Thì những người cổ vũ cho “hòa hợp hoà giải” này với kiểu não
trạng của “bên thắng cuộc” chỉ nhắm đến sự xoa dịu nỗi căm phẫn mà những
người Việt hải ngoại và những người đấu tranh trong nước đối với những
tội ác mà đảng Cộng Sản đã và đang thực hiện.
Nếu ngay trong chính lời kêu gọi hoà giải đã mang thiên kiến, thì khó
mong họ có thể đóng góp cho một cuộc hoà giải thực sự. Theo thói thường
của con người, khi người ta đứng ngoài những tổn thương hoặc là kẻ chiến
thắng, họ thường dễ dàng rao giảng về đạo đức và sự tha thứ hơn những
người chịu đau đớn, đặc biệt là khi vết thương đó chưa lành hẳn. Nhưng
khi nghĩ đến chữ “hoà” thì ta chỉ có nghĩ ngay đến một thành phần trung
gian, không thiến kiến. Chỉ có những ai thật tâm cân nhắc về Công lý và
sự Công bằng với có đủ thẩm quyền đạo đức kêu gọi sự hoà giải.
Tôi đang có cảm giác mình là kẻ vạch lá tìm sâu, nhưng tôi không thể
không chia sẻ điều mình nghĩ, đặc biệt là khi có ai đó nói về những điều
gây tổn thương cảm thức về Công lý. Mới đây, admin của một trang
Facebook thông tin khá nổi tiếng đã chia sẻ một status dài, trong đó có
đoạn như sau: “Chúng ta đã hàn gắn và hòa giải với cựu thù, nhưng vẫn
chưa hàn gắn được chính sự chia rẽ trong lòng chúng ta.” “Cựu thù” ở đây
là ai, là Hoa Kỳ? Anh đang đứng ở vị trí nào khi coi người Mỹ là cựu
thù? Nếu anh coi họ là cựu thù thì chắc chắn đối với anh, Nga Sô và
Trung Cộng là anh em?
Ở đây tôi chỉ nói về lập trường trong cuộc chiến chứ không nói trong bối
cảnh hiện nay. Dù Hoa Kỳ là một đồng minh “tráo trở” của Việt Nam Cộng
Hoà thì đại đa số người dân miền Nam (trừ những kẻ nằm vùng và thân
cộng) không coi họ là kẻ thù, mà chính những người Cộng Sản miền Bắc và
đàn anh của họ mới là kẻ thù của miền Nam tự do. Vậy người admin này đã
hoàn toàn đứng ở vị thế kẻ thắng cuộc miền Bắc để kêu gọi hoà giải. Như
vậy, anh không đủ thẩm quyền đạo đức để bàn chuyện hoà giải.
Tôi không muốn bàn về một sự hoà giải viễn vông. Hoà giải mọi mâu thuẫn
trong lòng dân tộc là chuyện tất nhiên mà chúng ta cần làm để vực dậy
chí khí dân tộc. Nhưng vấn đề là ai hoà giải với ai và hoà giải cần
những điều kiện nào. Ý tiếp theo mà anh admin của Dân Luận đưa ra có thể
giúp chúng ta rõ hơn về ý hướng của anh: “Nếu chính quyền không chịu
làm điều đó, chính chúng ta phải xắn tay vào mà làm”.
Chính quyền độc tài hiện nay là kẻ tội đồ của dân tộc, họ không bước
xuống, quỳ gối mà cầu xin tha thứ, mà vẫn đứng trên ngôi cao tiếo tục
đàn áp những người bày tỏ ý kiến khác biệt. Vậy chúng ta “xắn tay” cao
đến mức nào mới có thể “hòa giải” được đây? Không lẽ bảo những nạn nhân
của họ phải chạy đến van xin để cầu hoà?
Nói đơn giản, tài sản - nhà cửa của người dân miền Nam, mà chính quyền
Cộng Sản tịch thu rồi chia lại cho cán bộ nhân viên của họ, có được trả
lại cho chủ cũ chưa? Hồ sơ này giải quyết ra sao? Chính quyền đã làm gì
để bồi thường những mất mát nhân mạng và tổn thương tinh thần đã gây ra
cho các gia đình quân cán chính miền Nam? Chính quyền Cộng Sản đã có lộ
trình thực tiễn nào cho việc dân chủ hoá đất nước, trả tự do cho tù nhân
lương tâm, bồi thường cho các nạn nhân nhân quyền và dân oan? Nếu chính
quyền độc tài không làm những điều này thì ai là người có khả năng làm?
Xin nhớ sự hoà giải trong tâm thức chỉ đến khi có những biện pháp hoà
giải và khắc phục hậu quả trên thực tế.
Công lý không được thực thi, mong gì hòa giải?
Nếu chính quyền độc tài bị giải thể, còn lý do gì để người Việt ở hải
ngoại giữ sự căm ghét chính quyền? Khúc mắc lớn nhất hiện nay là cuộc
xung đột mang tính hệ thống về cả giá trị lẫn quyền lợi giữa chính quyền
Cộng Sản Việt Nam với đại đa số người Việt quốc nội và hải ngoại. So
với xung đột hệ thống này, những mâu thuẫn cục bộ khác đều dễ giải quyết
hơn. Tôi tin rằng người Việt Nam còn nhiều mâu thuẫn. Hòa giải ư? Cần
thiết chứ, những mâu thuẫn luôn cần sự hòa giải. Nhưng xin nhớ, chỉ có
mâu thuẫn mới cần hoà giải còn tội ác thì chỉ cần được đưa ra toà án
công lý. Và sau khi chế độ độc tài này ra đi, chúng ta hoàn toàn có điều
kiện để hoá giải các mẫu thuẫn về lịch sử, tôn giáo, vùng miền, sắc
tộc… Còn bây giờ, nhắc đến hòa giải thì chỉ có thể nói đến một khả năng:
chính quyền độc tài phải giải thể!
Chúng ta có thể tự cảm thấy mình nhân văn khi kêu gọi hoà giải. Nhưng
nếu chúng ta không phân tích rõ ràng và kỹ lưỡng về các điều kiện để hoà
giải mà chỉ nói với tâm thức một người may mắn không phải chịu tổn
thương thì vô tình chúng ta trở thành kẻ tàn nhẫn lên giọng cao đạo
trong khi vết thương của nạn nhân chưa lành. Vài lời dong dài xin chia
sẻ với quý thân hữu và độc giả gần xa. Xin cầu nguyện cho nhau trong
những ngày kỷ niệm đen tối này.
Buôn Hô, 22/4/2015
Huỳnh Thục Vy (Danlambao) - Tháng Tư lại về...
Những vết thương âm ỉ lại thêm một lần đau nhức trong tâm thức nhiều
người Việt, những người đã từng chịu đau thương vì cuộc xâm lược mà
những người Cộng Sản Bắc Việt đã áp đặt lên miền Nam. Là một người trẻ
sinh sau 1975, tôi không phải nếm trải những kinh nghiệm đau đớn trong
cuộc chiến này. Nhưng hằng năm, cứ vào dịp này, trong lòng tôi lại thấp
thoáng những hoài niệm về giấc mơ thời tuổi trẻ của ba tôi những ngày
sống dưới chế độ Việt Nam Cộng Hoà.
Việt Nam Cộng Hoà chưa phải là nơi tôi mơ ước, vì tôi mơ ước nhiều hơn
thế: tôi mơ về một Việt Nam từ ải Bắc đến mũi Cà Mau, hoà bình, tự do
dân chủ và có vị thế chính trị lớn mạnh trong khu vực. Nhưng đất nước đã
mất này hoàn toàn xứng đáng để tôi dành một góc hoài niệm trong trái
tim mình. Vì ở đó, gia đình ông bà tôi được ấm no, các cô chú bác tôi
được sung túc và ba tôi được phép có một giấc mơ và có thể biến nó thành
sự thật. Nhưng mọi thứ đã tan tành sau ngày 30 tháng Tư đen tối ấy.
Tôi không phải là người sống với quá khứ vì tôi còn trẻ và tương lai còn
dài. Nhưng tôi tôn trọng những giá trị đã đạt được của tiền nhân, tôi
thương yêu và ước gì, tôi có thể xoa dịu được tất cả những ai phải chịu
những đớn đau, mất mát trong quá khứ đau buồn đó. Cứ mỗi tháng Tư về,
tôi nhớ đến rất nhiều điều của quá khứ tang thương miền Nam, đất nước
của ông bà tôi, đất nước thời niên thiếu của ba tôi. Tôi nhớ đến những
sĩ quan quân đội đã tuẫn tiết vì thất bại trong nỗ lực bảo vệ quốc gia
tự do của mình. Tôi nghĩ đến hàng trăm ngàn người bị sóng biển Đông nhấn
chìm. Tôi nhớ đến hàng ngàn quân cán chính Việt Nam Cộng Hoà phải bỏ
mạng trong các trại lao động khổ sai. Tôi cũng nghĩ đến bố chồng tôi,
một viên cảnh sát Việt Nam Cộng Hoà, đã bị đột quỵ và mất hết ý chí sống
từ sau 1975.
Những ngày này, tôi muốn tưởng niệm về quá khứ và cầu nguyện cho các
linh hồn hơn là rao giảng đạo đức khoan dung, vị tha. Không biết vô tình
hay cố ý, mỗi năm đến ngày này, nhiều người cứ nhắc về sự hoà giải.
Thật không hợp lý, hợp tình và đặc biệt khi nội dung những lời kêu gọi
này hoàn toàn thiên vị. Nếu tôi không nhầm, hầu hết những người cổ vũ
cho sự “hàn gắn”, “hòa hợp hoà giải” là những trí thức xuất thân từ các
gia đình miền Bắc Cộng Sản. Chúng ta cần phân biệt rõ sự “hoà giải” mà
họ nói không giống với sự hoà giải mà tác giả Nguyễn Gia Kiểng đã ưu tư
trong cuốn “Tổ quốc ăn năn” của ông.
Trong khi Nguyễn Gia Kiểng cổ vũ cho sự hóa giải các mâu thuẫn nội tại
về văn hoá, tâm thức, lịch sử đã in sâu trong lòng dân tộc do những hệ
luỵ của một thời kỳ lịch sử xa xôi, không kể riêng cuộc chiến tranh Việt
Nam. Thì những người cổ vũ cho “hòa hợp hoà giải” này với kiểu não
trạng của “bên thắng cuộc” chỉ nhắm đến sự xoa dịu nỗi căm phẫn mà những
người Việt hải ngoại và những người đấu tranh trong nước đối với những
tội ác mà đảng Cộng Sản đã và đang thực hiện.
Nếu ngay trong chính lời kêu gọi hoà giải đã mang thiên kiến, thì khó
mong họ có thể đóng góp cho một cuộc hoà giải thực sự. Theo thói thường
của con người, khi người ta đứng ngoài những tổn thương hoặc là kẻ chiến
thắng, họ thường dễ dàng rao giảng về đạo đức và sự tha thứ hơn những
người chịu đau đớn, đặc biệt là khi vết thương đó chưa lành hẳn. Nhưng
khi nghĩ đến chữ “hoà” thì ta chỉ có nghĩ ngay đến một thành phần trung
gian, không thiến kiến. Chỉ có những ai thật tâm cân nhắc về Công lý và
sự Công bằng với có đủ thẩm quyền đạo đức kêu gọi sự hoà giải.
Tôi đang có cảm giác mình là kẻ vạch lá tìm sâu, nhưng tôi không thể
không chia sẻ điều mình nghĩ, đặc biệt là khi có ai đó nói về những điều
gây tổn thương cảm thức về Công lý. Mới đây, admin của một trang
Facebook thông tin khá nổi tiếng đã chia sẻ một status dài, trong đó có
đoạn như sau: “Chúng ta đã hàn gắn và hòa giải với cựu thù, nhưng vẫn
chưa hàn gắn được chính sự chia rẽ trong lòng chúng ta.” “Cựu thù” ở đây
là ai, là Hoa Kỳ? Anh đang đứng ở vị trí nào khi coi người Mỹ là cựu
thù? Nếu anh coi họ là cựu thù thì chắc chắn đối với anh, Nga Sô và
Trung Cộng là anh em?
Ở đây tôi chỉ nói về lập trường trong cuộc chiến chứ không nói trong bối
cảnh hiện nay. Dù Hoa Kỳ là một đồng minh “tráo trở” của Việt Nam Cộng
Hoà thì đại đa số người dân miền Nam (trừ những kẻ nằm vùng và thân
cộng) không coi họ là kẻ thù, mà chính những người Cộng Sản miền Bắc và
đàn anh của họ mới là kẻ thù của miền Nam tự do. Vậy người admin này đã
hoàn toàn đứng ở vị thế kẻ thắng cuộc miền Bắc để kêu gọi hoà giải. Như
vậy, anh không đủ thẩm quyền đạo đức để bàn chuyện hoà giải.
Tôi không muốn bàn về một sự hoà giải viễn vông. Hoà giải mọi mâu thuẫn
trong lòng dân tộc là chuyện tất nhiên mà chúng ta cần làm để vực dậy
chí khí dân tộc. Nhưng vấn đề là ai hoà giải với ai và hoà giải cần
những điều kiện nào. Ý tiếp theo mà anh admin của Dân Luận đưa ra có thể
giúp chúng ta rõ hơn về ý hướng của anh: “Nếu chính quyền không chịu
làm điều đó, chính chúng ta phải xắn tay vào mà làm”.
Chính quyền độc tài hiện nay là kẻ tội đồ của dân tộc, họ không bước
xuống, quỳ gối mà cầu xin tha thứ, mà vẫn đứng trên ngôi cao tiếo tục
đàn áp những người bày tỏ ý kiến khác biệt. Vậy chúng ta “xắn tay” cao
đến mức nào mới có thể “hòa giải” được đây? Không lẽ bảo những nạn nhân
của họ phải chạy đến van xin để cầu hoà?
Nói đơn giản, tài sản - nhà cửa của người dân miền Nam, mà chính quyền
Cộng Sản tịch thu rồi chia lại cho cán bộ nhân viên của họ, có được trả
lại cho chủ cũ chưa? Hồ sơ này giải quyết ra sao? Chính quyền đã làm gì
để bồi thường những mất mát nhân mạng và tổn thương tinh thần đã gây ra
cho các gia đình quân cán chính miền Nam? Chính quyền Cộng Sản đã có lộ
trình thực tiễn nào cho việc dân chủ hoá đất nước, trả tự do cho tù nhân
lương tâm, bồi thường cho các nạn nhân nhân quyền và dân oan? Nếu chính
quyền độc tài không làm những điều này thì ai là người có khả năng làm?
Xin nhớ sự hoà giải trong tâm thức chỉ đến khi có những biện pháp hoà
giải và khắc phục hậu quả trên thực tế.
Công lý không được thực thi, mong gì hòa giải?
Nếu chính quyền độc tài bị giải thể, còn lý do gì để người Việt ở hải
ngoại giữ sự căm ghét chính quyền? Khúc mắc lớn nhất hiện nay là cuộc
xung đột mang tính hệ thống về cả giá trị lẫn quyền lợi giữa chính quyền
Cộng Sản Việt Nam với đại đa số người Việt quốc nội và hải ngoại. So
với xung đột hệ thống này, những mâu thuẫn cục bộ khác đều dễ giải quyết
hơn. Tôi tin rằng người Việt Nam còn nhiều mâu thuẫn. Hòa giải ư? Cần
thiết chứ, những mâu thuẫn luôn cần sự hòa giải. Nhưng xin nhớ, chỉ có
mâu thuẫn mới cần hoà giải còn tội ác thì chỉ cần được đưa ra toà án
công lý. Và sau khi chế độ độc tài này ra đi, chúng ta hoàn toàn có điều
kiện để hoá giải các mẫu thuẫn về lịch sử, tôn giáo, vùng miền, sắc
tộc… Còn bây giờ, nhắc đến hòa giải thì chỉ có thể nói đến một khả năng:
chính quyền độc tài phải giải thể!
Chúng ta có thể tự cảm thấy mình nhân văn khi kêu gọi hoà giải. Nhưng
nếu chúng ta không phân tích rõ ràng và kỹ lưỡng về các điều kiện để hoà
giải mà chỉ nói với tâm thức một người may mắn không phải chịu tổn
thương thì vô tình chúng ta trở thành kẻ tàn nhẫn lên giọng cao đạo
trong khi vết thương của nạn nhân chưa lành. Vài lời dong dài xin chia
sẻ với quý thân hữu và độc giả gần xa. Xin cầu nguyện cho nhau trong
những ngày kỷ niệm đen tối này.
Buôn Hô, 22/4/2015
Lá thư cần lắng nghe của một trí thức trẻ
Hoàng Vi Kha (Danlambao) - Chị quan tâm thân mến,
Nhiều lần chị khuyến khích em hãy viết lại những gì đã xảy ra cho bản
thân và gia đình kể từ khi Cộng Sản chiếm trọn giải đất Việt Nam. Cũng
đã nhiều lần em đã thử viết nhưng đều rơi vào cùng một khoảng tối mà
trong đó là trùng trùng điệp điệp những ám ảnh những âm thanh kêu rú rợn
người. Chị ạ, ngày tháng của thời gian cứ dần dần chất chồng lên quá
khứ. Điều đó khiến cho chúng ta tạm nguôi ngoai với những vết thương
trong lòng. Nhất là mỗi khi chúng ta lại bị cuốn vào nhịp sống vội vã
của hiện tại. Nhưng mỗi lần có ý định viết là mỗi lần phải gác lại nhịp
sống bên ngoài, thổi đi lớp bụi thời gian của quá khứ để từng vết thương
hiện lên, soi rõ mồn một. Có cái đã thành sẹo. Có cái vẫn còn ung mủ.
Vẫn nhói đau khi chạm đến chị ạ. Thử nghĩ, dưới 40 năm dài đó, nếu khai
quật lại thì đếm làm sao cho hết những gì mà Cộng Sản đã gây hại cho quê
hương, cho dân tộc hả chị?
Như một trong những nhân chứng của lịch sử, nếu em có khả năng để ghi
chép lại tất cả cho con cháu mai sau được biết thì chị ơi, đúc kết lại
những gì đã xảy ra chắc chắn sẽ trở thành một cuốn sách dày. Đó chỉ là
một cá nhân. Nếu như tất cả chúng ta, những nạn nhân và chứng nhân đều
cùng viết, cùng kể thì giấy mực nào cho đủ. Và cuốn trường thiên lịch sử
ấy sẽ dài thêm hơn nếu cái chế độ Cộng Sản đó vẫn còn tiếp tục tồn tại
cai trị đất nước. Bởi thế, thay vì viết vào lúc này, em lại chỉ muốn
Hành Động vào lúc này. Một Hành Động cụ thể nào đó để có thể đóng góp
vào việc xóa bỏ, tiêu diệt hoàn toàn Cộng Sản. Khi mà bọn chúng đã không
còn thì chừng đó ngồi chép lại quá khứ cũng không muộn. Việc cần thiết
ngay lúc này đây nếu chúng ta không đồng lòng để cùng hành động, thì
chắc chắn sẽ muộn với những vấn đề nghiêm trọng hơn. Ví dụ, âm mưu bán
nước cho Tàu Cộng!
Sáng nay, em lại nhận tin nhắn của chị hỏi thăm về việc góp một tiếng
nói. Em không trả lời chị ngay được vì em đang cùng chúng bạn tập trung
vào những vận động đấu tranh đòi hỏi tự do, nhân quyền cho Việt Nạm mà
cách hữu hiệu nhất để có được tự do và nhân quyền là xóa bỏ độc tài Cộng
Sản tại Việt Nam. Cạnh đó, tụi em cũng dành nhiều thời giờ để biên soạn
các tài liệu bằng Anh ngữ ngỏ hầu giúp cho những sắc dân khác biết rõ
về lịch sử Việt Nam, hiểu đúng hơn về những gì đã và đang xảy ra kể từ
khi Cộng Sản thành hình cho tới ngày nay. Không ít người đã bị dẫn dắt
lệch lạc bởi Cộng Sản đã lừa dối, đã bẻ cong lịch sử. Đối chọi với guồng
máy tuyên truyền thông tin của chúng thì hàng trăm ngàn người Việt
chúng ta cần phải đánh tan cái bóng đêm gian trá, ngụy tạo của Cộng Sản.
Cần phải vạch ra tội ác hủy diệt đồng loại của chủ thuyết Cộng Sản và
những kẻ theo chủ thuyết đó. Có vậy, nhân loại mới tránh khỏi những tai
kiếp tương tự và đất nước Việt Nam, dân tộc Việt Nam mới bứt phá mọi
xích xiềng oan ức và bước dần tới ánh sáng tự do, dân chủ. Nghĩ tới đó,
em nhớ tới lời chị khuyến khích viết “Cộng Sản và Tôi”. Em nghiệm ra
rằng những bài viết ấy cũng có tác dụng không nhỏ cho công cuộc giải tán
Cộng Sản tại Việt Nam. Mỗi người dân chúng ta hãy là những trang sử
sống và chân thật để đưa Cộng Sản ra trước tòa án nhân loại. Không trang
sử nào thật hơn, khi do chính người dân đóng góp viết thành. Những nạn
nhân còn đang sống đây sẽ là những chứng minh xác thực và hùng hồn nhất
để đập tan các sách vở tuyên truyền của CS và bè lũ thân CS phải không
thưa chị.
Em vừa soạn xong bài giảng cho học trò ngày mai. Đã khuya. Qua ô cửa sổ, nhìn trăng em chợt nhớ bài thơ của anh hùng Đặng Dung “quốc thù vị báo đầu tiên bạch. Kỷ độ long tuyền đới nguyệt ma”. Thắm
thoắt đã 40 năm rồi chị. Tóc cũng đã bắt đầu phai màu. Thế mà “quốc
thù” vẫn chưa báo được. Nghĩ tới thì lòng lại rối bời bao trăn trở. Lại
một đêm thao thức. Không thể vỗ giấc, nên em quyết định viết thư cho chị
đây.
Chị ơi,
Hồi tưởng lại những gì đã xảy ra kể từ ngày 30 tháng 4 năm 1975 thật ra
không phải ai cũng làm được. Có nhiều đau thương, căm phẫn khiến cho
không ít người bị hậu chấn tâm lý. Để sống tiếp, họ đã rất vất vả mà
vượt qua. Cho nên nếu bảo họ hãy ghi chép lại thì chẳng khác nào một lần
nữa khơi sống những cơn chấn động kinh hồn ấy. Những gì đã xảy ra với
gia đình hay cá nhân em chỉ là một đơn vị nhỏ trong số hàng trăm ngàn
đau thương, bi hận do bóng đen Cộng Sản phủ xuống chung cho cả dân tộc.
Kể về sự lường gạt để xua cha em vào tù cải tạo, kể về những thủ đoạn
dọa nạt để cướp nhà, cướp tài sản, kể về những chính sách cai trị như hộ
khẩu, hợp tác xã, đánh tư sản, đi bán chính thức, vùng kinh tế mới
v.v... những tội ác đó, em nghĩ nhiều cảnh đời khác hẳn sẽ đánh động
lương tri nhân loại toàn cầu hơn của em. Trong lá thư gởi chị đêm nay,
em chỉ muốn chia sẻ cùng chị một khía cạnh mà công việc của em hiện tại
của em có liên quan. Đó là giáo dục và văn hóa.
Trong bất kỳ thể chế nào, văn hóa và giáo dục luôn quan trọng. Văn hóa
là nguồn cội của dân tộc. Còn văn hóa là còn dân tộc. Chính vì thế từ
xưa, khi Tàu sang xâm lược và đô hộ đất nước ta, bọn chúng luôn có dã
tâm hủy diệt văn hóa Đại Việt, đem văn hóa Tàu sang thâm nhập. Giết một
người hay mười người, vẫn còn hàng trăm, hàng ngàn người khác thay nhau
vùng lên. Nhưng nếu hủy diệt hoàn toàn văn hóa thì theo thời gian, Đại
Việt sẽ bị đồng hóa, sẽ bị xóa sạch. Giáo dục cũng vậy. Tương lai của
một quốc gia tùy thuộc vào mục đích và cách thức giáo dục qua các thế
hệ. Dưới thời Cộng Sản, không chỉ riêng tại Việt Nam, mà ở khắp nơi,
đảng Cộng Sản đã cố gắng phá hủy đi di sản văn hóa dân tộc, tạo ra một
nền văn hóa mà chúng gọi là “văn hóa mới XHCN” và giáo dục con người trở
thành “con người mới XHCN”.
Không khác gì các thời bạo chúa bên Tàu, hẳn chị còn nhớ, sau 1975, Cộng
Sản đã hủy diệt sách vở in ấn trước 1975 tại miền Nam Việt Nam. Dưới
chỉ thị “xóa bỏ tàn dư văn hóa chế độ cũ”, chúng thẳng tay “triệt để”
xóa bỏ tất cả nền nếp phong cách sống của người Sài Gòn và thay bằng
những cách sống theo “con người mới XHCN”. Một mặt chúng lùa văn nghệ sĩ
trí thức, kể cả các thầy cô giáo đi học cái gọi là “lớp bồi dưỡng chính
trị”. Có không ít người còn bị vào tù. Một mặt chúng đã truy quét và ép
buộc người dân miền Nam (nhất là tại Sài Gòn) phải đem nộp tất cả sách
báo, phim ảnh, băng nhạc để hoặc bị chất thành đống thiêu hủy hoặc đưa
vào các nhà máy tái chế. Các tác phẩm của tác giả quốc tế cũng cùng số
phận. Kệ sách ở nhà em trở nên lạnh lẽo và rồi ra ngoài chợ trời để đổi
lấy tiền cơm gạo. Em đã khóc tức tưởi khi bị tịch thu những quyển truyện
thiếu nhi như “Những Tấm Lòng Vàng”, “Vô Gia Đình”, “Ngàn Lẻ Một Đêm”
v.v... Bà cán bộ đã đỏ bừng mặt mắng đứa con nít như em xối xả về cái
tội “tàng trữ văn hóa đồi trụy”. (Bây giờ thì chúng cho in lại các sách
truyện này… không một lời đính chính, xin lỗi – đó là hành vi của bọn vô
văn hóa).
Em còn nhớ, học sinh bị ép mua các báo do đảng phát hành. Tuổi nhi đồng
thì có “báo Nhi Đồng”. Tuổi thiếu nhi thì có báo “Khăn Quàng Đỏ”. Tuổi
thiếu niên thì có báo “Thiếu Niên Tiền Phong”. Tuổi thanh niên thì có
“Tuổi Trẻ” và “Thanh Niên”. Đó là những tờ báo đầy bài vở hình ảnh tuyên
truyền, xảo trá, đầu độc con người ngay từ lúc còn thơ. Em không quên
được các mẫu truyện tranh qua hai nhân vật mang tên “Măng Non và Mỏ Lết”
(đại diện cho cái búa và cái liềm – 2 giai cấp lãnh đạo của Cộng Sản)
Giải trí cho tuổi thơ chỉ toàn nhan nhãn hình ảnh chống Mỹ Ngụy và tôn
thờ lãnh tụ Cộng Sản. Sách giáo khoa ở trường đưa vào từ Hà Nội. Không
chỉ các bài tập đọc mà ngay cả các bài toán, tụi em thời đó phải biết
căm thù Mỹ Ngụy và “giết Mỹ, giết Ngụy”. Không có bộ môn đạo đức công
dân, mà thay vào đó là các bài đạo đức phải tôn thờ lãnh tụ hơn cả ông
bà, cha mẹ. Khó quên được những bài học thuộc lòng nhồi sọ ngợi ca ông
Hồ, ông Lê Nin, ông Stalin. Văn hóa dạy con người yêu kính gia đình, cha
mẹ đã bị thay bằng loại văn hóa XHCN để chỉ biết “còn đảng, còn mình”.
Từ đó, giải thích được hành vi của những kẻ bán đứng, đấu tố cha mẹ,
người thân, dẫm đạp lên đồng bào để được tiến thân.
“Học đi đôi với hành”, câu khẩu hiệu đó họ đã áp dụng không vào mục đích
mở mang kiến thức mà cho các thủ đoạn cai trị, phục vụ chế độ. Tuổi trẻ
học và hành để trở thành một thứ công cụ trung thành với đảng. Em còn
nhớ, hằng tuần có hai ngày “sinh hoạt lớp” là lúc các học trò phải báo
cáo sinh hoạt của cha mẹ, gia đình, của bạn bè trong lớp. Đấu tố cha mẹ
và người thân càng nhiều càng được các tràng pháo tay tán thưởng, ngợi
khen. Riêng để được công nhận là một học sinh giỏi, trẻ em còn phải tham
gia đều đặn các chương trình “Kế hoạch nhỏ” tại trường và nơi cư ngụ.
Chẳng hạn như “sinh hoạt hè”, “nộp giấy vụn”, “nộp ve chai”, và bắt buộc
phải tham gia các cuộc “lao động”. Em không quên mỗi khi nộp “kế hoạch
nhỏ” không đủ là bị nhà trường lôi ra “kiểm điểm”. Các biện pháp khiển
trách càng nặng nề hơn đối với các gia đình như em bị liệt vào “thành
phần ngụy quân, ngụy quyền”. Mỗi lần gần tới ngày nộp giấy, nộp ve chai,
anh em trong nhà đôi khi cãi vả nhau vì muốn giành cho đủ giấy, đủ chai
để nộp cho nhà trường tránh bị “kiểm điểm”. Khi không còn giấy hay chai
thì nhà trường bắt cha mẹ vào đóng tiền thay thế. Họ cứ quy theo giá
bán “kilo” tại các vựa ve chai, giấy vụn rồi theo đó bắt cha mẹ phải nộp
tiền cho đủ. Đâu phải lúc nào cũng có tiền cho họ khi mà tiền cơm áo
hằng ngày còn túng thiếu. Thế là bản kiểm điểm cứ xếp dày thêm ở phòng
“đoàn đội” của trường và không thể nào đạt được danh vị học sinh giỏi.
Họ xếp hạng học sinh theo 4 mặt: học tập, hạnh kiểm, lao động và phong
trào. Học sinh phải đạt danh hiệu “cháu ngoan bác Hồ” mới được điểm
“hạnh kiểm” loại Tốt và đủ “tiêu chuẩn” là học sinh giỏi. Bằng không, dù
học sinh học rất xuất sắc, dù rất chăm ngoan, hiền lành vẫn chỉ được
xếp vào loại học sinh “khá”. Tuổi thiếu nhi các em bị bắt và bị dụ để
trở thành “đội viên đội thiếu niên tiền phong HCM”. Các em phải đeo cái
khăn quàng đỏ, phải học “nghi thức đội” và trên hết là giữ “lời thề với
đội”: tuyệt đối trung thành với đảng, đoàn và đội. Ở độ tuổi thiếu niên,
học sinh phải “phấn đấu” vào “đoàn thanh niên CS HCM”. Không ít bạn bè
em khi đó vì để được kết nạp đoàn cho dễ dàng trong việc học hành và thi
cử mà đã phải gần như trở mặt với cha mẹ “ngụy”. Năm em thi vào đại
học, nhà nước CSVN đã có qui định xét lý lịch 3 đời học sinh từ đó họ
phân ra làm 4 nhóm và 13 “đối tượng”. Các đại học sẽ có các điểm nhận
học sinh dựa theo nấc thang lý lịch chứ không theo trình độ học vấn. Dĩ
nhiên đám “con ông cháu cha” luôn hàng đầu và đám con “ngụy” luôn ở hàng
tận cùng của một xã hội luôn rêu rao “không phân biệt giai cấp”.
Chị ơi, viết những dòng này cho chị mà trong ký ức em nườm nượp hiện lại
biết bao hình ảnh thời đó. Cộng Sản đã muốn tẩy não, muốn xóa sạch văn
hóa dân tộc thay bằng văn hóa XHCN, muốn đào tạo ra những thế hệ “hồng
hơn chuyên”. Những thế hệ càng ít kiến thức mà lại càng nhiều tham vọng
thì càng dễ cho chúng điều khiển. Chúng tin rằng con người từ khỉ mà ra
thì chúng cũng có nhiều thủ đoạn “trồng người” để biến con người trở
thành thú. Em nghĩ rằng chúng đã thành công khi mà nhìn vào xã hội ngày
nay thấy rõ văn hóa, đạo đức đang suy đồi, tụt dốc. Không chỉ thế các
thủ đoạn “trồng người” đang thay đổi để “cập nhật” không chỉ hủy đi nên
tảng đạo đức dân tộc mà còn nguy hiểm như xì ke, sản xuất ra những thế
hệ chỉ biết sống “vô cảm” – hay đúng hơn là vô trách nhiệm với quê
hương, với xã hội.
Muốn đào thải cái xấu, cải thiện xã hội thì phải cần có những con người
hội đủ cả hai mặt kiến thức và đạo đức. Cả hai mặt này đều bị Cộng Sản
thao túng để biến người thành thú cho chúng cai trị. Bởi như chị cũng
hiểu, khi có kiến thức, người dân sẽ dễ dàng nhận ra chánh tà, nhận ra
nhiều điều cần thiết mà người dân phải được hưởng, được tôn trọng. Hơn
thế, càng có kiến thức cao, người dân càng không chỉ hiểu được các
nguyên nhân mà còn biết tìm ra cách phá giải các vấn đề. Đây chính là
điều mà Cộng Sản luôn lo ngại, cho nên chúng không chỉ muốn “ngu dân” mà
còn dùng các đòn đàn áp, nhầm tạo ra nỗi sợ hãi không dám vùng lên.
Nhưng chính kiến thức là chìa khóa cho người dân phá giải được nỗi sợ
hãi. Trong bài giảng của em, có nhiều lần dùng hình ảnh loài rắn độc để
nói về điều này. Nếu con người không có kiến thức về loài rắn, không tìm
ra được phương pháp chế ngự và tiêu diệt thì con người sẽ luôn sống
trong sợ hãi loài rắn. Con rắn độc Cộng Sản sợ bị phát hiện ra tử huyệt
và cách tiêu diệt. Vì thế 40 năm qua, Cộng Sản đã rấp tâm theo lối giáo
dục bưng bít và nhồi sọ.
Thưa chị, em nghĩ, bên cạnh việc vạch ra tội ác của Cộng Sản thì việc
vạch ra các cách phá giải các thủ đoạn của Cộng Sản là một điều cần
thiết. Chúng ta cần phải giúp nhau, giúp thế hệ sau có kiến thức đúng và
có tâm hồn hướng thiện – quay về với cội nguồn đạo lý dân tộc. Từ đó,
chúng ta sẽ vượt qua được nỗi sợ hãi hoặc “cai” dứt hẳn được các thói
sống thờ ơ, ích kỷ, kể cả dục vọng tham tàn do Cộng Sản cày vào việc
“trồng người” của chúng.
Đêm đã gần tàn. Qua cửa sổ nhỏ nơi bàn viết, em có thể nhìn thấy chút
ánh dương đang khấp khởi phía xa. Vầng trăng đêm qua làm em liên tưởng
tới bài Thuật Hoài của Đặng Dung đã khuất dạng. Nhìn lại quê hương. 40
năm đã quá đủ dài trong bóng đêm của Cộng Sản. Nếu tính luôn cả thời
gian chúng đoạt chính quyền và cai trị miền Bắc thì còn dài hơn. Nhưng
nếu mỗi chúng ta không thức tỉnh và đánh thức nhau cùng hành động, thì
bóng đêm ấy sẽ còn tiếp tục bao phủ. Em chợt nhớ chị từng nói cùng em “thà đốt lên dù chỉ một que diêm còn hơn ngồi nguyền rủa bóng tối”.
Em hy vọng rằng khoảng thời gian qua đã quá đủ để thế hệ người Việt
chúng ta đồng loạt nổi lửa thiêu rụi bóng tối. Và như em từng chia sẻ
cùng chị, đối với em, tất cả phải bắt nguồn từ giáo dục: kiến thức và
văn hóa. Những bức tường do Cộng Sản xây lên bưng bít kiến thức, che đậy
sự thật làm thành trì bảo vệ chúng sẽ phải bị đập phá. Những bụi gai
tua tủa của loại văn hóa phi nhân bản, phi dân tộc do chúng gieo mầm
giam hãm nhân bản phải bị tiêu diệt. Trong công cuộc đấu tranh chung
này, em xin chọn đóng góp trong việc khai phóng tri kiến thức con người.
“Vì lợi ích 100 năm trồng người” câu nói mà ông Hồ đã dùng từ thầy Tàu
của ông ta để cố công tạo ra “con người mới XHCN”, hay đúng hơn là những
con thú, những rô-bốt phục vụ đảng CS sẽ phải chấm dứt. Bởi em tin,
tiềm ẩn trong không ít người Việt vẫn còn không ít phần hồn Việt Nam và
những tâm hồn đó – như những que diêm sẽ giúp nhau, liên kết nhau đốt
lên một mặt trời của công lý, bác ái, tự do, và dân chủ.
Chúc chị luôn bình an và thành công trong những “cuộc chơi” (chữ của
chị) mà chị đang tham gia đối đầu với thứ bóng tối đầy đe dọa ấy.
Chúng ta không cô đơn, đúng không chị.
Hồi ức- Sau 30/4/1975, tôi đi thăm nuôi chồng!
Nguyễn Thị Ngọc (Danlambao) - Sau
khi chồng tôi bị áp giải vào Công an huyện một thời gian, tôi cố nghe
ngóng xem người ta đã đưa anh đi đâu nữa rồi, nhưng hoàn toàn mất tin
tức. Về sau, tôi mới nghe biết anh đã bị tống vào trại tạm giam tỉnh.
Hàng ngàn quân-cán-chính VNCH cũng vừa bị đẩy vào đây sau ngày
30/4/1975, ngày Tướng Dương Văn Minh ra lệnh buông súng đầu hàng.
Bằng những bản chính sách năm điểm, bảy điểm, chín điểm, mười điểm…,
người ta cam kết hứa hẹn thời gian học tập cải tạo “ba tháng”. Nhưng rồi
ba tháng trôi qua, “ngụy quân" được thả chỉ vài anh lính tò te mới cầm
súng; còn "ngụy quyền" thì cũng chỉ vài ba anh chị đánh máy hay chạy
công văn với một số ít người lính hay nhân viên cấp thấp đã giải ngũ hay
nghỉ việc từ cả chục năm về trước. Người được thả phải biết ơn đảng
“chiếu cố khoan hồng”. Về địa phương không được nói ra hay kể lại bất cứ
những gì mắt thấy tai nghe trong nhà tù.
Dầu vậy, nhiều chuyện lỡ khóc lỡ cười trong các trại giam lúc bấy giờ
vẫn được truyền miệng rộng khắp. Theo thông cáo, người đi “học tập cải
tạo” phải mang nộp cho trại tiền và gạo ăn cho 3 tháng. Bọn cai tù ở
tỉnh tôi thu gạo, thu tiền, nhưng không cho mở bếp nấu ăn trong nhà tù.
Không biết bằng hợp đồng hay bằng lệnh bắt buộc, dân các thôn ấp xung
quanh trại luân phiên nhau nấu cơm và đưa cơm vắt vào tù cho tù nhân.
Mỗi ngày, tới giờ ăn, xe lam ba bánh chở cơm vào trại giam. Cai tù tập
họp tù nhân ngồi bệt giữa sân để nghe chúng mắng nhiếc chửi bới nham nhở
trước khi phát cho mỗi người tù một vắt cơm nho nhỏ kèm theo một gói
muối hầm!
Suốt mấy tháng bặt tin chồng con, các bà mẹ và bà vợ vô cùng sốt ruột,
chạy ngược chạy xuôi vô vọng. Nhưng rồi đâu đâu cánh đàn bà cũng liều
làm dữ, đòi phải được đi thăm chồng con. Sau đó, có tin truyền miệng:
Chính quyền địa phương bắt đầu cấp giấy phép cho thân nhân đi “thăm nuôi
tù cải tạo”.
Khẩu chiến với cáo chồn.
Một ngày vào cuối tháng Tám 1975, sau khi nắm được giấy phép thăm nuôi
chồng, tôi thuê xe thồ Honda hai bánh chở tôi đi thẳng tới cổng trại tạm
giam tỉnh, dĩ nhiên có mang theo ít thức ăn phù hợp với hai từ THĂM và
NUÔI.
Mới tờ mờ sáng đã đông nghẹt các bà các chị gồng gánh tụ tập trước cổng
nhà giam, chờ thăm con, thăm chồng. Cai tù thu hết giấy phép thăm nuôi,
lùa tất cả chúng tôi dồn vào một khu đất trống bên ngoài cổng nhà tù,
bảo ai nấy ngồi im chờ gọi tên. Bọn cảnh vệ kết thành vòng đai vây bọc
chúng tôi, trong khi một vài tên khác len vào giữa chúng tôi, dò xét
từng người!
Các bà, các cô lúc ở địa phương không dám hé răng vì sợ lỡ lời dễ bị
khép tội phản động, và như vậy chồng con mình khó thoát vòng lao lý. CS
lúc bấy giờ cài đầy ăng-ten mật thám khắp Miền Nam Việt Nam khiến người
dân không còn ai tin ai để mà trao đổi điều gì riêng tư hay gửi gắm niềm
tâm sự. Vợ chồng nghi kỵ nhau, cha mẹ sợ cả con cái mình, anh em, họ
hàng, bạn hữu mất hết tình nghĩa với nhau dưới bầu trời u ám của quyền
lực Satan! Chưa có chế độ nào làm cho người dân sợ nhau đến mất tin nhau
như vậy.
Chị em chúng tôi, những người mẹ, người vợ tù đều mang nặng nỗi ức chế
vì không thổ lộ được những gì mình muốn tỏ bày. Bây giờ gặp gỡ nhau,
cùng một cảnh ngộ, cùng một nỗi đau, các bà các chị hết e dè, tha hồ
trút cạn cho nhau những ấm ức dồn nén bấy lâu nay. Một chị liều lĩnh
châm ngòi pháo đầu tiên ném thẳng vào mặt bọn cán bộ trại giam: “Các người bảo là học tập ba tháng! Đã hơn ba tháng rồi các người vẫn còn nhốt con người ta trong nhà tù mà bảo là học tập à?”
Một chị khác la lên: “Đồ cái thứ chính phủ - chú phỉnh!”
Các bà, các chị nhao nhao! Bọn cảnh vệ chĩa nòng súng vào đám phụ nữ.
Chúng la hét, buộc chúng tôi ngồi im, câm mồm! Cai tù dọa đóng cổng nhà
tù, đuổi các bà về, “không cho thăm nuôi thăm dưỡng” gì hết. Một tên cai
tù tuổi trung niên chắp tay sau đít đi qua đi lại oai phong lắm. Hắn
luôn mồm nhai đi nhai lại như nhai giẻ rách cái bài học thuộc lòng “tội ác của bọn Mỹ ngụy và chính sách khoan hồng của cách mạng”.
Cũng một luận điệu, một lối nói gắt gỏng mất dạy như bọn cán bộ “giảng
bài” ở xã phường mà chúng tôi từng nghe hằng đêm từ sau 30/4/1975.
Bọn công an có súng, có đạn và hùng hổ như cọp đói chực vồ nuốt mồi.
Chúng tôi đành “chịu thua” chỉ vì đang sốt ruột nóng lòng sớm nhìn tận
mặt chồng con.
Cái bàn rộng đặt giữa sân nhà giam dùng làm “ranh giới” ngăn cách người
thăm với người được thăm khi gặp nhau. Nhất nhật bất kiến như tam thu
hề. Thế mà hai bên mặt giáp mặt xa xa nhìn nhau chưa nói trọn câu đã bị
phân cách! Đúng năm phút, anh thì bị lôi về phòng giam, chị thì bị đuổi
ra khỏi cổng nhà tù!
Những món “thăm nuôi” nào bị cai tù cho là “đồ ăn nuôi béo kiểu tư sản”
đều bị hắt đổ dưới nền đất tại chỗ. Họa hoằn lắm mới có một hai cảnh vệ
còn chút tình người, đã đưa trả cho người đi thăm nuôi mang về. Một chai
nước mắm pha chanh ớt cũng bị kết là “đồ ăn tư sản.” Những lọ thuốc ho,
thuốc cảm thì bị tịch thu, bảo đó là thuốc độc “âm mưu đưa vào dầu độc cán bộ hoặc cho tù nhân uống chết để đổ tội cho cách mạng.”
Các loại thức ăn “khả nghi” cũng như các loại bánh trái đều bị cai tù
cắt làm ba làm bốn, hoặc dùng que cây hay cọng thép thọc vào quậy nát!
Bọn cai tù chửi bới xỏ xiên:
- Cách mạng đâu để chồng con các người đói như bọn Mỹ-ngụy ác ôn đã từng bỏ đói cán bộ “Cách mạng”.
Chị em chúng tôi vô cùng hậm hực và chua xót trước những lời mắng mỏ cọc
cằn xấc xược thô lỗ của bọn cai tù CS dốt nát mất dạy. Nhưng là kẻ thất
thế, chúng tôi biết làm gì hơn!
Sau lần thăm nuôi này, hầu hết các cựu viên chức và sĩ quan bị chuyển
trại, đưa sâu vào rừng, xa hẳn khu dân cư. “Trại cải tạo lao động” được
dựng lên ở đó. “Trại cải tạo”? Cải tạo ai? Cái tạo cái gì? Không! Đó là
“trại tù khổ sai”, trừng trị những người thất thế… Không cần tắm máu.
Chỉ cần hành hạ! Vắt cho cạn kiệt sức lực!
Rừng sâu núi thẳm.
Trại “cải tạo lao động” nằm sâu trong khu rừng già thượng nguồn một con
sông của tỉnh. Người tù tự đốn cây, phát quang, dựng lều trại để ăn ngủ
và lao động. Đây là chỗ núi non hiểm trở, tù nhân không dễ gì tìm ra ngõ
ngách mà trốn trại. Hơn nữa, người tù bị chuyển trại bí mật giữa đêm
khuya trên những chuyến quân xa molotova phủ vải bạc kín mít. Lộ trình
di chuyển ngoằn ngoèo, lúc lên đèo, khi xuống dốc, có lúc lại băng qua
các khe suối, người tù không đoán được xe chở mình đi về đâu. Đường đi
lẽ ra chỉ mất độ 2 tiếng đồng hồ, nhưng xe chuyển tù chạy lòng vòng cả
đêm, mãi gần sáng mới tới nơi.
Suốt hai tháng đầu, vợ con các “tù cải tạo” không biết chồng cha mình bị
giam giữ ở đâu. Các bà mẹ và các bà vợ thương con, thương chồng nhất
quyết liều chết lặn lội dò tìm cho ra ngõ ngách dù phía CS cố tình giấu
kỹ. Các bà các chị không thua, cuối cùng đã tìm ra trại mới của người
thân.
Không bỏ đói?
Trong “trại cải tạo”, người tù ban ngày lao động nhọc nhằn, ban đêm mặc
muỗi rừng đốt, phải ngồi hàng giờ nghe bọn cai tù giảng bài chính trị
“đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”. Bò cạp, rắn rết và thú dữ đêm nào
cũng rình rập.
Cai tù dựng lên “tổ anh nuôi” từ trong đám tù nhân lo việc nấu ăn cho
anh em mình. Họ chỉ lo chuyện bếp núc. Sổ sách chi thu và việc cân đo
đong đếm, giá cả thì đều do cai tù quyết định. Gian lận từ A đến Z, cân
non cân già, tráo đổi chất lượng hàng, tráo đổi giá cả. Rốt cục, tiêu
chuẩn ăn uống của người tù đã thấp, càng bị hạ thấp. Cụ thể, tiêu chuẩn
khẩu phần ăn quy định là 15kg mỗi tháng (1) cho mỗi tù nhân gồm phân nửa
là gạo và phân nửa là độn khoai hay bo bo. Cái tiêu chuẩn này (không
biết do lệnh trên hay do cấp dưới tự tung) “cải biên” thành 1 phần gạo +
9 phần khoai hay bo bo. Gạo là gạo mốc. Khoai là củ mì (sắn) hay khoai
lang hư thối phơi khô nấu cho heo (lợn) mua giá cực rẻ ngoài chợ trời.
Bo bo từ Liên Xô thì còn nguyên vỏ, ăn vào thế nào, thải ra thế ấy.
Tất cả mọi loại rau trái và cả lúa gạo trong trại đều do người tù làm
ra. Những gia súc: bò, gà, heo, vịt cũng đều từ bàn tay người tù vỗ béo.
Nhưng còn lâu người tù mới được hưởng những “thành quả lao động do tay
mình làm ra”. Cái khẩu hiệu phù phiếm và lừa lọc “lao động là vinh
quang” phải chăng đã là phần thưởng?
Y sĩ rừng rú và chiếc hái tử thần.
Có tin dịch sốt rét ác tính hoành hành dữ dội ở trại tù. Nhiều tù nhân
ngã chết không kịp trối và đều được tặng một chiếc áo quan gỗ xẻ thô sơ
đóng ráp vội vàng, giao cho tù hình sự khiêng đi chôn lấp sơ sài giữa
rừng già, không để lại dấu vết gì, đánh lạc hướng người nhà nạn nhân tìm
cách cướp xác!
Cả trại tù chỉ có mỗi một phương tiện chuyên chở duy nhất là chiếc máy
cày cũ kỹ đoạt của nông dân. Chiếc máy cày này bọn cai tù triệt để khai
thác, sử dụng tối đa vào mọi công việc y như họ khai thác sức lao động
của tù nhân. Phụ tùng máy móc hư hỏng hay thậm chí chưa hư hỏng vẫn bị
bọn chủ mới tháo gỡ đem đi bán phế liệu kiếm tiền bỏ túi, rồi đi mua phụ
tùng cũ hoặc thứ phụ tùng dởm do Trung Cộng chế tạo thay thế. Chiếc máy
cày vốn đã ỳ ạch, càng trở chứng “nằm vạ” liên tục. Hỏng thì sửa. Sửa
xong lại hỏng. Càng có lý do để sửa đi sửa lại mãi… rút được nhiều tiền
bỏ túi!
Bệnh viện của tỉnh ở cách xa trại giam hàng chục kilômét. Trong khi đó,
rất hiếm khi chiếc máy cày rỗi việc hay có thể nổ máy để chở bệnh nhân
đi cấp cứu. Bệnh nhân nào được máy cày chở đi cấp cứu là tốt số! Nhưng
cũng khó mà hy vọng sống sót sau khi được “nhập viện”. Bởi lẽ những “y
bác sĩ cách mạng” tay nghề rừng rú, vừa dốt về y khoa vừa tắc trách về
nhiệm vụ, thậm chí luôn luôn vòi vĩnh cho được tiền đút lót mới chữa
trị. Trong khi các y bác sĩ có lương tâm và lành nghề của VNCH, kẻ thì
bị đuổi việc, người thì đã trốn ra ngoại quốc, một số người khác bị tống
vào trại giam. Những vị bác sĩ được “lưu nhiệm” thì lại chỉ được giao
các phần vụ không thuộc chuyên môn của mình.
Xã hội không còn nữa bóng dáng “lương y như từ mẫu” mà dẫy đầy những tên
lưu manh sát nhân đội lốt thầy thuốc! “Gian y hơn ác mẫu!”
Dụng cụ y khoa và âu dược trước 30/4/1975 được trang bị đầy đủ cho các
bệnh viện ở Miền Nam VN nay trở thành chiến lợi phẩm của tân chế độ, hầu
hết bị tuồn về miền Bắc xhcn. Số còn lại thì hoặc bị phá hỏng hoặc bị
sử dụng bừa bãi khiến chúng nhanh chóng trở thành hàng phế liệu, giấy
vụn, nhựa vụn, thủy tinh vụn và sắt vụn.
Thuốc tây trong bệnh viện, người ta đua nhau vơ vét mang đi bán chợ trời
với giá cắt cổ. Nhiều khi lại vớ phải thuốc quá hạn, thuốc giả, tiền
mất tật mang!
Bệnh ruột thừa, trước 30/4/1975, giải phẫu dễ dàng như mổ thiến gà,
nhanh chóng và an toàn, bây giờ cứ 100 bệnh nhân mổ ruột thừa thì đã
trên dưới 8-9 chục người lăn ra chết bất đắc kỳ tử do “thầy thuốc rừng”
mổ xẻ vô trách nhiệm, mất nhân tính và mất cả vệ sinh cũng như mù tịt về
phương pháp phẫu thuật.
Bệnh sốt rét trước năm 1975 là thứ bệnh cũng hết sức dễ chữa, nhưng nay
bệnh nhân sốt rét đưa vào bệnh viện là hết số! Gian y phủi tay, đổ lỗi
cho sốt rét “ác tính”. Ở trại tù khổ sai, không ít nạn nhân mất mạng vì
“sốt rét ác tính”! Bác sĩ tù nhân chỉ làm nhiệm vụ trưởng bệnh xá trại
tù. Bệnh xá thì làm gì có âu dược, làm gì có dụng cụ y khoa! Thuốc toàn
“chế” từ cỏ lá rừng làm thành những viên “thuốc tể” chẳng biết công hiệu
hay tác hại ra sao, khi được cấp, bệnh nhân phải uống tại chỗ, cai tù
giám sát! Do đó, mỗi lần nhắc tới trại lao động cải tạo là mỗi lần tôi
rởn gai ốc, sợ chồng mình nhỡ có đau bệnh gì như đau ruột thừa hay sốt
rét rừng e cũng sẽ ra đi không lời giã biệt. Bệnh ghẻ lở trong trại cũng
là thứ bệnh lây lang bất trị.
“Đến buồn đi ỉa…”
Ở trại tù, người ta gia tăng hành hạ người tù mỗi ngày một tàn nhẫn hơn.
Người tù vẫn bị xếp ngang hàng với trâu bò, bị sử dụng thay cho trâu bò
để kéo cày, kéo bừa, kéo xe, vỡ hoang, khai hóa, kê vai “chuyên chở”
những vật nặng thay cho xe bò, xe trâu; song quyền ăn uống, nghỉ ngơi
thì hoàn toàn bị cướp đoạt. Cuộc sống của tù nhân tồi tệ gấp bội so với
con trâu con bò. Nhọc nhằn khuân vác đất đá gỗ súc vừa xong thì bị lôi
đi phá rừng, xẻ núi, đào kênh, lấp hố, vỡ ruộng, chặt tre… Tù nhân đổ ra
không biết bao nhiêu mồ hôi, nước mắt và cả máu, nhưng mức đền bù vẫn
cứ là 15 kg củ mì, củ lang mỗi tháng (mỗi ngày ½ kg cho 3 bữa ăn), có
khi đột nhiên hạ xuống dưới mức 13kg một tháng. Nếu ai nhỡ bị bệnh hay
bị “kỷ luật” thì… tiêu chuẩn chỉ còn 9 cân/tháng… nghĩa là húp cháo
lỏng!
Cộng sản chiếu phim cho tù nhân xem cảnh người nông dân Việt Nam thời
thực dân Pháp thay trâu bò kéo cày bừa. Nhưng dưới thời Tây đô hộ, cứ
đến mùa thu hoạch, người dân còn có lúa, có gạo mang về nuôi cả nhà cho
đến kỳ giáp hạt. Còn bây giờ, thời đại xã hội chủ nghĩa theo chế độ Cộng
sản, người tù cải tạo lẫn người nông dân ngoài đời đều trở lại kiếp
sống trâu bò. Mọi thứ người tù hay người dân làm ra đều bị coi là “tài
sản xã hội chủ nghĩa” để đảng và nhà nước cộng sản CSVN cướp sạch.
Nhắc tới cuộc sống của các tù nhân trong nhà tù cộng sản, tôi nhớ HCM
lúc ở trong nhà tù thực dân Anh bên Tàu có bài thơ độc đáo: “Đến buồn đi ỉa cũng không cho”(2).
Bài thơ này chỉ phản ảnh một phần nhỏ thân phận các tù nhân cải tạo
trong đó có chồng tôi. Rõ ràng các tù nhân trong nhà tù Cộng sản không
phải chỉ “đến buồn đi ỉa cũng không cho” mà còn phải ỉa đái lồ lộ giữa
thanh thiên bạch nhật trước mặt đồng đội mình. Muốn hay không muốn,
những đồng đội ấy cũng phải hít thở trọn vẹn cái mùi xú khí xông thẳng
vào mũi họ đang lúc họ lao động! Lần lượt kẻ trước người sau đều vậy
cả!
Bên trong trại, tù nhân phải giải quyết chuyện ỉa đái của mình trên một
dãy “sàn cầu” dài để dễ bề canh chừng nhau, kiểm soát lẫn nhau! Chất
thải từ bụng người trút vãi ra dưới đất được dùng làm phân gọi là “phân
bắc” tức phân cứt người, khác với phân chuồng (cứt gia súc) và phân xanh
(lá ủ). Chất thải của người bệnh kiết lỵ, bệnh ỉa tháo, bệnh sán lãi,
bệnh tiểu đường… thảy thảy là phân bắc. Một vài tù nhân bị phân công phụ
trách đi gom thu các thứ phân bắc này. Phân bắc pha với nước tiểu khuấy
nhuyễn tưới lên những đám rau xanh trong vài ngày lá rau phát lớn, một
phần nhỏ loại còi cọt bán cho bếp trại tù, phần tốt mang bán chợ trời,
giám thị trại thu tiền bỏ túi, gọi là “cải thiện”! Ban đêm, nhà trại
khóa cửa. Tù nhân cũng giải quyết “việc riêng của mình” như vậy, và dĩ
nhiên trại có thêm lượng “phân bắc” cho canh tác.
Cơm chan nước mưa hòa cùng mồ hôi và nước mắt.
Một cảnh tượng khác của lao động khổ sai xã hội chủ nghĩa: Vào giờ ăn
trưa, khi tiếng còi báo ngưng lao động, tù nhân tập hợp từng tổ để mỗi
người nhận phần ăn trưa, ăn ngay tại chỗ, bất luận trời nắng hay mưa.
Dưới nắng hè nóng như thiêu hay trong cơn mưa tầm tã, mặc cho mồ hôi và
nước mắt hòa cùng cơm canh với nước mưa, tù nhân phải nhai, phải nuốt,
phải thanh toán phần ăn của mình để còn sức lực mà lao động tiếp cho tới
chiều mới về trại. Khoai lang, khoai mì hòa cùng nước mắt, mồ hôi và
nước mưa… mặn mặn chát chát cũng rán mà nuốt!
Nhiều tù nhân ngả bệnh và chết vì cảm lạnh sau mỗi ngày bị hành hạ dày vò như vậy!
- Lao động là vinh quang! Làm nhiều hưởng nhiều. Các anh làm ra, các anh hưởng.
Đó là khẩu hiệu mà bọn cai tù đắc chí nhai đi nhai lại. Nhưng người tù
chẳng thấy cái vinh quang nó nằm ở xó xỉnh nào mà chỉ thấy những gạo
thơm, gỗ quý, dầu bạc hà, bông vải, trái ngon, thịt gà, thịt heo béo tốt
do công lao mồ hôi nước mắt mình làm ra đều biến hết vào mồm, vào túi
cán bộ từ cấp thấp tới cấp cao!
Bóp chết tình người.
Ngoài ra, việc bỏ đói tù nhân còn có mục đích khác thâm hiểm hơn: “dập
tắt tâm thức nổi loạn” nơi người tù hầu “tiểu trừ mầm mống mưu toan phản
động!”
Người tù ăn khổ, ăn đói, suốt ngày quần quật cày sâu cuốc bẫm dưới nắng
mưa, gió bão, đến tối lại bị bắt buộc ngồi khoanh chân bó gối hàng giờ
để làm cái công việc gọi là “kiểm điểm, phê bình và tự phê” hạch tội
nhau: một âm mưu gieo rắc ngờ vực, đố kỵ, chia rẽ dẫn tới hiềm khích hận
thù giữa các tù nhân với nhau! Cho nên, mọi nhà tù CSVN dựng lên để
“cải tạo” những người quân-dân-cán-chính VNCH thua trận đều là những
trại khổ sai trừng giới độc ác nhất, giết dần giết mòn cả thể xác lẫn
tinh thần người tù, làm mất đi tình người cũng như tình đồng đội cũ giữa
những con người bất hạnh này.
Xa cha, xa mẹ, xa vợ, xa con, xa người thân quyến, xa cả xã hội xóm
làng, người tù chỉ còn lại chút tình huynh đệ chi binh với nhau, thì cái
tình này lại là mối nguy đe dọa nghiêm trọng nhất cho chế độ CSVN, nên
bọn cán bộ nhà tù CS quyết bóp chết nó bằng biện pháp cấm “tụ tập” quây
quần bên nhau để “to nhỏ âm mưu phản loạn”. Thô bạo và tinh vi nhất là
thủ đoạn gieo ngờ vực giữa tù nhân với nhau, gây đố kỵ, chia rẽ và căm
thù giữa họ với nhau, một mối thù dai dẳng ăn sâu vào tim óc, huyết quản
từng người, không sao giải tỏa được.
Nhọc nhằn đường thăm nuôi!
Sợ chồng con mình kiệt lực trong nhà tù vì thiếu ăn, các bà mẹ và vợ của
các tù nhân ở nhà dù cơ cực đến mấy cũng tiết kiệm từng đồng tiền, từng
hạt gạo, đếm từng ngày mong kỳ thăm nuôi mau tới, tiếp tế lương thực
cho chồng con và nhìn tận mặt người thân.
Phần tôi và các con tôi, ngay sau đợt thăm nuôi trước đã lo tới chuyến
thăm nuôi sau. Mẹ con cùng ráng nhịn bớt phần ăn mỗi bữa của mình, dành
dụm tiền để mua sắm đồ thăm nuôi tiếp tế cho chồng-cha. Ngày này sang
ngày khác, tháng này sang tháng nọ, mẹ con tôi cứ liên tục cơm độn, rau
luộc chấm mắm, chẳng dám đụng tới miếng thịt hay lát cá.
Thấm thía lắm câu nói: “Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi, mà khó vì lòng người ngại núi e sông”.
Tôi chỉ tâm niệm một điều là đừng vì ngại núi e sông mà bỏ bê chồng, sợ
khi chồng mình đã đi vào cõi âm ti mới hối tiếc thì sự đã muộn. Không
phải chỉ vài ngày, vài tháng, nhưng là năm này sang năm khác, “mấy sông
cũng lội, mấy đèo cũng qua”, miễn sao trong chốn lao tù chồng mình không
phải đói khổ nhọc nhằn, cạn mòn sức lực, trở nên thân tàn ma dại hay
chết bụi chết rừng.
Phương tiện giúp đưa chúng tôi đi gặp chồng sau mỗi hai tháng thường
thường là chiếc xe chở gỗ súc cũ kỹ cà rịch cà tang. Nó đã lỗi thời và
lẽ ra đã vất vào đống sắt phế liệu nếu không có ngày 30/4/1975. Máy nổ
của chiếc xe cổ lỗ ấy phát ra tiếng ầm ĩ đinh tai điếc óc như động cơ
máy bay phản lực chiến đấu gầm thét.
Khi xe lăn bánh, người ngồi trên xe có cảm tưởng như bộ bánh của chiếc
xe chực văng ra khỏi xe. Chiếc xe bò lê nặng nề, lắc lư chậm chạp băng
qua những chặng đường đồi dốc gập ghềnh hoặc hì hục khổ sở lội qua các
khe suối hiểm trở. Lúc leo đèo hay lao đầu xuống triền đồi, chiếc xe
trườn tới rồi giật lui như muốn trút ào mọi người xuống hố sâu, thỉnh
thoảng bất ngờ tăng ga rồi đột ngột kẹt thắng, khựng lại, rung lắc mạnh
hơn.
“Khách” trên xe ngả nghiêng ngã ngửa trong thùng xe, níu kéo nhau kêu la
thất thanh! Tội nghiệp đám con nít đi theo bà, theo mẹ để gặp mặt cha!
Chúng sợ hãi kêu khóc inh ỏi thật đáng thương. Ba đứa con dại của tôi
lần đi thăm nào cũng khốn đốn như vậy, song mỗi khi tới kỳ đi thăm nuôi…
chúng vẫn một mực đòi đi gặp mặt cha cho được.
Một hôm, chiếc xe chở khoảng vài chục đàn bà chúng tôi cùng một số trẻ
con đi thăm nuôi ngồi chen nhau như nêm giữa đủ thứ “hàng thăm nuôi” lổn
ngổn. Xe bò lê lên một sườn đồi bỗng đứt thắng tuột dốc. Ai nấy trên xe
hồn xiêu phách lạc, ơi ới kêu Chúa, kêu Phật. Đám trẻ con hốt hoảng la
khóc thất thanh. Nhưng may mắn chiếc xe đang đà chạy thụt lui thì đụng
vào thành núi đất bên đường thay vì đổ nhào xuống hố. Tỉnh hồn, mới hay
mình còn sống!
Sau cơn ác mộng tai nạn xe chở gỗ súc dùng làm xe chở khách thăm nuôi,
tôi không dám đi loại xe ấy nữa. Mỗi lần đi thăm chồng, tôi thuê xe đạp
thồ chở tôi và các con tôi cùng các thứ thức ăn nuôi chồng theo định kỳ
hai tháng một lần. Đi xe đạp thồ vất vả gấp trăm lần đi xe chở súc,
nhưng yên ổn cho con nít hơn. Vào thời gian này, các loại xe bốn bánh -
kể cả mấy chiếc xe lẽ ra đã phế thải từ lâu như xe chở gỗ súc cũ kỹ
trên, đều bị trưng thu. Còn các loại xe máy nổ hai bánh của người dân
Miền Nam dần dần cũng biến mất vì dân chúng Miền Nam không được cấp
phiếu mua xăng, không được phép đăng bộ xe gắn máy… Họ đành bán đổ bán
tháo xe mình cho cán bộ CS miền Bắc.
Đi xe đạp thồ lên đồi xuống dốc, vượt suối, lội sông vất vả lắm, nhưng tôi không nản chí!
Tại khu thăm nuôi trại, một chiếc bàn dài rộng ngăn cách vợ chồng chúng
tôi, kẻ bên này, người bên kia chiếc bàn, chúng tôi gọi là” bên này
sông, bên kia sông”, chỉ nhìn thấy mặt nhau và nhanh chóng trao gửi cho
nhau đôi lời cần nói trong vòng 5 phút! Các con tôi đứng bên tôi, nhìn
cha chúng nó chờ người cha ôm hôn, nhưng người cha chỉ rưng rưng nước
nhìn con bởi đã có lệnh cấm “quan hệ tình cảm linh tinh”…
Bao lần đi “thăm nuôi” chồng, tôi nghe mãi lời mắng mỏ của cai tù: “Cách
mạng đâu có bỏ đói chồng con các người!” Không bỏ đói? Tại sao lại có
chuyện “thăm-nuôi”! Không đói, chỉ cần thăm, sao cần nuôi? Không bỏ đói,
nhưng người tù nào không được người nhà “thăm nuôi” đều trở thành thứ
“con bà phước” sống nhờ vào tình thương của những bạn tù được thăm nuôi
hoặc phải tìm cách “cải thiện” từ cọng rau, cọng cỏ, củ khoai, củ mì, con chuột, con rắn!
Cải thiện là cái chi chi?
Lần nào đi thăm nuôi chồng, tôi cũng nghe các bà, các chị kháo nhau về chuyện người tù “cải thiện” mưu sinh. Tôi không hiểu người tù “cải thiện”
làm sao, mưu sinh cách nào trong khi hết thảy người dân Miền Nam đang
đói meo, dở sống dở chết ngoài xã hội. Người dân ngoài đời còn chưa kiếm
được thứ gì ở bất cứ đâu để mà mưu sinh, thì những người bị đọa đày
trong lao tù CS lấy gì và bằng cách nào mà cải thiện, mưu sinh?
Xưa nay ở Miền Nam Việt Nam dân đồng ruộng có bao giờ thiếu gạo ăn, kể
cả những khi hạn hán kéo dài hay bão lụt nặng nề gây mất mùa trầm trọng.
Vậy mà bây giờ chính bản thân người nông dân là kẻ làm ra lúa gạo lại
phải chảy nước mắt nhai cơm độn khoai mì, khoai lang, bo bo, bữa no, bữa
đói, đói nhiều hơn no, huống hồ là người tù chính trị.
Thế nhưng có phải vì bản năng sinh tồn, người tù vẫn có cách của họ để “cải thiện” mưu sinh dù bị kiểm soát nghiêm nhặt và có thể phải nhận những trận đòn trừng phạt man rợ chỉ vì “cải thiện”?
Dưới chế độ Cộng sản, từ ngữ “cải thiện” mất đi cái nghĩa “sửa đổi cho tốt hơn” về mặt tinh thần như dân Miền Nam từng hiểu. "Cải thiện"
bây giờ mang một ý nghĩa hoàn toàn vật chất, xấu nhiều hơn tốt. Khi
người cộng sản nói “cải thiện” có nghĩa là làm một cái gì đó bất luận
lương thiện hay bất lương để bù vào cái mà Nhà nước cấm cách hay đã “quy
hoạch vào diện quốc doanh”.
Phải “cải thiện” mới có thêm cái ăn, cái mặc, cái tiêu dùng hằng
ngày mà chế độ không "phân phối" đủ, hay phân phối không đồng đều, không
đến nơi đến chốn do phân biệt đối xử căn cứ vào thứ tự cấp loại ưu tiên
của sổ lương thực, phiếu mua hàng. Nhiều người dân, nhất là đám tiện
dân bị liệt vào thành phần “ngụy” hầu như chẳng mấy khi có được cái cơ
may mua một món hàng cho ra hàng theo chế độ phân phối. Họ bắt buộc phải
“cải thiện” thôi!
Sự cải thiện của họ rất thực tế và ngay lành: “cải thiện” một con
cá dưới sông, dưới biển, hay gieo trồng một luống rau… vậy mà vẫn không
yên. Hết du kích xã tới quản lý thị trường, rồi thuế vụ, công an luôn
rình rập, bắt bớ, kết tội “xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa” hay tội “phá hoại kinh tế quốc doanh”. Ghê gớm chưa? Trong khi đó, cán bộ đảng, cán bộ nhà nước ngang nhiên khai thác tối đa cái quyền “cải thiện”
bằng những hành vi cắt xén, trộm cắp đầy gian trá. Chẳng những không bị
trừng phạt, họ còn được thăng quan tiến chức vun vút và được báo đài
tôn vinh chúc tụng “người tốt việc tốt”.
Khi cán bộ cải thiện.
Không ít cán bộ tranh nhau mang heo, gà vào nuôi trong trường học, bệnh
viện rồi đưa cả phân người, phân gia súc vào những nơi đó làm phân bón
cho rau cải họ trồng, làm mất vệ sinh môi trường, thế nhưng họ lại hãnh
diện rằng là cải thiện chính đáng. Cân bán một con heo nái, phân đôi cân
lượng, ghi vào chứng từ mua bán là 2 con heo thịt! Giá heo hơi thịt cao
gấp đôi gấp ba giá heo hơi nái. Gian lận “đội giá” kiểu đó, họ cũng bảo
là “cải thiện”. Cắt xén lượng hàng hay mặt hàng trong các cửa
hàng quốc doanh, cải thiện đấy. Đánh tráo cân lượng lúa gạo và hàng hóa
các loại để ăn gian ăn bớt của dân nghèo: cải thiện. Ăn cắp công quỹ hay công sản quốc gia: cải thiện…
Đó là chưa kể tới vô số gia đình cán bộ đảng viên CS các cấp thừa thắng
xông lên sau 30/4/1975 từ Miền Bắc tràn vào Miền Nam mà người ta gọi là
cuộc di dân lấn chiếm nhà cửa đất đai vĩ đại nhất trong lịch sử Việt
Nam. Cướp của, đoạt nhà, chia nhau của cướp dưới danh nghĩa “phân phối”.
Có được nhà, dọn vào ở, mọi thứ trang trí hay trang bị đắt tiền của chủ
cũ đều bị vơ vét mang đi bán chợ trời, biến cái cơ ngơi đầy tiện nghi
của người ta thành nhà không vườn trống khoác chiếc áo bần cùng “chuyên
chính vô sản”, bên trong đủ thứ kiểu “cải thiện” quái gở: Heo, gà, vịt
ung dung chung sống với người. Phân người, phân gia súc được tích trữ để
“cải thiện” mấy đám rau xanh gieo trồng bừa bãi khắp sân trước sân sau
nhà và cả nơi sân thượng của những nhà cao cửa rộng cướp đoạt. Phố thị
Miền Nam chẳng những mất đi hoàn toàn cái vẻ mỹ quan quen thuộc trước
đây mà còn liên tục xông ra mùi xú khí gây ô nhiễm cho cuộc sống con
người.
Người tù cải thiện.
Người tù đi làm khổ sai vất vả, đói khát. Cái “cải thiện” của
người tù có thể đơn giản là lén lấy lại chút mồ hôi nước mắt mình làm ra
như củ khoai mì, khoai lang, cây mía, trái bắp, trái ớt, cọng rau chẳng
ra gì. Nhưng thật vô phúc cho người tù nào bị cai tù bắt được đang “cải thiện”,
dù món cải thiện chẳng đáng ba xu ba hào. Bọn cai tù trừng phạt người
“vi phạm” bằng những nhục hình rất dã man, trong khi những món mà người
tù “cải thiện” chưa chắc đã bù đắp được một phần nhỏ công lao khó nhọc mồ hôi, nước mắt và cả máu họ đã đổ ra để làm nên những sản phẩm ấy.
Trong nhà tù cộng sản, khi đi lao động, tù nhân lén kiếm ít rau trái
trong rừng, câu lén một vài con cá dọc bờ sông hay mương lạch chẳng qua
cũng chỉ là những cải thiện lặt vặt, thứ cải thiện lương thiện hơn gấp
bội so với các loại “cải thiện” ăn cắp, cướp giật bất lương của
bọn cán bộ đảng viên cộng sản. Thế nhưng những việc cái thiện chơn chất
ấy của người tù thì lại bị bọn cai tù nhiếc mắng “cải tạo linh tinh” và từ đó người tù lại bị gán ghép hết tội này tới tội khác, toàn là những thứ tội trời ơi đất hỡi để cuối cùng thành tội “chống cải tạo”!
Gia súc gia cầm trong trại do người tù chăn nuôi, bọn cai tù đều xí
phần, coi là của riêng, liên tục giết gà, giết vịt, mổ heo, một phần
dùng để chè chén với nhau, còn lại phần lớn thì mang đi bán chợ đen, thu
tiền chia nhau bỏ túi. Họa hoằn một hai lần một năm lễ lạt, bọn cai tù
cho tù nhân nếm một miếng thịt heo nhỏ bằng đầu ngón chân cái thì lại kể
ơn kể nghĩa “đảng quan tâm, chiếu cố”.
Đến khi gia súc gia cầm bị dịch bệnh, bọn cai tù lại đẩy cho nhà bếp
trại giam những con vật sắp chết, đang giãy chết hay vừa lăn ra chết,
bắt phải nấu cho tù nhân trong trại ăn. Và người tù phụ trách bếp ăn
phải ký nhận vào ghi sổ mua hàng nhìn nhận đó là những “thịt tươi sống”
mua từ thị trường ngoài xã hội. Cai tù “cải thiện” như vậy đó, cải thiện trên xác chết người tù!
Mới hay chữ nghĩa của CSVN vừa thâm vừa độc. Cải thiện không còn
cái ý nghĩa cải sửa cái xấu, làm cho kẻ gian ác thành người thiện hảo.
Ngược lại, nó tạo điều kiện cho kẻ ác càng thêm gian ác!
Những tờ chứng tử đểu cáng.
Một câu chuyện mà người tù cải tạo đã kể lại cho thân nhân mình, ai nghe
chắc cũng động lòng thương kẻ xấu số và căm thù bọn người lòng lang dạ
thú: Có người tù kia vì đói quá khi đi lao động đã “cải thiện” vài
củ khoai mì thì bị bắt gặp. Bọn cai tù bắt người tù ấy quỳ mọp giữa sân
dưới nắng hè, giang hai tay ra, lòng bàn tay để ngửa, hai cục đá nặng
đặt vào lòng hai bàn tay người tù ấy. Người tù mỏi quá chịu không thấu,
nhiều lần buông hòn đá ra, bọn cảnh vệ đến đánh đấm túi bụi, rồi cuối
cùng dùng chiêu ác độc khác phạt người tù.
Một tên cảnh vệ lấy hai củ mì sống nhay vào mồm anh tù, bắt anh phải
nhai sống cho hết, trong khi anh tù không được buông tay đánh rơi hai
hòn đá. Khoai mì này là loại khoai mì Ấn Độ, chỉ dùng trong chế biến
công nghiệp, trâu bò ăn vào còn ngộ độc nằm lăn ra mà chết, huống chi
con người.
Anh tù thọ phạt nhai chưa hết củ mì đã ngã vật xuống đất sùi bọt mép bất
tỉnh. Bọn cảnh vệ kéo anh dậy không phải để giải thoát anh mà lôi anh
xành xạch, tống vào biệt giam. Vài ngày sau, có tin nạn nhân đã chết,
cai tù bí mật sai tù hình sự khiêng xác anh đi chôn trong rừng. Gia đình
nạn nhân không hề biết người thân của mình đã ra người thiên cổ.
Một tuần lễ sau, cai tù gọi bác sĩ tù nhân phụ trách trạm xá lập “vi bằng chứng tử.”
Vị bác sĩ nói người chết đã chôn, làm sao chứng tử được? Cai tù nói:
“bảo viết, anh cứ viết, không lôi thôi gì cả!” Bác sĩ tù nhân viết xuống
dòng chữ: "chết vì kiệt sức"; ông cho rằng cách chứng nhận ỡm ờ
đó vừa được lòng cai tù mà không hại người bị nạn, lại không phạm tới
đạo đức nghề nghiệp. Nhưng tên trưởng cai tù xé toạc tờ chứng tử, quát
mắng vị bác sĩ tù nhân, bắt ông viết lại tờ chứng tử: "Chết vì sốt rét ác tính."
Thời kỳ sau 1975, con muỗi anophen tái xuất khắp Miền Nam Việt Nam. Vi
trùng sốt rét hoành hành trong khi các bệnh viện trong khu vực đều thiếu
thuốc trị bệnh sốt rét rừng khiến nhiều nạn nhân chết chỉ vì sốt rét.
Mà hễ chết vì sốt rét thì đương nhiên là do “sốt rét ác tính,” một
phương thức “hóa giải” gọn nhất, ổn nhất để che đậy tội ác sát nhân của
bọn cai tù.
Một cựu giáo sư Đại học Khoa học tại Sài Gòn bị bắt về tội vượt biên.
Ông Giáo sư ở tù xa nhà, không ai thăm nuôi, nhưng quyết giữ phẩm chất
một nhà giáo VNCH, không cậy dựa vào người khác. Ông luôn tự cảnh giác: “Miếng ăn là miếng tồi tàn”! Ngày này sang ngày khác ông chỉ biết cơm độn, muối hầm và “canh toàn quốc”
(canh toàn là nước) do trại cung cấp. Ông trụ được hơn một năm thì kiệt
sức. Cai tù bảo ông giả bệnh trốn lao động, tống ông vào biệt giam, ăn
cháo lỏng. Ông chết! Bác sĩ tù nhân được gọi đến lập chứng tử. Vị bác sĩ
viết: “Chết vì suy dinh dưỡng”. Cai tù ra lệnh viết lại: "Chết vì sốt rét ác tính."
Cùm sắt.(3)
Nhắc lại chuyện người tù lăn chết vì một củ mì, tôi không thể quên
chuyện cái cùm trong trại tù CS mà bất cứ người cựu tù nào cũng rùng
mình khi nhớ tới, nhắc lại.
Thời chế độ thực dân Pháp, người dân Việt Nam khốn khổ không ít với mấy
chiếc cùm gỗ. Cùm thực dân làm bằng hai mảnh gỗ, mỗi mảnh được đục
khuyết hình nửa vành trăng cách khoảng nhau chừng mười phân. Cái bán
nguyệt mỗi mảnh ghép lại thành vòng tròn. Phạm nhân ngồi bệt xuống tra
chân vào vòng tròn này.
CSVN thì “tinh vi” và “khoa học” hơn thực dân Pháp về phương pháp áp
dụng nhục hình độc ác cho kẻ thù. Thay vì cùm gỗ, họ cho thợ rèn rèn
những khoen sắt, luồng hàng chục cái khoen sắt ấy vào một thanh sắt dài
gọi là “cây thông nòng”. Cây thông nòng đâm xuyên từ vách này sang vách
khác của dãy biệt giam dài hàng chục phòng. Chân tù nhân bị tra vào các
khoen sắt vừa bằng cổ chân, tội nhẹ thì cùm một chân, tội nặng thì cùm
cả hai chân. Một lời nói bâng quơ bị diễn dịch thành ý đồ chống phá:
Cùm. “Cải thiện linh tinh”: Cùm. Gì cũng có thể tra chân vào cùm. Khi bị
cho là ngoan cố, nạn nhân bị cùm chéo hai chân! Chân cùm trong khoen
sắt rèn, nhất cử nhất động cọ xát, đau đớn dường nào. Những người tù bị
cùm khi được thả về phần lớn mang thương tật đến cuối đời. Có người về
mắc chứng hoại tử cả hai chân, rồi chết thảm.
Chết trên đường thăm nuôi.
Một người bạn của tôi tên DTM đi thăm nuôi chồng. Tuy trèo đèo vượt suối
khốn khổ trăm bề, song giống như nhiều bà mẹ và vợ tù khác, không kỳ
thăm nuôi nào chị M không đem theo ba đứa con mọn của chị để chúng gặp
mặt cha.
Một sự rủi ro trở thành tấn thảm kịch đau thương cho gia đình chị M:
Trên đường trở về sau chuyến thăm nuôi, chiếc xe tải chở người đi thăm
nuôi bị tụt dốc, lăn kềnh xuống dốc Đèo Cả (ranh giới Phú Yên-Khánh
Hòa). Cậu con trai đầu của chị tử thương, nó mới 5-6 tuổi! Chị và hai
đứa con khác may mắn thoát chết, nhưng đều mang thương tích. Chồng chị ở
trong tù chỉ nghe kể lại loáng thoáng về cái chết của con mình cho tới
ngày anh về nhà mới hay biết mọi sự!
Một thiếu phụ khác tại một tỉnh ở Miền Nam có chồng bị đưa đi “cải tạo”
tận miền Bắc. Vì sa cơ thất thế và lâm cảnh nghèo túng sau 30/4/1975 đổi
đời, người phụ nữ đáng thương ấy hiếm khi đi thăm nuôi chồng.
Một hôm, được tin chồng bị bệnh nặng, thập tử nhất sinh, chị quyết đi,
hy vọng gặp mặt chồng để nói lên lời chào biệt lần cuối hay ít ra khích
lệ tinh thần chồng mình. Chị ráng tiết kiệm, dành dụm tiền để mua quà và
thuốc trị bệnh cho chồng. Nhưng sau khi mua sắm đồ thăm nuôi, chị không
còn tiền để đáp xe từ Nam ra Bắc hàng ngàn cây số. Thời kỳ đó, xe khách
Bắc-Nam lại hiếm hoi, giá chợ đen rất cao. Được bạn bè mách nước, một
hôm chị mon men ra quốc lộ đón xe bộ đội, năn nỉ chú bộ đội lái xe cho
quá giang, dĩ nhiên dúi vào tay chú lái xe ít tiền “cà phê cà pháo.”
Chuyện “đi nhờ” xe bộ đội với tiền trà nước song phẳng là chuyện thường
ngày ở Miền Nam VN sau 30/4/1975. Hàng lậu, hàng cấm gì cũng “an toàn
trên xa lộ” tùy theo giá cả trà nước.
Vừa chạy ra khỏi thành phố Nha Trang độ chừng vài chục kilômét, chiếc xe
bộ đội bỗng loạng choạng rồi đổ nhào, có lẽ do tài xế ngủ gục, bạt tay
lái. Chị chết tại chỗ, có lẽ do chấn thương sọ não. Bộ đội lục túi chị,
thấy giấy tờ chứng nhận chị đi thăm chồng - “sĩ quan ngụy đang cải tạo”,
sợ liên quan phản động, mấy chú bộ đội lấp vội xác chị ở bìa rừng, xa
chỗ xe bị tai nạn nhằm phi tang dấu vết, rồi lên xe nhà binh khác trốn
mất dạng!
Mấy hôm sau người dân lao động gần đó phát hiện tử thi người thiếu phụ
xấu số sình lên bốc mùi thúi. Dân chúng góp tay mua quan tài chôn cất
chị. Họ cắm một khúc cây để làm dấu. Dường như có người biết cái chết ấy
do xe bộ đội gây ra rồi vất bỏ, nhưng thời buổi ấy đâu ai dám hé môi tố
cáo tội ác của người CS. Ách giữa đàng quàng vào cổ, nguy lắm!
Chồng của người đàn bà xấu số không hay biết gì về tai họa xảy ra cho vợ
mình. Ra khỏi tù, trở về nhà với thân tàn ma dại, anh đi tìm kiếm…,
nghi vợ mình “sang ngang”. Về sau có người mách cho anh biết, anh đến
tận nơi đào hài cốt thì mới vỡ lẽ!
Chưa tốt chưa về!
Mỗi lần đi thăm nuôi để thấy mặt chồng, tôi cảm nhận một chút an ủi xoa
dịu con tim đau nhói của mình. Nhưng lần nào cũng vậy, nhìn thấy chồng
trong thân phận lao tù, tôi không thể không bật khóc.
Chính sách của chế độ CS ngày nào cũng lặp đi lặp lại trên các loa phóng thanh: "Ngụy quân, ngụy quyền tập trung cải tạo ba tháng.”
Nhưng thời gian tù tội và lao động khổ sai của quân-cán-chính VNCH đã
nhân lên tới gấp hai, gấp ba, gấp bốn, hay gấp hàng chục lần cái mức ba
tháng, vẫn chẳng mấy ai được về! Sau nhiều lời giải thích ngụy biện dối
trá lố bịch khoái chấp nhận, đám quan chức Cộng sản tự bào chữa trâng
tráo:
- Cải tạo chưa tốt, chưa về.
Hoặc:
- Các bà mẹ, các bà vợ chưa chấp hành tốt đường lối chính sách ở địa phương, "nhân dân chưa cho chồng-con các người về”!
“Nhân dân” nào ác ôn và ngu xuẩn đến độ đè đầu bóp cổ chính mình? Chỉ có Đảng Cộng sản gian manh và hiểm độc mới “gắp lửa bỏ vào tay nhân dân” vậy thôi!
(Cuối Tháng Tư 2015)
__________________________________________
Chú thích:
(1) Đó là tiêu chuẩn khẩu phần bình thường. Chỉ những tù nhân đi đốn cây
gỗ quý trong rừng mới được tiêu chuẩn việc nặng 21 kg/tháng. Những tù
nhân không lao động (do đau bệnh chẳng hạn), tiêu chuẩn 13kg/tháng. Tù
nhân trong biệt giam chỉ 9kg/tháng, gọi là tiêu chuẩn cháo lỏng và không
có phần ăn sáng! Thời VNCH không hề phân biệt hạng loại như vậy, mọi tù
nhân đều hưởng đồng đều tiêu chuẩn 21kg/tháng, gạo trắng thơm.
(2) Đau khổ chi bằng mất tự do
Đến buồn đi ỉa cũng không cho
Cửa tù khi mở không đau bụng
Đau bụng thì không mở cửa tù
(3) Khi viết về cùm sắt, tôi lấy làm tiếc không có được hình ảnh minh
họa. Ngày 20/4/2015, đọc Blog AnhBaSam, thấy hình vẽ trên bài “Về phát
biểu của pgs/ts Vũ Quang Hiển”, mạn phép sử dụng hình vẽ ấy ở đây. Cám
ơn.
Nguyễn Thị Ngọc (Danlambao) - Sau
khi chồng tôi bị áp giải vào Công an huyện một thời gian, tôi cố nghe
ngóng xem người ta đã đưa anh đi đâu nữa rồi, nhưng hoàn toàn mất tin
tức. Về sau, tôi mới nghe biết anh đã bị tống vào trại tạm giam tỉnh.
Hàng ngàn quân-cán-chính VNCH cũng vừa bị đẩy vào đây sau ngày
30/4/1975, ngày Tướng Dương Văn Minh ra lệnh buông súng đầu hàng.
Bằng những bản chính sách năm điểm, bảy điểm, chín điểm, mười điểm…,
người ta cam kết hứa hẹn thời gian học tập cải tạo “ba tháng”. Nhưng rồi
ba tháng trôi qua, “ngụy quân" được thả chỉ vài anh lính tò te mới cầm
súng; còn "ngụy quyền" thì cũng chỉ vài ba anh chị đánh máy hay chạy
công văn với một số ít người lính hay nhân viên cấp thấp đã giải ngũ hay
nghỉ việc từ cả chục năm về trước. Người được thả phải biết ơn đảng
“chiếu cố khoan hồng”. Về địa phương không được nói ra hay kể lại bất cứ
những gì mắt thấy tai nghe trong nhà tù.
Dầu vậy, nhiều chuyện lỡ khóc lỡ cười trong các trại giam lúc bấy giờ
vẫn được truyền miệng rộng khắp. Theo thông cáo, người đi “học tập cải
tạo” phải mang nộp cho trại tiền và gạo ăn cho 3 tháng. Bọn cai tù ở
tỉnh tôi thu gạo, thu tiền, nhưng không cho mở bếp nấu ăn trong nhà tù.
Không biết bằng hợp đồng hay bằng lệnh bắt buộc, dân các thôn ấp xung
quanh trại luân phiên nhau nấu cơm và đưa cơm vắt vào tù cho tù nhân.
Mỗi ngày, tới giờ ăn, xe lam ba bánh chở cơm vào trại giam. Cai tù tập
họp tù nhân ngồi bệt giữa sân để nghe chúng mắng nhiếc chửi bới nham nhở
trước khi phát cho mỗi người tù một vắt cơm nho nhỏ kèm theo một gói
muối hầm!
Suốt mấy tháng bặt tin chồng con, các bà mẹ và bà vợ vô cùng sốt ruột,
chạy ngược chạy xuôi vô vọng. Nhưng rồi đâu đâu cánh đàn bà cũng liều
làm dữ, đòi phải được đi thăm chồng con. Sau đó, có tin truyền miệng:
Chính quyền địa phương bắt đầu cấp giấy phép cho thân nhân đi “thăm nuôi
tù cải tạo”.
Khẩu chiến với cáo chồn.
Một ngày vào cuối tháng Tám 1975, sau khi nắm được giấy phép thăm nuôi
chồng, tôi thuê xe thồ Honda hai bánh chở tôi đi thẳng tới cổng trại tạm
giam tỉnh, dĩ nhiên có mang theo ít thức ăn phù hợp với hai từ THĂM và
NUÔI.
Mới tờ mờ sáng đã đông nghẹt các bà các chị gồng gánh tụ tập trước cổng
nhà giam, chờ thăm con, thăm chồng. Cai tù thu hết giấy phép thăm nuôi,
lùa tất cả chúng tôi dồn vào một khu đất trống bên ngoài cổng nhà tù,
bảo ai nấy ngồi im chờ gọi tên. Bọn cảnh vệ kết thành vòng đai vây bọc
chúng tôi, trong khi một vài tên khác len vào giữa chúng tôi, dò xét
từng người!
Các bà, các cô lúc ở địa phương không dám hé răng vì sợ lỡ lời dễ bị
khép tội phản động, và như vậy chồng con mình khó thoát vòng lao lý. CS
lúc bấy giờ cài đầy ăng-ten mật thám khắp Miền Nam Việt Nam khiến người
dân không còn ai tin ai để mà trao đổi điều gì riêng tư hay gửi gắm niềm
tâm sự. Vợ chồng nghi kỵ nhau, cha mẹ sợ cả con cái mình, anh em, họ
hàng, bạn hữu mất hết tình nghĩa với nhau dưới bầu trời u ám của quyền
lực Satan! Chưa có chế độ nào làm cho người dân sợ nhau đến mất tin nhau
như vậy.
Chị em chúng tôi, những người mẹ, người vợ tù đều mang nặng nỗi ức chế
vì không thổ lộ được những gì mình muốn tỏ bày. Bây giờ gặp gỡ nhau,
cùng một cảnh ngộ, cùng một nỗi đau, các bà các chị hết e dè, tha hồ
trút cạn cho nhau những ấm ức dồn nén bấy lâu nay. Một chị liều lĩnh
châm ngòi pháo đầu tiên ném thẳng vào mặt bọn cán bộ trại giam: “Các người bảo là học tập ba tháng! Đã hơn ba tháng rồi các người vẫn còn nhốt con người ta trong nhà tù mà bảo là học tập à?”
Một chị khác la lên: “Đồ cái thứ chính phủ - chú phỉnh!”
Các bà, các chị nhao nhao! Bọn cảnh vệ chĩa nòng súng vào đám phụ nữ.
Chúng la hét, buộc chúng tôi ngồi im, câm mồm! Cai tù dọa đóng cổng nhà
tù, đuổi các bà về, “không cho thăm nuôi thăm dưỡng” gì hết. Một tên cai
tù tuổi trung niên chắp tay sau đít đi qua đi lại oai phong lắm. Hắn
luôn mồm nhai đi nhai lại như nhai giẻ rách cái bài học thuộc lòng “tội ác của bọn Mỹ ngụy và chính sách khoan hồng của cách mạng”.
Cũng một luận điệu, một lối nói gắt gỏng mất dạy như bọn cán bộ “giảng
bài” ở xã phường mà chúng tôi từng nghe hằng đêm từ sau 30/4/1975.
Bọn công an có súng, có đạn và hùng hổ như cọp đói chực vồ nuốt mồi.
Chúng tôi đành “chịu thua” chỉ vì đang sốt ruột nóng lòng sớm nhìn tận
mặt chồng con.
Cái bàn rộng đặt giữa sân nhà giam dùng làm “ranh giới” ngăn cách người
thăm với người được thăm khi gặp nhau. Nhất nhật bất kiến như tam thu
hề. Thế mà hai bên mặt giáp mặt xa xa nhìn nhau chưa nói trọn câu đã bị
phân cách! Đúng năm phút, anh thì bị lôi về phòng giam, chị thì bị đuổi
ra khỏi cổng nhà tù!
Những món “thăm nuôi” nào bị cai tù cho là “đồ ăn nuôi béo kiểu tư sản”
đều bị hắt đổ dưới nền đất tại chỗ. Họa hoằn lắm mới có một hai cảnh vệ
còn chút tình người, đã đưa trả cho người đi thăm nuôi mang về. Một chai
nước mắm pha chanh ớt cũng bị kết là “đồ ăn tư sản.” Những lọ thuốc ho,
thuốc cảm thì bị tịch thu, bảo đó là thuốc độc “âm mưu đưa vào dầu độc cán bộ hoặc cho tù nhân uống chết để đổ tội cho cách mạng.”
Các loại thức ăn “khả nghi” cũng như các loại bánh trái đều bị cai tù
cắt làm ba làm bốn, hoặc dùng que cây hay cọng thép thọc vào quậy nát!
Bọn cai tù chửi bới xỏ xiên:
- Cách mạng đâu để chồng con các người đói như bọn Mỹ-ngụy ác ôn đã từng bỏ đói cán bộ “Cách mạng”.
Chị em chúng tôi vô cùng hậm hực và chua xót trước những lời mắng mỏ cọc
cằn xấc xược thô lỗ của bọn cai tù CS dốt nát mất dạy. Nhưng là kẻ thất
thế, chúng tôi biết làm gì hơn!
Sau lần thăm nuôi này, hầu hết các cựu viên chức và sĩ quan bị chuyển
trại, đưa sâu vào rừng, xa hẳn khu dân cư. “Trại cải tạo lao động” được
dựng lên ở đó. “Trại cải tạo”? Cải tạo ai? Cái tạo cái gì? Không! Đó là
“trại tù khổ sai”, trừng trị những người thất thế… Không cần tắm máu.
Chỉ cần hành hạ! Vắt cho cạn kiệt sức lực!
Rừng sâu núi thẳm.
Trại “cải tạo lao động” nằm sâu trong khu rừng già thượng nguồn một con
sông của tỉnh. Người tù tự đốn cây, phát quang, dựng lều trại để ăn ngủ
và lao động. Đây là chỗ núi non hiểm trở, tù nhân không dễ gì tìm ra ngõ
ngách mà trốn trại. Hơn nữa, người tù bị chuyển trại bí mật giữa đêm
khuya trên những chuyến quân xa molotova phủ vải bạc kín mít. Lộ trình
di chuyển ngoằn ngoèo, lúc lên đèo, khi xuống dốc, có lúc lại băng qua
các khe suối, người tù không đoán được xe chở mình đi về đâu. Đường đi
lẽ ra chỉ mất độ 2 tiếng đồng hồ, nhưng xe chuyển tù chạy lòng vòng cả
đêm, mãi gần sáng mới tới nơi.
Suốt hai tháng đầu, vợ con các “tù cải tạo” không biết chồng cha mình bị
giam giữ ở đâu. Các bà mẹ và các bà vợ thương con, thương chồng nhất
quyết liều chết lặn lội dò tìm cho ra ngõ ngách dù phía CS cố tình giấu
kỹ. Các bà các chị không thua, cuối cùng đã tìm ra trại mới của người
thân.
Không bỏ đói?
Trong “trại cải tạo”, người tù ban ngày lao động nhọc nhằn, ban đêm mặc
muỗi rừng đốt, phải ngồi hàng giờ nghe bọn cai tù giảng bài chính trị
“đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”. Bò cạp, rắn rết và thú dữ đêm nào
cũng rình rập.
Cai tù dựng lên “tổ anh nuôi” từ trong đám tù nhân lo việc nấu ăn cho
anh em mình. Họ chỉ lo chuyện bếp núc. Sổ sách chi thu và việc cân đo
đong đếm, giá cả thì đều do cai tù quyết định. Gian lận từ A đến Z, cân
non cân già, tráo đổi chất lượng hàng, tráo đổi giá cả. Rốt cục, tiêu
chuẩn ăn uống của người tù đã thấp, càng bị hạ thấp. Cụ thể, tiêu chuẩn
khẩu phần ăn quy định là 15kg mỗi tháng (1) cho mỗi tù nhân gồm phân nửa
là gạo và phân nửa là độn khoai hay bo bo. Cái tiêu chuẩn này (không
biết do lệnh trên hay do cấp dưới tự tung) “cải biên” thành 1 phần gạo +
9 phần khoai hay bo bo. Gạo là gạo mốc. Khoai là củ mì (sắn) hay khoai
lang hư thối phơi khô nấu cho heo (lợn) mua giá cực rẻ ngoài chợ trời.
Bo bo từ Liên Xô thì còn nguyên vỏ, ăn vào thế nào, thải ra thế ấy.
Tất cả mọi loại rau trái và cả lúa gạo trong trại đều do người tù làm
ra. Những gia súc: bò, gà, heo, vịt cũng đều từ bàn tay người tù vỗ béo.
Nhưng còn lâu người tù mới được hưởng những “thành quả lao động do tay
mình làm ra”. Cái khẩu hiệu phù phiếm và lừa lọc “lao động là vinh
quang” phải chăng đã là phần thưởng?
Y sĩ rừng rú và chiếc hái tử thần.
Có tin dịch sốt rét ác tính hoành hành dữ dội ở trại tù. Nhiều tù nhân
ngã chết không kịp trối và đều được tặng một chiếc áo quan gỗ xẻ thô sơ
đóng ráp vội vàng, giao cho tù hình sự khiêng đi chôn lấp sơ sài giữa
rừng già, không để lại dấu vết gì, đánh lạc hướng người nhà nạn nhân tìm
cách cướp xác!
Cả trại tù chỉ có mỗi một phương tiện chuyên chở duy nhất là chiếc máy
cày cũ kỹ đoạt của nông dân. Chiếc máy cày này bọn cai tù triệt để khai
thác, sử dụng tối đa vào mọi công việc y như họ khai thác sức lao động
của tù nhân. Phụ tùng máy móc hư hỏng hay thậm chí chưa hư hỏng vẫn bị
bọn chủ mới tháo gỡ đem đi bán phế liệu kiếm tiền bỏ túi, rồi đi mua phụ
tùng cũ hoặc thứ phụ tùng dởm do Trung Cộng chế tạo thay thế. Chiếc máy
cày vốn đã ỳ ạch, càng trở chứng “nằm vạ” liên tục. Hỏng thì sửa. Sửa
xong lại hỏng. Càng có lý do để sửa đi sửa lại mãi… rút được nhiều tiền
bỏ túi!
Bệnh viện của tỉnh ở cách xa trại giam hàng chục kilômét. Trong khi đó,
rất hiếm khi chiếc máy cày rỗi việc hay có thể nổ máy để chở bệnh nhân
đi cấp cứu. Bệnh nhân nào được máy cày chở đi cấp cứu là tốt số! Nhưng
cũng khó mà hy vọng sống sót sau khi được “nhập viện”. Bởi lẽ những “y
bác sĩ cách mạng” tay nghề rừng rú, vừa dốt về y khoa vừa tắc trách về
nhiệm vụ, thậm chí luôn luôn vòi vĩnh cho được tiền đút lót mới chữa
trị. Trong khi các y bác sĩ có lương tâm và lành nghề của VNCH, kẻ thì
bị đuổi việc, người thì đã trốn ra ngoại quốc, một số người khác bị tống
vào trại giam. Những vị bác sĩ được “lưu nhiệm” thì lại chỉ được giao
các phần vụ không thuộc chuyên môn của mình.
Xã hội không còn nữa bóng dáng “lương y như từ mẫu” mà dẫy đầy những tên
lưu manh sát nhân đội lốt thầy thuốc! “Gian y hơn ác mẫu!”
Dụng cụ y khoa và âu dược trước 30/4/1975 được trang bị đầy đủ cho các
bệnh viện ở Miền Nam VN nay trở thành chiến lợi phẩm của tân chế độ, hầu
hết bị tuồn về miền Bắc xhcn. Số còn lại thì hoặc bị phá hỏng hoặc bị
sử dụng bừa bãi khiến chúng nhanh chóng trở thành hàng phế liệu, giấy
vụn, nhựa vụn, thủy tinh vụn và sắt vụn.
Thuốc tây trong bệnh viện, người ta đua nhau vơ vét mang đi bán chợ trời
với giá cắt cổ. Nhiều khi lại vớ phải thuốc quá hạn, thuốc giả, tiền
mất tật mang!
Bệnh ruột thừa, trước 30/4/1975, giải phẫu dễ dàng như mổ thiến gà,
nhanh chóng và an toàn, bây giờ cứ 100 bệnh nhân mổ ruột thừa thì đã
trên dưới 8-9 chục người lăn ra chết bất đắc kỳ tử do “thầy thuốc rừng”
mổ xẻ vô trách nhiệm, mất nhân tính và mất cả vệ sinh cũng như mù tịt về
phương pháp phẫu thuật.
Bệnh sốt rét trước năm 1975 là thứ bệnh cũng hết sức dễ chữa, nhưng nay
bệnh nhân sốt rét đưa vào bệnh viện là hết số! Gian y phủi tay, đổ lỗi
cho sốt rét “ác tính”. Ở trại tù khổ sai, không ít nạn nhân mất mạng vì
“sốt rét ác tính”! Bác sĩ tù nhân chỉ làm nhiệm vụ trưởng bệnh xá trại
tù. Bệnh xá thì làm gì có âu dược, làm gì có dụng cụ y khoa! Thuốc toàn
“chế” từ cỏ lá rừng làm thành những viên “thuốc tể” chẳng biết công hiệu
hay tác hại ra sao, khi được cấp, bệnh nhân phải uống tại chỗ, cai tù
giám sát! Do đó, mỗi lần nhắc tới trại lao động cải tạo là mỗi lần tôi
rởn gai ốc, sợ chồng mình nhỡ có đau bệnh gì như đau ruột thừa hay sốt
rét rừng e cũng sẽ ra đi không lời giã biệt. Bệnh ghẻ lở trong trại cũng
là thứ bệnh lây lang bất trị.
“Đến buồn đi ỉa…”
Ở trại tù, người ta gia tăng hành hạ người tù mỗi ngày một tàn nhẫn hơn.
Người tù vẫn bị xếp ngang hàng với trâu bò, bị sử dụng thay cho trâu bò
để kéo cày, kéo bừa, kéo xe, vỡ hoang, khai hóa, kê vai “chuyên chở”
những vật nặng thay cho xe bò, xe trâu; song quyền ăn uống, nghỉ ngơi
thì hoàn toàn bị cướp đoạt. Cuộc sống của tù nhân tồi tệ gấp bội so với
con trâu con bò. Nhọc nhằn khuân vác đất đá gỗ súc vừa xong thì bị lôi
đi phá rừng, xẻ núi, đào kênh, lấp hố, vỡ ruộng, chặt tre… Tù nhân đổ ra
không biết bao nhiêu mồ hôi, nước mắt và cả máu, nhưng mức đền bù vẫn
cứ là 15 kg củ mì, củ lang mỗi tháng (mỗi ngày ½ kg cho 3 bữa ăn), có
khi đột nhiên hạ xuống dưới mức 13kg một tháng. Nếu ai nhỡ bị bệnh hay
bị “kỷ luật” thì… tiêu chuẩn chỉ còn 9 cân/tháng… nghĩa là húp cháo
lỏng!
Cộng sản chiếu phim cho tù nhân xem cảnh người nông dân Việt Nam thời
thực dân Pháp thay trâu bò kéo cày bừa. Nhưng dưới thời Tây đô hộ, cứ
đến mùa thu hoạch, người dân còn có lúa, có gạo mang về nuôi cả nhà cho
đến kỳ giáp hạt. Còn bây giờ, thời đại xã hội chủ nghĩa theo chế độ Cộng
sản, người tù cải tạo lẫn người nông dân ngoài đời đều trở lại kiếp
sống trâu bò. Mọi thứ người tù hay người dân làm ra đều bị coi là “tài
sản xã hội chủ nghĩa” để đảng và nhà nước cộng sản CSVN cướp sạch.
Nhắc tới cuộc sống của các tù nhân trong nhà tù cộng sản, tôi nhớ HCM
lúc ở trong nhà tù thực dân Anh bên Tàu có bài thơ độc đáo: “Đến buồn đi ỉa cũng không cho”(2).
Bài thơ này chỉ phản ảnh một phần nhỏ thân phận các tù nhân cải tạo
trong đó có chồng tôi. Rõ ràng các tù nhân trong nhà tù Cộng sản không
phải chỉ “đến buồn đi ỉa cũng không cho” mà còn phải ỉa đái lồ lộ giữa
thanh thiên bạch nhật trước mặt đồng đội mình. Muốn hay không muốn,
những đồng đội ấy cũng phải hít thở trọn vẹn cái mùi xú khí xông thẳng
vào mũi họ đang lúc họ lao động! Lần lượt kẻ trước người sau đều vậy
cả!
Bên trong trại, tù nhân phải giải quyết chuyện ỉa đái của mình trên một
dãy “sàn cầu” dài để dễ bề canh chừng nhau, kiểm soát lẫn nhau! Chất
thải từ bụng người trút vãi ra dưới đất được dùng làm phân gọi là “phân
bắc” tức phân cứt người, khác với phân chuồng (cứt gia súc) và phân xanh
(lá ủ). Chất thải của người bệnh kiết lỵ, bệnh ỉa tháo, bệnh sán lãi,
bệnh tiểu đường… thảy thảy là phân bắc. Một vài tù nhân bị phân công phụ
trách đi gom thu các thứ phân bắc này. Phân bắc pha với nước tiểu khuấy
nhuyễn tưới lên những đám rau xanh trong vài ngày lá rau phát lớn, một
phần nhỏ loại còi cọt bán cho bếp trại tù, phần tốt mang bán chợ trời,
giám thị trại thu tiền bỏ túi, gọi là “cải thiện”! Ban đêm, nhà trại
khóa cửa. Tù nhân cũng giải quyết “việc riêng của mình” như vậy, và dĩ
nhiên trại có thêm lượng “phân bắc” cho canh tác.
Cơm chan nước mưa hòa cùng mồ hôi và nước mắt.
Một cảnh tượng khác của lao động khổ sai xã hội chủ nghĩa: Vào giờ ăn
trưa, khi tiếng còi báo ngưng lao động, tù nhân tập hợp từng tổ để mỗi
người nhận phần ăn trưa, ăn ngay tại chỗ, bất luận trời nắng hay mưa.
Dưới nắng hè nóng như thiêu hay trong cơn mưa tầm tã, mặc cho mồ hôi và
nước mắt hòa cùng cơm canh với nước mưa, tù nhân phải nhai, phải nuốt,
phải thanh toán phần ăn của mình để còn sức lực mà lao động tiếp cho tới
chiều mới về trại. Khoai lang, khoai mì hòa cùng nước mắt, mồ hôi và
nước mưa… mặn mặn chát chát cũng rán mà nuốt!
Nhiều tù nhân ngả bệnh và chết vì cảm lạnh sau mỗi ngày bị hành hạ dày vò như vậy!
- Lao động là vinh quang! Làm nhiều hưởng nhiều. Các anh làm ra, các anh hưởng.
Đó là khẩu hiệu mà bọn cai tù đắc chí nhai đi nhai lại. Nhưng người tù
chẳng thấy cái vinh quang nó nằm ở xó xỉnh nào mà chỉ thấy những gạo
thơm, gỗ quý, dầu bạc hà, bông vải, trái ngon, thịt gà, thịt heo béo tốt
do công lao mồ hôi nước mắt mình làm ra đều biến hết vào mồm, vào túi
cán bộ từ cấp thấp tới cấp cao!
Bóp chết tình người.
Ngoài ra, việc bỏ đói tù nhân còn có mục đích khác thâm hiểm hơn: “dập
tắt tâm thức nổi loạn” nơi người tù hầu “tiểu trừ mầm mống mưu toan phản
động!”
Người tù ăn khổ, ăn đói, suốt ngày quần quật cày sâu cuốc bẫm dưới nắng
mưa, gió bão, đến tối lại bị bắt buộc ngồi khoanh chân bó gối hàng giờ
để làm cái công việc gọi là “kiểm điểm, phê bình và tự phê” hạch tội
nhau: một âm mưu gieo rắc ngờ vực, đố kỵ, chia rẽ dẫn tới hiềm khích hận
thù giữa các tù nhân với nhau! Cho nên, mọi nhà tù CSVN dựng lên để
“cải tạo” những người quân-dân-cán-chính VNCH thua trận đều là những
trại khổ sai trừng giới độc ác nhất, giết dần giết mòn cả thể xác lẫn
tinh thần người tù, làm mất đi tình người cũng như tình đồng đội cũ giữa
những con người bất hạnh này.
Xa cha, xa mẹ, xa vợ, xa con, xa người thân quyến, xa cả xã hội xóm
làng, người tù chỉ còn lại chút tình huynh đệ chi binh với nhau, thì cái
tình này lại là mối nguy đe dọa nghiêm trọng nhất cho chế độ CSVN, nên
bọn cán bộ nhà tù CS quyết bóp chết nó bằng biện pháp cấm “tụ tập” quây
quần bên nhau để “to nhỏ âm mưu phản loạn”. Thô bạo và tinh vi nhất là
thủ đoạn gieo ngờ vực giữa tù nhân với nhau, gây đố kỵ, chia rẽ và căm
thù giữa họ với nhau, một mối thù dai dẳng ăn sâu vào tim óc, huyết quản
từng người, không sao giải tỏa được.
Nhọc nhằn đường thăm nuôi!
Sợ chồng con mình kiệt lực trong nhà tù vì thiếu ăn, các bà mẹ và vợ của
các tù nhân ở nhà dù cơ cực đến mấy cũng tiết kiệm từng đồng tiền, từng
hạt gạo, đếm từng ngày mong kỳ thăm nuôi mau tới, tiếp tế lương thực
cho chồng con và nhìn tận mặt người thân.
Phần tôi và các con tôi, ngay sau đợt thăm nuôi trước đã lo tới chuyến
thăm nuôi sau. Mẹ con cùng ráng nhịn bớt phần ăn mỗi bữa của mình, dành
dụm tiền để mua sắm đồ thăm nuôi tiếp tế cho chồng-cha. Ngày này sang
ngày khác, tháng này sang tháng nọ, mẹ con tôi cứ liên tục cơm độn, rau
luộc chấm mắm, chẳng dám đụng tới miếng thịt hay lát cá.
Thấm thía lắm câu nói: “Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi, mà khó vì lòng người ngại núi e sông”.
Tôi chỉ tâm niệm một điều là đừng vì ngại núi e sông mà bỏ bê chồng, sợ
khi chồng mình đã đi vào cõi âm ti mới hối tiếc thì sự đã muộn. Không
phải chỉ vài ngày, vài tháng, nhưng là năm này sang năm khác, “mấy sông
cũng lội, mấy đèo cũng qua”, miễn sao trong chốn lao tù chồng mình không
phải đói khổ nhọc nhằn, cạn mòn sức lực, trở nên thân tàn ma dại hay
chết bụi chết rừng.
Phương tiện giúp đưa chúng tôi đi gặp chồng sau mỗi hai tháng thường
thường là chiếc xe chở gỗ súc cũ kỹ cà rịch cà tang. Nó đã lỗi thời và
lẽ ra đã vất vào đống sắt phế liệu nếu không có ngày 30/4/1975. Máy nổ
của chiếc xe cổ lỗ ấy phát ra tiếng ầm ĩ đinh tai điếc óc như động cơ
máy bay phản lực chiến đấu gầm thét.
Khi xe lăn bánh, người ngồi trên xe có cảm tưởng như bộ bánh của chiếc
xe chực văng ra khỏi xe. Chiếc xe bò lê nặng nề, lắc lư chậm chạp băng
qua những chặng đường đồi dốc gập ghềnh hoặc hì hục khổ sở lội qua các
khe suối hiểm trở. Lúc leo đèo hay lao đầu xuống triền đồi, chiếc xe
trườn tới rồi giật lui như muốn trút ào mọi người xuống hố sâu, thỉnh
thoảng bất ngờ tăng ga rồi đột ngột kẹt thắng, khựng lại, rung lắc mạnh
hơn.
“Khách” trên xe ngả nghiêng ngã ngửa trong thùng xe, níu kéo nhau kêu la
thất thanh! Tội nghiệp đám con nít đi theo bà, theo mẹ để gặp mặt cha!
Chúng sợ hãi kêu khóc inh ỏi thật đáng thương. Ba đứa con dại của tôi
lần đi thăm nào cũng khốn đốn như vậy, song mỗi khi tới kỳ đi thăm nuôi…
chúng vẫn một mực đòi đi gặp mặt cha cho được.
Một hôm, chiếc xe chở khoảng vài chục đàn bà chúng tôi cùng một số trẻ
con đi thăm nuôi ngồi chen nhau như nêm giữa đủ thứ “hàng thăm nuôi” lổn
ngổn. Xe bò lê lên một sườn đồi bỗng đứt thắng tuột dốc. Ai nấy trên xe
hồn xiêu phách lạc, ơi ới kêu Chúa, kêu Phật. Đám trẻ con hốt hoảng la
khóc thất thanh. Nhưng may mắn chiếc xe đang đà chạy thụt lui thì đụng
vào thành núi đất bên đường thay vì đổ nhào xuống hố. Tỉnh hồn, mới hay
mình còn sống!
Sau cơn ác mộng tai nạn xe chở gỗ súc dùng làm xe chở khách thăm nuôi,
tôi không dám đi loại xe ấy nữa. Mỗi lần đi thăm chồng, tôi thuê xe đạp
thồ chở tôi và các con tôi cùng các thứ thức ăn nuôi chồng theo định kỳ
hai tháng một lần. Đi xe đạp thồ vất vả gấp trăm lần đi xe chở súc,
nhưng yên ổn cho con nít hơn. Vào thời gian này, các loại xe bốn bánh -
kể cả mấy chiếc xe lẽ ra đã phế thải từ lâu như xe chở gỗ súc cũ kỹ
trên, đều bị trưng thu. Còn các loại xe máy nổ hai bánh của người dân
Miền Nam dần dần cũng biến mất vì dân chúng Miền Nam không được cấp
phiếu mua xăng, không được phép đăng bộ xe gắn máy… Họ đành bán đổ bán
tháo xe mình cho cán bộ CS miền Bắc.
Đi xe đạp thồ lên đồi xuống dốc, vượt suối, lội sông vất vả lắm, nhưng tôi không nản chí!
Tại khu thăm nuôi trại, một chiếc bàn dài rộng ngăn cách vợ chồng chúng
tôi, kẻ bên này, người bên kia chiếc bàn, chúng tôi gọi là” bên này
sông, bên kia sông”, chỉ nhìn thấy mặt nhau và nhanh chóng trao gửi cho
nhau đôi lời cần nói trong vòng 5 phút! Các con tôi đứng bên tôi, nhìn
cha chúng nó chờ người cha ôm hôn, nhưng người cha chỉ rưng rưng nước
nhìn con bởi đã có lệnh cấm “quan hệ tình cảm linh tinh”…
Bao lần đi “thăm nuôi” chồng, tôi nghe mãi lời mắng mỏ của cai tù: “Cách
mạng đâu có bỏ đói chồng con các người!” Không bỏ đói? Tại sao lại có
chuyện “thăm-nuôi”! Không đói, chỉ cần thăm, sao cần nuôi? Không bỏ đói,
nhưng người tù nào không được người nhà “thăm nuôi” đều trở thành thứ
“con bà phước” sống nhờ vào tình thương của những bạn tù được thăm nuôi
hoặc phải tìm cách “cải thiện” từ cọng rau, cọng cỏ, củ khoai, củ mì, con chuột, con rắn!
Cải thiện là cái chi chi?
Lần nào đi thăm nuôi chồng, tôi cũng nghe các bà, các chị kháo nhau về chuyện người tù “cải thiện” mưu sinh. Tôi không hiểu người tù “cải thiện”
làm sao, mưu sinh cách nào trong khi hết thảy người dân Miền Nam đang
đói meo, dở sống dở chết ngoài xã hội. Người dân ngoài đời còn chưa kiếm
được thứ gì ở bất cứ đâu để mà mưu sinh, thì những người bị đọa đày
trong lao tù CS lấy gì và bằng cách nào mà cải thiện, mưu sinh?
Xưa nay ở Miền Nam Việt Nam dân đồng ruộng có bao giờ thiếu gạo ăn, kể
cả những khi hạn hán kéo dài hay bão lụt nặng nề gây mất mùa trầm trọng.
Vậy mà bây giờ chính bản thân người nông dân là kẻ làm ra lúa gạo lại
phải chảy nước mắt nhai cơm độn khoai mì, khoai lang, bo bo, bữa no, bữa
đói, đói nhiều hơn no, huống hồ là người tù chính trị.
Thế nhưng có phải vì bản năng sinh tồn, người tù vẫn có cách của họ để “cải thiện” mưu sinh dù bị kiểm soát nghiêm nhặt và có thể phải nhận những trận đòn trừng phạt man rợ chỉ vì “cải thiện”?
Dưới chế độ Cộng sản, từ ngữ “cải thiện” mất đi cái nghĩa “sửa đổi cho tốt hơn” về mặt tinh thần như dân Miền Nam từng hiểu. "Cải thiện"
bây giờ mang một ý nghĩa hoàn toàn vật chất, xấu nhiều hơn tốt. Khi
người cộng sản nói “cải thiện” có nghĩa là làm một cái gì đó bất luận
lương thiện hay bất lương để bù vào cái mà Nhà nước cấm cách hay đã “quy
hoạch vào diện quốc doanh”.
Phải “cải thiện” mới có thêm cái ăn, cái mặc, cái tiêu dùng hằng
ngày mà chế độ không "phân phối" đủ, hay phân phối không đồng đều, không
đến nơi đến chốn do phân biệt đối xử căn cứ vào thứ tự cấp loại ưu tiên
của sổ lương thực, phiếu mua hàng. Nhiều người dân, nhất là đám tiện
dân bị liệt vào thành phần “ngụy” hầu như chẳng mấy khi có được cái cơ
may mua một món hàng cho ra hàng theo chế độ phân phối. Họ bắt buộc phải
“cải thiện” thôi!
Sự cải thiện của họ rất thực tế và ngay lành: “cải thiện” một con
cá dưới sông, dưới biển, hay gieo trồng một luống rau… vậy mà vẫn không
yên. Hết du kích xã tới quản lý thị trường, rồi thuế vụ, công an luôn
rình rập, bắt bớ, kết tội “xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa” hay tội “phá hoại kinh tế quốc doanh”. Ghê gớm chưa? Trong khi đó, cán bộ đảng, cán bộ nhà nước ngang nhiên khai thác tối đa cái quyền “cải thiện”
bằng những hành vi cắt xén, trộm cắp đầy gian trá. Chẳng những không bị
trừng phạt, họ còn được thăng quan tiến chức vun vút và được báo đài
tôn vinh chúc tụng “người tốt việc tốt”.
Khi cán bộ cải thiện.
Không ít cán bộ tranh nhau mang heo, gà vào nuôi trong trường học, bệnh
viện rồi đưa cả phân người, phân gia súc vào những nơi đó làm phân bón
cho rau cải họ trồng, làm mất vệ sinh môi trường, thế nhưng họ lại hãnh
diện rằng là cải thiện chính đáng. Cân bán một con heo nái, phân đôi cân
lượng, ghi vào chứng từ mua bán là 2 con heo thịt! Giá heo hơi thịt cao
gấp đôi gấp ba giá heo hơi nái. Gian lận “đội giá” kiểu đó, họ cũng bảo
là “cải thiện”. Cắt xén lượng hàng hay mặt hàng trong các cửa
hàng quốc doanh, cải thiện đấy. Đánh tráo cân lượng lúa gạo và hàng hóa
các loại để ăn gian ăn bớt của dân nghèo: cải thiện. Ăn cắp công quỹ hay công sản quốc gia: cải thiện…
Đó là chưa kể tới vô số gia đình cán bộ đảng viên CS các cấp thừa thắng
xông lên sau 30/4/1975 từ Miền Bắc tràn vào Miền Nam mà người ta gọi là
cuộc di dân lấn chiếm nhà cửa đất đai vĩ đại nhất trong lịch sử Việt
Nam. Cướp của, đoạt nhà, chia nhau của cướp dưới danh nghĩa “phân phối”.
Có được nhà, dọn vào ở, mọi thứ trang trí hay trang bị đắt tiền của chủ
cũ đều bị vơ vét mang đi bán chợ trời, biến cái cơ ngơi đầy tiện nghi
của người ta thành nhà không vườn trống khoác chiếc áo bần cùng “chuyên
chính vô sản”, bên trong đủ thứ kiểu “cải thiện” quái gở: Heo, gà, vịt
ung dung chung sống với người. Phân người, phân gia súc được tích trữ để
“cải thiện” mấy đám rau xanh gieo trồng bừa bãi khắp sân trước sân sau
nhà và cả nơi sân thượng của những nhà cao cửa rộng cướp đoạt. Phố thị
Miền Nam chẳng những mất đi hoàn toàn cái vẻ mỹ quan quen thuộc trước
đây mà còn liên tục xông ra mùi xú khí gây ô nhiễm cho cuộc sống con
người.
Người tù cải thiện.
Người tù đi làm khổ sai vất vả, đói khát. Cái “cải thiện” của
người tù có thể đơn giản là lén lấy lại chút mồ hôi nước mắt mình làm ra
như củ khoai mì, khoai lang, cây mía, trái bắp, trái ớt, cọng rau chẳng
ra gì. Nhưng thật vô phúc cho người tù nào bị cai tù bắt được đang “cải thiện”,
dù món cải thiện chẳng đáng ba xu ba hào. Bọn cai tù trừng phạt người
“vi phạm” bằng những nhục hình rất dã man, trong khi những món mà người
tù “cải thiện” chưa chắc đã bù đắp được một phần nhỏ công lao khó nhọc mồ hôi, nước mắt và cả máu họ đã đổ ra để làm nên những sản phẩm ấy.
Trong nhà tù cộng sản, khi đi lao động, tù nhân lén kiếm ít rau trái
trong rừng, câu lén một vài con cá dọc bờ sông hay mương lạch chẳng qua
cũng chỉ là những cải thiện lặt vặt, thứ cải thiện lương thiện hơn gấp
bội so với các loại “cải thiện” ăn cắp, cướp giật bất lương của
bọn cán bộ đảng viên cộng sản. Thế nhưng những việc cái thiện chơn chất
ấy của người tù thì lại bị bọn cai tù nhiếc mắng “cải tạo linh tinh” và từ đó người tù lại bị gán ghép hết tội này tới tội khác, toàn là những thứ tội trời ơi đất hỡi để cuối cùng thành tội “chống cải tạo”!
Gia súc gia cầm trong trại do người tù chăn nuôi, bọn cai tù đều xí
phần, coi là của riêng, liên tục giết gà, giết vịt, mổ heo, một phần
dùng để chè chén với nhau, còn lại phần lớn thì mang đi bán chợ đen, thu
tiền chia nhau bỏ túi. Họa hoằn một hai lần một năm lễ lạt, bọn cai tù
cho tù nhân nếm một miếng thịt heo nhỏ bằng đầu ngón chân cái thì lại kể
ơn kể nghĩa “đảng quan tâm, chiếu cố”.
Đến khi gia súc gia cầm bị dịch bệnh, bọn cai tù lại đẩy cho nhà bếp
trại giam những con vật sắp chết, đang giãy chết hay vừa lăn ra chết,
bắt phải nấu cho tù nhân trong trại ăn. Và người tù phụ trách bếp ăn
phải ký nhận vào ghi sổ mua hàng nhìn nhận đó là những “thịt tươi sống”
mua từ thị trường ngoài xã hội. Cai tù “cải thiện” như vậy đó, cải thiện trên xác chết người tù!
Mới hay chữ nghĩa của CSVN vừa thâm vừa độc. Cải thiện không còn
cái ý nghĩa cải sửa cái xấu, làm cho kẻ gian ác thành người thiện hảo.
Ngược lại, nó tạo điều kiện cho kẻ ác càng thêm gian ác!
Những tờ chứng tử đểu cáng.
Một câu chuyện mà người tù cải tạo đã kể lại cho thân nhân mình, ai nghe
chắc cũng động lòng thương kẻ xấu số và căm thù bọn người lòng lang dạ
thú: Có người tù kia vì đói quá khi đi lao động đã “cải thiện” vài
củ khoai mì thì bị bắt gặp. Bọn cai tù bắt người tù ấy quỳ mọp giữa sân
dưới nắng hè, giang hai tay ra, lòng bàn tay để ngửa, hai cục đá nặng
đặt vào lòng hai bàn tay người tù ấy. Người tù mỏi quá chịu không thấu,
nhiều lần buông hòn đá ra, bọn cảnh vệ đến đánh đấm túi bụi, rồi cuối
cùng dùng chiêu ác độc khác phạt người tù.
Một tên cảnh vệ lấy hai củ mì sống nhay vào mồm anh tù, bắt anh phải
nhai sống cho hết, trong khi anh tù không được buông tay đánh rơi hai
hòn đá. Khoai mì này là loại khoai mì Ấn Độ, chỉ dùng trong chế biến
công nghiệp, trâu bò ăn vào còn ngộ độc nằm lăn ra mà chết, huống chi
con người.
Anh tù thọ phạt nhai chưa hết củ mì đã ngã vật xuống đất sùi bọt mép bất
tỉnh. Bọn cảnh vệ kéo anh dậy không phải để giải thoát anh mà lôi anh
xành xạch, tống vào biệt giam. Vài ngày sau, có tin nạn nhân đã chết,
cai tù bí mật sai tù hình sự khiêng xác anh đi chôn trong rừng. Gia đình
nạn nhân không hề biết người thân của mình đã ra người thiên cổ.
Một tuần lễ sau, cai tù gọi bác sĩ tù nhân phụ trách trạm xá lập “vi bằng chứng tử.”
Vị bác sĩ nói người chết đã chôn, làm sao chứng tử được? Cai tù nói:
“bảo viết, anh cứ viết, không lôi thôi gì cả!” Bác sĩ tù nhân viết xuống
dòng chữ: "chết vì kiệt sức"; ông cho rằng cách chứng nhận ỡm ờ
đó vừa được lòng cai tù mà không hại người bị nạn, lại không phạm tới
đạo đức nghề nghiệp. Nhưng tên trưởng cai tù xé toạc tờ chứng tử, quát
mắng vị bác sĩ tù nhân, bắt ông viết lại tờ chứng tử: "Chết vì sốt rét ác tính."
Thời kỳ sau 1975, con muỗi anophen tái xuất khắp Miền Nam Việt Nam. Vi
trùng sốt rét hoành hành trong khi các bệnh viện trong khu vực đều thiếu
thuốc trị bệnh sốt rét rừng khiến nhiều nạn nhân chết chỉ vì sốt rét.
Mà hễ chết vì sốt rét thì đương nhiên là do “sốt rét ác tính,” một
phương thức “hóa giải” gọn nhất, ổn nhất để che đậy tội ác sát nhân của
bọn cai tù.
Một cựu giáo sư Đại học Khoa học tại Sài Gòn bị bắt về tội vượt biên.
Ông Giáo sư ở tù xa nhà, không ai thăm nuôi, nhưng quyết giữ phẩm chất
một nhà giáo VNCH, không cậy dựa vào người khác. Ông luôn tự cảnh giác: “Miếng ăn là miếng tồi tàn”! Ngày này sang ngày khác ông chỉ biết cơm độn, muối hầm và “canh toàn quốc”
(canh toàn là nước) do trại cung cấp. Ông trụ được hơn một năm thì kiệt
sức. Cai tù bảo ông giả bệnh trốn lao động, tống ông vào biệt giam, ăn
cháo lỏng. Ông chết! Bác sĩ tù nhân được gọi đến lập chứng tử. Vị bác sĩ
viết: “Chết vì suy dinh dưỡng”. Cai tù ra lệnh viết lại: "Chết vì sốt rét ác tính."
Cùm sắt.(3)
Nhắc lại chuyện người tù lăn chết vì một củ mì, tôi không thể quên
chuyện cái cùm trong trại tù CS mà bất cứ người cựu tù nào cũng rùng
mình khi nhớ tới, nhắc lại.
Thời chế độ thực dân Pháp, người dân Việt Nam khốn khổ không ít với mấy
chiếc cùm gỗ. Cùm thực dân làm bằng hai mảnh gỗ, mỗi mảnh được đục
khuyết hình nửa vành trăng cách khoảng nhau chừng mười phân. Cái bán
nguyệt mỗi mảnh ghép lại thành vòng tròn. Phạm nhân ngồi bệt xuống tra
chân vào vòng tròn này.
CSVN thì “tinh vi” và “khoa học” hơn thực dân Pháp về phương pháp áp
dụng nhục hình độc ác cho kẻ thù. Thay vì cùm gỗ, họ cho thợ rèn rèn
những khoen sắt, luồng hàng chục cái khoen sắt ấy vào một thanh sắt dài
gọi là “cây thông nòng”. Cây thông nòng đâm xuyên từ vách này sang vách
khác của dãy biệt giam dài hàng chục phòng. Chân tù nhân bị tra vào các
khoen sắt vừa bằng cổ chân, tội nhẹ thì cùm một chân, tội nặng thì cùm
cả hai chân. Một lời nói bâng quơ bị diễn dịch thành ý đồ chống phá:
Cùm. “Cải thiện linh tinh”: Cùm. Gì cũng có thể tra chân vào cùm. Khi bị
cho là ngoan cố, nạn nhân bị cùm chéo hai chân! Chân cùm trong khoen
sắt rèn, nhất cử nhất động cọ xát, đau đớn dường nào. Những người tù bị
cùm khi được thả về phần lớn mang thương tật đến cuối đời. Có người về
mắc chứng hoại tử cả hai chân, rồi chết thảm.
Chết trên đường thăm nuôi.
Một người bạn của tôi tên DTM đi thăm nuôi chồng. Tuy trèo đèo vượt suối
khốn khổ trăm bề, song giống như nhiều bà mẹ và vợ tù khác, không kỳ
thăm nuôi nào chị M không đem theo ba đứa con mọn của chị để chúng gặp
mặt cha.
Một sự rủi ro trở thành tấn thảm kịch đau thương cho gia đình chị M:
Trên đường trở về sau chuyến thăm nuôi, chiếc xe tải chở người đi thăm
nuôi bị tụt dốc, lăn kềnh xuống dốc Đèo Cả (ranh giới Phú Yên-Khánh
Hòa). Cậu con trai đầu của chị tử thương, nó mới 5-6 tuổi! Chị và hai
đứa con khác may mắn thoát chết, nhưng đều mang thương tích. Chồng chị ở
trong tù chỉ nghe kể lại loáng thoáng về cái chết của con mình cho tới
ngày anh về nhà mới hay biết mọi sự!
Một thiếu phụ khác tại một tỉnh ở Miền Nam có chồng bị đưa đi “cải tạo”
tận miền Bắc. Vì sa cơ thất thế và lâm cảnh nghèo túng sau 30/4/1975 đổi
đời, người phụ nữ đáng thương ấy hiếm khi đi thăm nuôi chồng.
Một hôm, được tin chồng bị bệnh nặng, thập tử nhất sinh, chị quyết đi,
hy vọng gặp mặt chồng để nói lên lời chào biệt lần cuối hay ít ra khích
lệ tinh thần chồng mình. Chị ráng tiết kiệm, dành dụm tiền để mua quà và
thuốc trị bệnh cho chồng. Nhưng sau khi mua sắm đồ thăm nuôi, chị không
còn tiền để đáp xe từ Nam ra Bắc hàng ngàn cây số. Thời kỳ đó, xe khách
Bắc-Nam lại hiếm hoi, giá chợ đen rất cao. Được bạn bè mách nước, một
hôm chị mon men ra quốc lộ đón xe bộ đội, năn nỉ chú bộ đội lái xe cho
quá giang, dĩ nhiên dúi vào tay chú lái xe ít tiền “cà phê cà pháo.”
Chuyện “đi nhờ” xe bộ đội với tiền trà nước song phẳng là chuyện thường
ngày ở Miền Nam VN sau 30/4/1975. Hàng lậu, hàng cấm gì cũng “an toàn
trên xa lộ” tùy theo giá cả trà nước.
Vừa chạy ra khỏi thành phố Nha Trang độ chừng vài chục kilômét, chiếc xe
bộ đội bỗng loạng choạng rồi đổ nhào, có lẽ do tài xế ngủ gục, bạt tay
lái. Chị chết tại chỗ, có lẽ do chấn thương sọ não. Bộ đội lục túi chị,
thấy giấy tờ chứng nhận chị đi thăm chồng - “sĩ quan ngụy đang cải tạo”,
sợ liên quan phản động, mấy chú bộ đội lấp vội xác chị ở bìa rừng, xa
chỗ xe bị tai nạn nhằm phi tang dấu vết, rồi lên xe nhà binh khác trốn
mất dạng!
Mấy hôm sau người dân lao động gần đó phát hiện tử thi người thiếu phụ
xấu số sình lên bốc mùi thúi. Dân chúng góp tay mua quan tài chôn cất
chị. Họ cắm một khúc cây để làm dấu. Dường như có người biết cái chết ấy
do xe bộ đội gây ra rồi vất bỏ, nhưng thời buổi ấy đâu ai dám hé môi tố
cáo tội ác của người CS. Ách giữa đàng quàng vào cổ, nguy lắm!
Chồng của người đàn bà xấu số không hay biết gì về tai họa xảy ra cho vợ
mình. Ra khỏi tù, trở về nhà với thân tàn ma dại, anh đi tìm kiếm…,
nghi vợ mình “sang ngang”. Về sau có người mách cho anh biết, anh đến
tận nơi đào hài cốt thì mới vỡ lẽ!
Chưa tốt chưa về!
Mỗi lần đi thăm nuôi để thấy mặt chồng, tôi cảm nhận một chút an ủi xoa
dịu con tim đau nhói của mình. Nhưng lần nào cũng vậy, nhìn thấy chồng
trong thân phận lao tù, tôi không thể không bật khóc.
Chính sách của chế độ CS ngày nào cũng lặp đi lặp lại trên các loa phóng thanh: "Ngụy quân, ngụy quyền tập trung cải tạo ba tháng.”
Nhưng thời gian tù tội và lao động khổ sai của quân-cán-chính VNCH đã
nhân lên tới gấp hai, gấp ba, gấp bốn, hay gấp hàng chục lần cái mức ba
tháng, vẫn chẳng mấy ai được về! Sau nhiều lời giải thích ngụy biện dối
trá lố bịch khoái chấp nhận, đám quan chức Cộng sản tự bào chữa trâng
tráo:
- Cải tạo chưa tốt, chưa về.
Hoặc:
- Các bà mẹ, các bà vợ chưa chấp hành tốt đường lối chính sách ở địa phương, "nhân dân chưa cho chồng-con các người về”!
“Nhân dân” nào ác ôn và ngu xuẩn đến độ đè đầu bóp cổ chính mình? Chỉ có Đảng Cộng sản gian manh và hiểm độc mới “gắp lửa bỏ vào tay nhân dân” vậy thôi!
(Cuối Tháng Tư 2015)
__________________________________________
Chú thích:
(1) Đó là tiêu chuẩn khẩu phần bình thường. Chỉ những tù nhân đi đốn cây
gỗ quý trong rừng mới được tiêu chuẩn việc nặng 21 kg/tháng. Những tù
nhân không lao động (do đau bệnh chẳng hạn), tiêu chuẩn 13kg/tháng. Tù
nhân trong biệt giam chỉ 9kg/tháng, gọi là tiêu chuẩn cháo lỏng và không
có phần ăn sáng! Thời VNCH không hề phân biệt hạng loại như vậy, mọi tù
nhân đều hưởng đồng đều tiêu chuẩn 21kg/tháng, gạo trắng thơm.
(2) Đau khổ chi bằng mất tự do
Đến buồn đi ỉa cũng không cho
Cửa tù khi mở không đau bụng
Đau bụng thì không mở cửa tù
(3) Khi viết về cùm sắt, tôi lấy làm tiếc không có được hình ảnh minh
họa. Ngày 20/4/2015, đọc Blog AnhBaSam, thấy hình vẽ trên bài “Về phát
biểu của pgs/ts Vũ Quang Hiển”, mạn phép sử dụng hình vẽ ấy ở đây. Cám
ơn.
Khôn cũng chết, dại cũng chết, biết thì sống
Hiển Du (Danlambao) - Sấm Trạng Trình có câu:
“Năm trăm đổi lấy một đồng,
Người khôn đi học, thằng ngu dạy đời”
Không ngờ lời tiên tri này đã ứng nghiệm cho dân tộc Việt Nam vào bốn mươi năm trước.
Cộng Sản đến tôi thấy được: Tướng, tá, sĩ quan là dân có trình độ ít
nhất cũng lớp 12, ít nhất cũng tú tài một, tú tài hai bị bắt đi học tập
cải tạo để nghe mấy đứa ngu dốt dạy đời.
Khi bố tôi bị cưỡng chế lao động cải tạo ngoài Bắc, bố và các bác cùng
chung số phận phải ăn từng con giun, con dế để có sinh lực mà sống. Bố
nói:
“Bất cứ con gì, nếu con ấy ngo ngoe là tranh nhau ăn, kể cả con dán,
con trùng, ăn tươi nuốt sống không nấu không nướng, không rửa, không
làm, không chờ không đợi, gặp đâu xơi đó …” Nghe mà nổi gai ốc, nghe mà rùng cả mình, nghe mà sình cả bụng. Thật ngoài sự tưởng tượng từ trước đến giờ.
Ban ngày đi lao động, cơm không đủ no, áo quần không đủ ấm, đêm về phải
học chính trị cho biết chủ nghĩa Các-Mác là thế nào. Cùng phòng có bác
Hùng khi đi rừng bắt được con sáo về nuôi, đến ngày sáo lột lưỡi sáo bắt
chước các ông nói: “Biết rồi, khổ quá, nói mãi.” Cứ thế líu lo
cả ngày, sáo là nguồn vui của cả phòng. Một đêm, có cán bộ tỉnh về thăm
các bác và các bác được ăn sớm hơn để chuẩn bị đến ra mắt cán bộ.
Bác Hùng thương con sáo hai hôm nay bỏ ăn để ở nhà sợ bị chó vật (vì chó
của cán bộ cũng đói quá.) Bác mang con sáo theo, ngồi phía cuối phòng.
Khi cán bộ thao thao một lúc, từ góc phòng có tiếng vỗ cách xè xè và
giọng lảnh lót vang lên: “Biết rồi, khổ quá, nói mãi”, cả phòng không nhịn được cười rần.
Cán bộ ngượng ngùng im một lúc, sau đó người quản lý nói nhỏ: “Chỉ là con sáo thôi thưa đồng chí”
Vừa quê vừa bực, cán bộ đằng hắng: “E hèm, con sáo giỏi nhỉ, e-hèm cho Đảng xin nó về để huấn luyện nó chửi Mỹ nhé, mang nó lên đây cho cán bộ.”
Bác Hùng đau lòng vì biết ngày mai chú sáo sẽ được tắm nước sôi. Cán bộ vừa nhét con sáo vào túi quảy vừa đằng hắng:
“Các bác có nghe câu: “Tiên học lễ, hậu học văn” bao giờ chưa? Các bác có hiểu nghĩa gì không?”
Cả phòng im phăng phắc chỉ nghe tiếng sột soạt, sáo đang vẫy vùng tìm đường thoát.
“E-hèm, bởi vì các bác không biết nên cán bộ cũng không quan tâm. Câu
ấy có nghĩa là: “Tiên trên trời còn phải học lễ, hậu ở trong cung còn
phải học văn đấy. Lần sau các bác không được mang sáo theo nhé.”??? Cả phòng ai cũng gập người xuống cười từ trong ruột cười ra. Đúng là dốt mà đi dạy đời.
Cộng Sản đến, tôi học được: Từ ngữ của “Mỹ Ngụy không được dùng” phải cách mạng từ ngữ.
Mỗi lần đạp xe ngang bệnh viện nơi mẹ sinh ra mình với tên nghe dịu hiền thân thương làm sao “Bệnh viện Từ Dũ” bây giờ thấy biển ghi: “Xưởng đẻ” mà đau nhói từ trong tim, có một cục to đùng chặn ngang, muốn nuốt nước bọt mà nghẹn ngay cổ họng. Ôi! Dốt mà đòi cách mạng.
Cộng Sản đến, tôi rõ được: Giám đốc, cán bộ trình độ chỉ đến hoặc chưa
hết cấp một nên phải học bổ túc văn hóa để làm gương cho dân. Giám đốc
lò đường gần nhà chị tôi, tối nào cũng xách cặp táp đi học bổ túc văn
hóa, cô giáo nói nhỏ với chị:
“Ổng nói ổng học hết lớp ba, thương cho miền Nam bị Mỹ xăm lăng, dân
miền Nam sống trong đau khổ khốn cùng, nên tình nguyện đi bộ đội để
giải phóng miền Nam, phần thiệt thòi đó bây giờ Đảng phải đền bù nên
cho làm Giám đốc.” Dốt mà lên cai trị. Đó là chính sách ngu dân.
Cộng sản đến, tôi hiểu được: Nhân dân làm chủ mọi thứ nhưng riêng một thứ đi đâu cũng thấy “Ủy ban nhân dân,” “ Tòa án nhân dân,” “Hội đồng nhân dân,” sướng nhỉ? Cái gì cũng của nhân dân, duy chỉ có “Kho bạc nhà nước.” Rõ ràng là “Lạy ông tôi ở bụi này.” Dốt mà học chơi chữ.
Cộng sản đến, tôi và đồng bào miền Nam ruột thịt trở nên vô sản: Lần đổi tiền đầu tiên “năm trăm đổi lấy một đồng,”
mỗi gia đình chỉ được đổi nhiều nhất đến $200 tiền mới, tiền cũ đem đốt
hết. Lần đổi tiền thứ nhì có đâu mà đổi. Dốt lên nắm kinh tế. Đó là
chính sách bần cùng hóa.
Cộng sản đến, tôn giáo bị tiêu diệt: Cộng sản vô thần nên bốn mươi năm
qua sản sinh tầng lớp vô thần, vô đạo đức, do đó đạo đức suy đồi trầm
trọng. Từ trong học đường, học sinh đánh đập nhau tàn nhẫn, lột quần xé
áo nhau, quay phim đưa lên mạng xã hội một cách khoái chí xem như là
thành tích vẻ vang. Cô giáo giữ trẻ hành hạ trẻ em nhiều hình thức còn
hơn là tra tấn tù binh, nào là xách ngược chân dìm đầu vào thùng phi
nước; nắm tóc dập trán xuống bàn; bóp mũi cho há miệng đổ thức ăn vào;
tát vào mặt liền tay cho cháu há miệng rồi nhét thuốc vào cháu ói ra thì
dập mặt xuống chỗ ói. Bao nhiêu hành động tàn nhẫn không bút mực nào
kể hết. Thật là một lũ “mặt người lòng thú,” một lũ vô thần mất hết
lương tri.
Nhà thờ bị giỡ, đập phá, tôn giáo bị bắt bớ, các điểm nhóm họp thờ
phượng bị nghiêm cấm. Mục sư, linh mục, giáo dân bị bắt bớ đánh đập.
Chúng muốn “Thay Trời làm mưa.” Vênh vang: “Bàn tay ta làm nên tất cả. Với sức người sỏi đá cũng thành cơm.” Vì thế mà dân tộc vô phước, khổ sở trăm bề.
Ở vùng sâu, vùng xa, vùng quê nghèo nàn nhân dân vẫn còn đói khổ, bữa ăn
của họ chỉ có chén muối ớt và rổ rau, đọt cây mì hay đọt cây bố luột.
Hoặc chỉ có nồi canh rau mùng tơi nước nhiều rau ít và mấy con tép bạc
nhỏ xíu. Trứng gà, hay trứng vịt đều thuộc loại xa xỉ thì nói chi đến
miếng thịt miếng cá. Cơm đãi khách sang trọng chút xíu là có mấy lát
thịt ba rọi kho với mấy lát chuối rừng non (chuối nhiều hơn thịt). Cũng
bởi vì sự kiêu ngạo của những kẻ xuẩn ngốc, ngu đần mà nhân dân gánh
chịu.
Cộng Sản đến, sản sinh một loại lý lịch mới, lý lịch của “phó thường dân”
là những ngụy quân, ngụy quyền. Phó thường dân tức là không phải thường
dân, tệ hơn thường dân, cái gì cũng chịu thua thiệt, thua thiệt tất cả
mọi lãnh vực. Con của phó thường dân đi học thua, đi thi thua, đi làm
thua, từ thua tới thua không ngóc đầu lên nổi đến đỗi chỉ còn một đường
là đi trốn. Trốn đường bộ, trốn đường biển, khổ cực trăm bề, thập tử
nhất sanh, nguy biến khôn lường. Đường bộ gặp cướp núi, cướp rừng, đường
biển gặp hải tặc hung dữ hơn sư tử, ác hơn cầm thú. Không may bị bắt
thì hai chữ “phản quốc” bị tròng vào cổ, bị tù cải tạo, bị nạo sạch
tiền, bị phiền lý lịch…
Ôi, nói đến Cộng sản ai cũng lắc đầu, nhìn xuống, không dám nhìn lên vì sợ bị “tố”.
Ôi, bút mực nào mà tả hết những đoạn trường dân đen gánh chịu “đoạn trường ai có qua cầu mới hay.”
Biết bao kẻ đã thầm kêu: “Ngẫm hay muôn sự tại trời…”(*)
Ôi lời tiên tri: “Năm trăm đổi lấy một đồng,
Người khôn đi học, thằng ngu dạy đời.”, đã thành hiện thực từ bốn mươi năm qua.
Đã dạy cho dân đen bài học biết để mà sinh tồn.
Cộng Sản ơi là Cộng Sản!
Hiển Du (Danlambao) - Sấm Trạng Trình có câu:
“Năm trăm đổi lấy một đồng,
Người khôn đi học, thằng ngu dạy đời”
Không ngờ lời tiên tri này đã ứng nghiệm cho dân tộc Việt Nam vào bốn mươi năm trước.
Cộng Sản đến tôi thấy được: Tướng, tá, sĩ quan là dân có trình độ ít
nhất cũng lớp 12, ít nhất cũng tú tài một, tú tài hai bị bắt đi học tập
cải tạo để nghe mấy đứa ngu dốt dạy đời.
Khi bố tôi bị cưỡng chế lao động cải tạo ngoài Bắc, bố và các bác cùng
chung số phận phải ăn từng con giun, con dế để có sinh lực mà sống. Bố
nói:
“Bất cứ con gì, nếu con ấy ngo ngoe là tranh nhau ăn, kể cả con dán,
con trùng, ăn tươi nuốt sống không nấu không nướng, không rửa, không
làm, không chờ không đợi, gặp đâu xơi đó …” Nghe mà nổi gai ốc, nghe mà rùng cả mình, nghe mà sình cả bụng. Thật ngoài sự tưởng tượng từ trước đến giờ.
Ban ngày đi lao động, cơm không đủ no, áo quần không đủ ấm, đêm về phải
học chính trị cho biết chủ nghĩa Các-Mác là thế nào. Cùng phòng có bác
Hùng khi đi rừng bắt được con sáo về nuôi, đến ngày sáo lột lưỡi sáo bắt
chước các ông nói: “Biết rồi, khổ quá, nói mãi.” Cứ thế líu lo
cả ngày, sáo là nguồn vui của cả phòng. Một đêm, có cán bộ tỉnh về thăm
các bác và các bác được ăn sớm hơn để chuẩn bị đến ra mắt cán bộ.
Bác Hùng thương con sáo hai hôm nay bỏ ăn để ở nhà sợ bị chó vật (vì chó
của cán bộ cũng đói quá.) Bác mang con sáo theo, ngồi phía cuối phòng.
Khi cán bộ thao thao một lúc, từ góc phòng có tiếng vỗ cách xè xè và
giọng lảnh lót vang lên: “Biết rồi, khổ quá, nói mãi”, cả phòng không nhịn được cười rần.
Cán bộ ngượng ngùng im một lúc, sau đó người quản lý nói nhỏ: “Chỉ là con sáo thôi thưa đồng chí”
Vừa quê vừa bực, cán bộ đằng hắng: “E hèm, con sáo giỏi nhỉ, e-hèm cho Đảng xin nó về để huấn luyện nó chửi Mỹ nhé, mang nó lên đây cho cán bộ.”
Bác Hùng đau lòng vì biết ngày mai chú sáo sẽ được tắm nước sôi. Cán bộ vừa nhét con sáo vào túi quảy vừa đằng hắng:
“Các bác có nghe câu: “Tiên học lễ, hậu học văn” bao giờ chưa? Các bác có hiểu nghĩa gì không?”
Cả phòng im phăng phắc chỉ nghe tiếng sột soạt, sáo đang vẫy vùng tìm đường thoát.
“E-hèm, bởi vì các bác không biết nên cán bộ cũng không quan tâm. Câu
ấy có nghĩa là: “Tiên trên trời còn phải học lễ, hậu ở trong cung còn
phải học văn đấy. Lần sau các bác không được mang sáo theo nhé.”??? Cả phòng ai cũng gập người xuống cười từ trong ruột cười ra. Đúng là dốt mà đi dạy đời.
Cộng Sản đến, tôi học được: Từ ngữ của “Mỹ Ngụy không được dùng” phải cách mạng từ ngữ.
Mỗi lần đạp xe ngang bệnh viện nơi mẹ sinh ra mình với tên nghe dịu hiền thân thương làm sao “Bệnh viện Từ Dũ” bây giờ thấy biển ghi: “Xưởng đẻ” mà đau nhói từ trong tim, có một cục to đùng chặn ngang, muốn nuốt nước bọt mà nghẹn ngay cổ họng. Ôi! Dốt mà đòi cách mạng.
Cộng Sản đến, tôi rõ được: Giám đốc, cán bộ trình độ chỉ đến hoặc chưa
hết cấp một nên phải học bổ túc văn hóa để làm gương cho dân. Giám đốc
lò đường gần nhà chị tôi, tối nào cũng xách cặp táp đi học bổ túc văn
hóa, cô giáo nói nhỏ với chị:
“Ổng nói ổng học hết lớp ba, thương cho miền Nam bị Mỹ xăm lăng, dân
miền Nam sống trong đau khổ khốn cùng, nên tình nguyện đi bộ đội để
giải phóng miền Nam, phần thiệt thòi đó bây giờ Đảng phải đền bù nên
cho làm Giám đốc.” Dốt mà lên cai trị. Đó là chính sách ngu dân.
Cộng sản đến, tôi hiểu được: Nhân dân làm chủ mọi thứ nhưng riêng một thứ đi đâu cũng thấy “Ủy ban nhân dân,” “ Tòa án nhân dân,” “Hội đồng nhân dân,” sướng nhỉ? Cái gì cũng của nhân dân, duy chỉ có “Kho bạc nhà nước.” Rõ ràng là “Lạy ông tôi ở bụi này.” Dốt mà học chơi chữ.
Cộng sản đến, tôi và đồng bào miền Nam ruột thịt trở nên vô sản: Lần đổi tiền đầu tiên “năm trăm đổi lấy một đồng,”
mỗi gia đình chỉ được đổi nhiều nhất đến $200 tiền mới, tiền cũ đem đốt
hết. Lần đổi tiền thứ nhì có đâu mà đổi. Dốt lên nắm kinh tế. Đó là
chính sách bần cùng hóa.
Cộng sản đến, tôn giáo bị tiêu diệt: Cộng sản vô thần nên bốn mươi năm
qua sản sinh tầng lớp vô thần, vô đạo đức, do đó đạo đức suy đồi trầm
trọng. Từ trong học đường, học sinh đánh đập nhau tàn nhẫn, lột quần xé
áo nhau, quay phim đưa lên mạng xã hội một cách khoái chí xem như là
thành tích vẻ vang. Cô giáo giữ trẻ hành hạ trẻ em nhiều hình thức còn
hơn là tra tấn tù binh, nào là xách ngược chân dìm đầu vào thùng phi
nước; nắm tóc dập trán xuống bàn; bóp mũi cho há miệng đổ thức ăn vào;
tát vào mặt liền tay cho cháu há miệng rồi nhét thuốc vào cháu ói ra thì
dập mặt xuống chỗ ói. Bao nhiêu hành động tàn nhẫn không bút mực nào
kể hết. Thật là một lũ “mặt người lòng thú,” một lũ vô thần mất hết
lương tri.
Nhà thờ bị giỡ, đập phá, tôn giáo bị bắt bớ, các điểm nhóm họp thờ
phượng bị nghiêm cấm. Mục sư, linh mục, giáo dân bị bắt bớ đánh đập.
Chúng muốn “Thay Trời làm mưa.” Vênh vang: “Bàn tay ta làm nên tất cả. Với sức người sỏi đá cũng thành cơm.” Vì thế mà dân tộc vô phước, khổ sở trăm bề.
Ở vùng sâu, vùng xa, vùng quê nghèo nàn nhân dân vẫn còn đói khổ, bữa ăn
của họ chỉ có chén muối ớt và rổ rau, đọt cây mì hay đọt cây bố luột.
Hoặc chỉ có nồi canh rau mùng tơi nước nhiều rau ít và mấy con tép bạc
nhỏ xíu. Trứng gà, hay trứng vịt đều thuộc loại xa xỉ thì nói chi đến
miếng thịt miếng cá. Cơm đãi khách sang trọng chút xíu là có mấy lát
thịt ba rọi kho với mấy lát chuối rừng non (chuối nhiều hơn thịt). Cũng
bởi vì sự kiêu ngạo của những kẻ xuẩn ngốc, ngu đần mà nhân dân gánh
chịu.
Cộng Sản đến, sản sinh một loại lý lịch mới, lý lịch của “phó thường dân”
là những ngụy quân, ngụy quyền. Phó thường dân tức là không phải thường
dân, tệ hơn thường dân, cái gì cũng chịu thua thiệt, thua thiệt tất cả
mọi lãnh vực. Con của phó thường dân đi học thua, đi thi thua, đi làm
thua, từ thua tới thua không ngóc đầu lên nổi đến đỗi chỉ còn một đường
là đi trốn. Trốn đường bộ, trốn đường biển, khổ cực trăm bề, thập tử
nhất sanh, nguy biến khôn lường. Đường bộ gặp cướp núi, cướp rừng, đường
biển gặp hải tặc hung dữ hơn sư tử, ác hơn cầm thú. Không may bị bắt
thì hai chữ “phản quốc” bị tròng vào cổ, bị tù cải tạo, bị nạo sạch
tiền, bị phiền lý lịch…
Ôi, nói đến Cộng sản ai cũng lắc đầu, nhìn xuống, không dám nhìn lên vì sợ bị “tố”.
Ôi, bút mực nào mà tả hết những đoạn trường dân đen gánh chịu “đoạn trường ai có qua cầu mới hay.”
Biết bao kẻ đã thầm kêu: “Ngẫm hay muôn sự tại trời…”(*)
Ôi lời tiên tri: “Năm trăm đổi lấy một đồng,
Người khôn đi học, thằng ngu dạy đời.”, đã thành hiện thực từ bốn mươi năm qua.
Đã dạy cho dân đen bài học biết để mà sinh tồn.
Cộng Sản ơi là Cộng Sản!
Anh Hùng 30/4 thành Ăn Cướp, cuối cùng đi Ăn Xin
Trước
năm 1975, họ vẫn rêu rao trên đài Hà Nội và đài MTGPMN thí dụ: quân và
Dân ta đã thắng trận này trận kia, giết chết 100 tên lính Ngụy, làm bị
thương 50 tên khác, bắn hạ 5 máy bay lên thẳng và máy bay ném Bomb, thu
hàng trăm súng các loại. Vì thế sau này Mỹ thống kê từng ngày, họ bắn hạ
bao nhiêu máy bay, mỗi máy bay bao nhiêu người rồi đòi trao trả Hài Cốt
và Tù Binh Mỹ, không biết kiếm đâu ra để trao trả cho Mỹ nên đành ngậm
hột Thị vì cái tội nói láo không căn.
Sau ngày 30/4 họ còn tự sướng lên tới đỉnh bịp bợm. Báo đài lúc nào cũng
huênh hoang, "Quân Đội ta trung với đảng, hiếu với Dân, khó khăn nào
cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng" trừ thằng Tàu Cộng. "Quân đội
ta đã đánh thắng 3 kẻ thù sừng xỏ nhất" hay tuyên bố "VN bây giờ ra ngõ
gặp Anh Hùng".
Anh hùng đến nỗi bỏ xác chất thành đống cho kẻ bại trận thu dọn chiến
trường, lo hậu sự chôn cất, và chăm sóc cho các thương binh của họ. Tại
sao miền Nam nhiều Thương Binh từ chiến trường trở về, miền Bắc thì rất
ít, họa huần lắm mới có một vài người phước đức ông bà để lại, may mắn
được quay trở về dưỡng thương và xum họp với gia đình, còn lại bao nhiêu
khi được lệnh rút cấp tốc thì các đồng chí đồng rận của họ làm lễ truy
điệu sống rồi phơ hết, chôn tại chỗ.
Thống Nhất 2 miền Nam Bắc xong họ phong tặng Anh Hùng rất nhiều thí dụ
như Anh Hùng diệt Mỹ, Anh Hùng diệt máy bay Mỹ, Anh Hùng Lực Lượng Vũ
Trang Nhân Dân, Mẹ VN Anh Hùng, mị và bóp nghẹt sức lao động của Dân
bằng cách phong Anh Hùng Lao Động.
Mà họ Anh Hùng thật cứ như lời họ kể như Anh Hùng dại dột Tô Vĩnh Diện
lấy thân chèn pháo, Anh Hùng xác đã gần chương xình lấy thân mình lấp lỗ
Châu Mai Phan Đình Giót, Anh Hùng Nguyễn Văn Trỗi đi mua phở cho vợ đau
bị bắt lầm vì sớ rớ đi cầu gần 2 quả Mìn của 2 tên Đặc Công bỏ chạy khi
thấy Cảnh Sát. Anh Hùng Phạm Tuân lái Mig tắt máy mắc võng trên Mây chờ
B52 địch xuất hiện mới nổ máy nhào ra bắn hạ máy bay Mỹ. Anh Hùng Du
Kích dùng hết sức lực ghì chặt máy bay lên thẳng của địch xuống cho đồng
đội thanh toán. Nghe thấy kể các Anh Hùng làm tôi cũng muốn thành "Anh
Khùng" luôn.
Khi vào được miến Nam họ bắt đầu trổ mòi ăn Cướp, Cướp đi tất cả những
gì "Mỹ Ngụy" bỏ lại không chừa thứ gì từ cuộn giấy đi cầu "Kiss Me" của
Mỹ, Đoàn xe bít bùng của họ chở cả mấy tháng đồ trong Nam về ngoài Bắc.
Họ tịch thu nhà cửa, Cao Ốc, các văn phòng của các tổ chức bỏ lại, doanh
trại của lính VNCH để lại họ cho QĐND của họ vào thế chân ngay, nhiều
khi chỉ có ít Bộ Đội cũng chiếm giữ một khu doanh trại rộng lớn, trải
dài khắp 4 vùng chiến thuật cũ của QLVNCH.
Họ nghĩ ra cách đổi tiền mấy lần để san bằng khoảng cách đồng tiền Nam Bắc và Cướp tiền của Dân miền Nam.
Họ quyết tâm tịch thu hết vàng bạc do mồ hôi nước mắt của Dân miền Nam
trong chiến dịch đánh Tư Sản Mại Bản, vì thế nhiều gia đình đã nhảy lầu
tự tử vì trắng tay không còn gì.
Bây giờ không còn gì để Cướp nữa họ quay qua Cướp đất của các nhà Chung
như Chùa Chiền, Nhà Thờ, các nhà Dòng như DCCT Hà Nội, Nha Trang, Cồn
Dầu, Tam Tòa v. . v. . .
Vẫn chưa đầy túi tham họ thi nhau Cướp đất Cướp nhà của Dân biến họ
thành những Dân Oan sống vật vờ ngoài vườn hoa Mai Xuân Thưởng để khiếu
nại và chờ giải quyết.
Cuối cùng bao nhiêu năm nay họ kéo bày đàn ra Ngoại Quốc ăn xin các Nước như Mỹ, Úc, Nhật v..v...
Bao nhiêu cũng không đầy túi tham của họ, nên họ nghĩ kế xây các tượng
đài, đường xá, cầu cống, chưa đem vào sử dụng đã bị hư hỏng, vì họ là
các chuyên gia xây cất, xây thì ít, cất thì nhiều.
Bái viết này kể về 3 giai đoạn của đảng CSVN quang vinh từ nhận là Anh Hùng, thành Ăn Cướp, cuối cùng thành Ăn Xin./.
Ngày 19/04/2015
Trước
năm 1975, họ vẫn rêu rao trên đài Hà Nội và đài MTGPMN thí dụ: quân và
Dân ta đã thắng trận này trận kia, giết chết 100 tên lính Ngụy, làm bị
thương 50 tên khác, bắn hạ 5 máy bay lên thẳng và máy bay ném Bomb, thu
hàng trăm súng các loại. Vì thế sau này Mỹ thống kê từng ngày, họ bắn hạ
bao nhiêu máy bay, mỗi máy bay bao nhiêu người rồi đòi trao trả Hài Cốt
và Tù Binh Mỹ, không biết kiếm đâu ra để trao trả cho Mỹ nên đành ngậm
hột Thị vì cái tội nói láo không căn.
Sau ngày 30/4 họ còn tự sướng lên tới đỉnh bịp bợm. Báo đài lúc nào cũng
huênh hoang, "Quân Đội ta trung với đảng, hiếu với Dân, khó khăn nào
cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng" trừ thằng Tàu Cộng. "Quân đội
ta đã đánh thắng 3 kẻ thù sừng xỏ nhất" hay tuyên bố "VN bây giờ ra ngõ
gặp Anh Hùng".
Anh hùng đến nỗi bỏ xác chất thành đống cho kẻ bại trận thu dọn chiến
trường, lo hậu sự chôn cất, và chăm sóc cho các thương binh của họ. Tại
sao miền Nam nhiều Thương Binh từ chiến trường trở về, miền Bắc thì rất
ít, họa huần lắm mới có một vài người phước đức ông bà để lại, may mắn
được quay trở về dưỡng thương và xum họp với gia đình, còn lại bao nhiêu
khi được lệnh rút cấp tốc thì các đồng chí đồng rận của họ làm lễ truy
điệu sống rồi phơ hết, chôn tại chỗ.
Thống Nhất 2 miền Nam Bắc xong họ phong tặng Anh Hùng rất nhiều thí dụ
như Anh Hùng diệt Mỹ, Anh Hùng diệt máy bay Mỹ, Anh Hùng Lực Lượng Vũ
Trang Nhân Dân, Mẹ VN Anh Hùng, mị và bóp nghẹt sức lao động của Dân
bằng cách phong Anh Hùng Lao Động.
Mà họ Anh Hùng thật cứ như lời họ kể như Anh Hùng dại dột Tô Vĩnh Diện
lấy thân chèn pháo, Anh Hùng xác đã gần chương xình lấy thân mình lấp lỗ
Châu Mai Phan Đình Giót, Anh Hùng Nguyễn Văn Trỗi đi mua phở cho vợ đau
bị bắt lầm vì sớ rớ đi cầu gần 2 quả Mìn của 2 tên Đặc Công bỏ chạy khi
thấy Cảnh Sát. Anh Hùng Phạm Tuân lái Mig tắt máy mắc võng trên Mây chờ
B52 địch xuất hiện mới nổ máy nhào ra bắn hạ máy bay Mỹ. Anh Hùng Du
Kích dùng hết sức lực ghì chặt máy bay lên thẳng của địch xuống cho đồng
đội thanh toán. Nghe thấy kể các Anh Hùng làm tôi cũng muốn thành "Anh
Khùng" luôn.
Khi vào được miến Nam họ bắt đầu trổ mòi ăn Cướp, Cướp đi tất cả những
gì "Mỹ Ngụy" bỏ lại không chừa thứ gì từ cuộn giấy đi cầu "Kiss Me" của
Mỹ, Đoàn xe bít bùng của họ chở cả mấy tháng đồ trong Nam về ngoài Bắc.
Họ tịch thu nhà cửa, Cao Ốc, các văn phòng của các tổ chức bỏ lại, doanh
trại của lính VNCH để lại họ cho QĐND của họ vào thế chân ngay, nhiều
khi chỉ có ít Bộ Đội cũng chiếm giữ một khu doanh trại rộng lớn, trải
dài khắp 4 vùng chiến thuật cũ của QLVNCH.
Họ nghĩ ra cách đổi tiền mấy lần để san bằng khoảng cách đồng tiền Nam Bắc và Cướp tiền của Dân miền Nam.
Họ quyết tâm tịch thu hết vàng bạc do mồ hôi nước mắt của Dân miền Nam
trong chiến dịch đánh Tư Sản Mại Bản, vì thế nhiều gia đình đã nhảy lầu
tự tử vì trắng tay không còn gì.
Bây giờ không còn gì để Cướp nữa họ quay qua Cướp đất của các nhà Chung
như Chùa Chiền, Nhà Thờ, các nhà Dòng như DCCT Hà Nội, Nha Trang, Cồn
Dầu, Tam Tòa v. . v. . .
Vẫn chưa đầy túi tham họ thi nhau Cướp đất Cướp nhà của Dân biến họ
thành những Dân Oan sống vật vờ ngoài vườn hoa Mai Xuân Thưởng để khiếu
nại và chờ giải quyết.
Cuối cùng bao nhiêu năm nay họ kéo bày đàn ra Ngoại Quốc ăn xin các Nước như Mỹ, Úc, Nhật v..v...
Bao nhiêu cũng không đầy túi tham của họ, nên họ nghĩ kế xây các tượng
đài, đường xá, cầu cống, chưa đem vào sử dụng đã bị hư hỏng, vì họ là
các chuyên gia xây cất, xây thì ít, cất thì nhiều.
Bái viết này kể về 3 giai đoạn của đảng CSVN quang vinh từ nhận là Anh Hùng, thành Ăn Cướp, cuối cùng thành Ăn Xin./.
Ngày 19/04/2015
40 năm sau VNCH dần phục sinh
Cánh Dù Lộng Gió (Danlambao) - Ngày
Quốc Hận 30/4/1975, ngày mà ộng bạn Đồng Minh Mỹ khai tử VNCH, ngày mà
nỗi nhục mất Nước, nỗi đau phản bội, nỗi oan thất trận. Nỗi buồn của
những người lính triệt buộc phải buông súng đầu hàng vì lệnh của ông vua
2 ngày hèn tướng Dương Văn Minh. Một chế độ nhân bản đã bị chính người
Anh Em ruột thịt của mình là phía Cộng Sản Bắc Việt tráo trở, xé bỏ hiệp
định Paris đã ký kết, vượt Vĩ Tuyến 17 xâm nhập, dồn hết lực lượng
cưỡng chiếm miền Nam.
Kể từ ngày đó miền Nam đã bị nhuộm đỏ, bị thế giới lãng quên nếu không
có những cuộc vượt Biển đầy gian nan nguy hiểm tìm đến bến bờ tự do của
các thuyền Nhân tỵ nạn Cộng Sản, quyết không sống chung với CS cho dù có
phải làm mồi cho Cá ngoài khơi, đến nỗi trên cửa miệng của người miền
Nam lúc đó vẫn nói "Cái cột đèn có thể dời đi được cũng vượt biên".
Lúc đầu họ vì quá sợ hãi chế độ VC nổi tiếng dã man và tàn ác, cai trị
Dân bằng họng súng AK nên vội vàng bỏ Nước ra đi, sau dần dần sống dưới
chế độ củ Mì, củ Khoai, Bo Bo làm chuẩn, nên họ lại quyết tâm ra đi bằng
mọi giá, bằng đường bộ qua đất Cambodia, Lào, bằng đường biển qua đất
Thái, Phi, Malaysia, hay Indonesia. Những người may mắn đến được bến bờ
tự do sẽ nhớ mãi chuyến đi tìm sự sống trong cái chết trước mắt khó ai
quên được, trừ những tên VC nằm vùng được CSVN gài vào những chuyến đi
đó, hay những tên ACQGTMCS sau này kéo nhau về thành Việt Kiều yêu Nước
Ta hay Tàu gì đó mọi người ai cũng biết. Những khúc ruột ngàn dặm này
khi về Nước đóng góp công sức, tiền bạc xây dựng Thiên Đường XHCN có khi
bị CSVN cắt bỏ không thương tiếc như Trần Trường hoặc một số khác.
Bây giờ mọi người ai cũng biết, cũng hiểu chế độ CSVN là một quái thai
do khối CS Quốc Tế tạo ra chuyền tay cho HCM đem chủ nghĩa này về gieo
rắc hạt giống đỏ cho tới tận ngày nay. Cái câu Lê Duẩn đã nói "Ta đánh
đây là đánh cho Liên Xô Trung Quốc" đã quá ấn tượng với người VN 2 miền
rồi, họ đã hiểu thế nào là tay sai, thế nào là đánh thuê cho Nga Tàu,
chính những đảng viên cũng hiểu, nhưng vì miếng cơm, manh áo, sổ hưu, lý
lịch con cháu, nên họ đành ngậm miệng ăn tiền, nhưng lòng không phục.
Hơn ai hết Dân chúng đều hiểu rằng chế độ này không phục vụ vì Dân vì
Nước, chỉ biết tham nhũng, vơ vét, vay vỏ thế giới, hoặc ngửa tay xin,
về vẽ ra kế hoạch này, kế hoạch kia để có cớ bỏ túi, nên tới giờ từ đứa
trẻ mới sinh ra đã phải cõng nợ 1000 USD/1 đầu người.
Hơn thế nữa CSVN còn đầu độc trẻ em căm thù chế độ cũ bằng những bài
Lịch Sử đểu được tự ý dàn dựng như người lấy thân chèn pháo Tô Vĩnh
Diện, Lê Văn Tám, lấy thân mình lấp lỗ châu mai Phan Đình Giót. Khi bắt
đầu thịnh hành Internet thì cũng là lúc toàn bộ sự thật được phơi bày
như huyền thoại HCM, các Anh Hùng đểu mà bọn CSVN đã dàn dựng cũng bị
lật tẩy. Vì thế sau này môn thi Lịch Sử của bọn CSVN đã bị hủy không cho
thi, cái chính là do áp lực của tụi Tàu Cộng, vì Lịch sử phần đông các
vua chúa VN ngày xưa chống Tàu xâm lược.
Cho tới giờ ai cũng biết CSVN hèn với giặc, ác với Dân, chúng chỉ lo bán
Nước chứ không giữ Nước, rúc đầu vào mu như con Rùa khi thấy bọn Tàu
Cộng ho nhẹ một tiếng, trong Nước thì Tàu Cộng được tự do nhập khẩu, ra
vào thoải mái không cần Visa, Hộ Chiếu. Bởi Tàu Cộng đã coi VN là sân
sau của chúng từ khi Nguyễn Văn Linh, ký kết Hiệp Định sát nhập Thành Đô
rồi, nên chúng đã cắt cử người giữ những chức vụ đầu não như PTg Phạm
Trung Hải, Ung Chu Lưu và nhiều nữa.
Người dân trong Nước trở thành Dân Oan lúc nào không biết, mọi người đều
có thể trở thành Dân Oan, giờ đây họ đã hiểu thế nào là tự do, thế nào
là Dân Chủ, với các bà mẹ VN anh hùng trước đây bây giờ đã sáng lòng
sáng dạ thấy công lao, xương máu chồng con mình hy sinh nay đổ sông, đổ
biển.
Giới trẻ cũng đã nhận thức được, ai thắng ai thua, ai mới thật sự là anh
hùng giữ Nước, chỉ có chế độ nhân bản VNCH ngày xưa mới có tự do, mới
thật sự lo cho Dân, vì Dân. Còn CSVN chỉ có cái mỏ như con Vẹt không hơn
không kém. Dân Oan đã dám đứng lên, dùng những hành động của mình để
phản đối chế độ độc tài cướp đất của họ, còn hô to "VNCH cấp đất cho Dân
còn CSVN cướp đất của Dân"
Bây giờ từ Bắc chí Nam chỗ nào cũng thấy áo quần rằn ri, dân Hà Nội chơi
nguyên bộ đồ QLVNCH cả giày Bốt Đờ Sô và Nón Sắt, lái chiếc Jeep lùn A 2
được phục chế lại 2 bên hông có 2 cần Anten, hoặc mặc nguyên Comple,
lái xe Motor phân khối lớn nhìn rất bắt mắt. Tôi đã chứng kiến cả đoàn
đi chung mặc quần áo đeo phù hiệu QLVNCH.
Ngay vừa qua bạn trẻ Nguyễn Viết Dũng là dân miền Bắc XHCN chính gốc
cũng đã yêu mến tinh thần VNCH nên khi biểu tình đã mặc nguyên bộ lực
lượng Biệt Cách Nhảy Dù, chứng tỏ Danh Dự của những người lính VNCH đang
dần dần được phục hồi.
Đó là điều an ủi và phấn khởi cho những người lính VNCH ngày 30/4 đã
phải tuân lệnh cấp trên, buông súng về nhà hoặc vào trại Cải Tạo, và
những Chiến Sĩ đã bỏ mình vì lý tưởng tự do, cũng như các Anh Em TPB như
tôi đã hy sinh một phần thân thể, đổ máu mình hòa lẫn với mồ hôi để bảo
vệ miền Nam thân yêu kéo dài 20 năm yên ổn không nhuộm màu Đỏ như sau
ngày 30/4 đen.
Tinh Thần Quốc Gia VNCH mãi mãi sống trong lòng mọi người trên khắp các
vùng miền đất Nước. Nói đến QLVNCH người miền Nam mãi mãi tự hào một
Quân Đội vì Dân, bảo vệ Dân thật sự chứ không vì "Còn đảng, còn tiền"
như Quân Đội Nhăn Răng CSVN chỉ biết bảo vệ đảng, đàn áp Nhân Dân...
Ngày 17/04/2015
Cánh Dù Lộng Gió (Danlambao) - Ngày
Quốc Hận 30/4/1975, ngày mà ộng bạn Đồng Minh Mỹ khai tử VNCH, ngày mà
nỗi nhục mất Nước, nỗi đau phản bội, nỗi oan thất trận. Nỗi buồn của
những người lính triệt buộc phải buông súng đầu hàng vì lệnh của ông vua
2 ngày hèn tướng Dương Văn Minh. Một chế độ nhân bản đã bị chính người
Anh Em ruột thịt của mình là phía Cộng Sản Bắc Việt tráo trở, xé bỏ hiệp
định Paris đã ký kết, vượt Vĩ Tuyến 17 xâm nhập, dồn hết lực lượng
cưỡng chiếm miền Nam.
Kể từ ngày đó miền Nam đã bị nhuộm đỏ, bị thế giới lãng quên nếu không
có những cuộc vượt Biển đầy gian nan nguy hiểm tìm đến bến bờ tự do của
các thuyền Nhân tỵ nạn Cộng Sản, quyết không sống chung với CS cho dù có
phải làm mồi cho Cá ngoài khơi, đến nỗi trên cửa miệng của người miền
Nam lúc đó vẫn nói "Cái cột đèn có thể dời đi được cũng vượt biên".
Lúc đầu họ vì quá sợ hãi chế độ VC nổi tiếng dã man và tàn ác, cai trị
Dân bằng họng súng AK nên vội vàng bỏ Nước ra đi, sau dần dần sống dưới
chế độ củ Mì, củ Khoai, Bo Bo làm chuẩn, nên họ lại quyết tâm ra đi bằng
mọi giá, bằng đường bộ qua đất Cambodia, Lào, bằng đường biển qua đất
Thái, Phi, Malaysia, hay Indonesia. Những người may mắn đến được bến bờ
tự do sẽ nhớ mãi chuyến đi tìm sự sống trong cái chết trước mắt khó ai
quên được, trừ những tên VC nằm vùng được CSVN gài vào những chuyến đi
đó, hay những tên ACQGTMCS sau này kéo nhau về thành Việt Kiều yêu Nước
Ta hay Tàu gì đó mọi người ai cũng biết. Những khúc ruột ngàn dặm này
khi về Nước đóng góp công sức, tiền bạc xây dựng Thiên Đường XHCN có khi
bị CSVN cắt bỏ không thương tiếc như Trần Trường hoặc một số khác.
Bây giờ mọi người ai cũng biết, cũng hiểu chế độ CSVN là một quái thai
do khối CS Quốc Tế tạo ra chuyền tay cho HCM đem chủ nghĩa này về gieo
rắc hạt giống đỏ cho tới tận ngày nay. Cái câu Lê Duẩn đã nói "Ta đánh
đây là đánh cho Liên Xô Trung Quốc" đã quá ấn tượng với người VN 2 miền
rồi, họ đã hiểu thế nào là tay sai, thế nào là đánh thuê cho Nga Tàu,
chính những đảng viên cũng hiểu, nhưng vì miếng cơm, manh áo, sổ hưu, lý
lịch con cháu, nên họ đành ngậm miệng ăn tiền, nhưng lòng không phục.
Hơn ai hết Dân chúng đều hiểu rằng chế độ này không phục vụ vì Dân vì
Nước, chỉ biết tham nhũng, vơ vét, vay vỏ thế giới, hoặc ngửa tay xin,
về vẽ ra kế hoạch này, kế hoạch kia để có cớ bỏ túi, nên tới giờ từ đứa
trẻ mới sinh ra đã phải cõng nợ 1000 USD/1 đầu người.
Hơn thế nữa CSVN còn đầu độc trẻ em căm thù chế độ cũ bằng những bài
Lịch Sử đểu được tự ý dàn dựng như người lấy thân chèn pháo Tô Vĩnh
Diện, Lê Văn Tám, lấy thân mình lấp lỗ châu mai Phan Đình Giót. Khi bắt
đầu thịnh hành Internet thì cũng là lúc toàn bộ sự thật được phơi bày
như huyền thoại HCM, các Anh Hùng đểu mà bọn CSVN đã dàn dựng cũng bị
lật tẩy. Vì thế sau này môn thi Lịch Sử của bọn CSVN đã bị hủy không cho
thi, cái chính là do áp lực của tụi Tàu Cộng, vì Lịch sử phần đông các
vua chúa VN ngày xưa chống Tàu xâm lược.
Cho tới giờ ai cũng biết CSVN hèn với giặc, ác với Dân, chúng chỉ lo bán
Nước chứ không giữ Nước, rúc đầu vào mu như con Rùa khi thấy bọn Tàu
Cộng ho nhẹ một tiếng, trong Nước thì Tàu Cộng được tự do nhập khẩu, ra
vào thoải mái không cần Visa, Hộ Chiếu. Bởi Tàu Cộng đã coi VN là sân
sau của chúng từ khi Nguyễn Văn Linh, ký kết Hiệp Định sát nhập Thành Đô
rồi, nên chúng đã cắt cử người giữ những chức vụ đầu não như PTg Phạm
Trung Hải, Ung Chu Lưu và nhiều nữa.
Người dân trong Nước trở thành Dân Oan lúc nào không biết, mọi người đều
có thể trở thành Dân Oan, giờ đây họ đã hiểu thế nào là tự do, thế nào
là Dân Chủ, với các bà mẹ VN anh hùng trước đây bây giờ đã sáng lòng
sáng dạ thấy công lao, xương máu chồng con mình hy sinh nay đổ sông, đổ
biển.
Giới trẻ cũng đã nhận thức được, ai thắng ai thua, ai mới thật sự là anh
hùng giữ Nước, chỉ có chế độ nhân bản VNCH ngày xưa mới có tự do, mới
thật sự lo cho Dân, vì Dân. Còn CSVN chỉ có cái mỏ như con Vẹt không hơn
không kém. Dân Oan đã dám đứng lên, dùng những hành động của mình để
phản đối chế độ độc tài cướp đất của họ, còn hô to "VNCH cấp đất cho Dân
còn CSVN cướp đất của Dân"
Bây giờ từ Bắc chí Nam chỗ nào cũng thấy áo quần rằn ri, dân Hà Nội chơi
nguyên bộ đồ QLVNCH cả giày Bốt Đờ Sô và Nón Sắt, lái chiếc Jeep lùn A 2
được phục chế lại 2 bên hông có 2 cần Anten, hoặc mặc nguyên Comple,
lái xe Motor phân khối lớn nhìn rất bắt mắt. Tôi đã chứng kiến cả đoàn
đi chung mặc quần áo đeo phù hiệu QLVNCH.
Ngay vừa qua bạn trẻ Nguyễn Viết Dũng là dân miền Bắc XHCN chính gốc
cũng đã yêu mến tinh thần VNCH nên khi biểu tình đã mặc nguyên bộ lực
lượng Biệt Cách Nhảy Dù, chứng tỏ Danh Dự của những người lính VNCH đang
dần dần được phục hồi.
Đó là điều an ủi và phấn khởi cho những người lính VNCH ngày 30/4 đã
phải tuân lệnh cấp trên, buông súng về nhà hoặc vào trại Cải Tạo, và
những Chiến Sĩ đã bỏ mình vì lý tưởng tự do, cũng như các Anh Em TPB như
tôi đã hy sinh một phần thân thể, đổ máu mình hòa lẫn với mồ hôi để bảo
vệ miền Nam thân yêu kéo dài 20 năm yên ổn không nhuộm màu Đỏ như sau
ngày 30/4 đen.
Tinh Thần Quốc Gia VNCH mãi mãi sống trong lòng mọi người trên khắp các
vùng miền đất Nước. Nói đến QLVNCH người miền Nam mãi mãi tự hào một
Quân Đội vì Dân, bảo vệ Dân thật sự chứ không vì "Còn đảng, còn tiền"
như Quân Đội Nhăn Răng CSVN chỉ biết bảo vệ đảng, đàn áp Nhân Dân...
Ngày 17/04/2015
Cơn ngứa lịch sử
Lương Ngọc Phát (Danlambao) - Hồi
ức chính biến 30/4, cũng còn nhiều hiện tượng "đặc biệt" xảy đến cho
người miền Nam liền theo đó. Vâng, đó là ghẻ và sốt rét về thành phố!
Hồi đệ nhất CH, chính phủ đã mở chiến dịch Trần Tử Oai tảo thanh và
phòng chặn bệnh sốt rét trên khắp miền Nam, với hiệu quả rõ rệt. Từ đó
đến 30/4/75, dân Nam ít mắc bệnh này, nhất là ở đô thị. Thế nhưng, những
kẻ từ rừng vào đã mang theo mầm bệnh gieo rắc khắp nơi họ chiếm đóng.
Sài Gòn lâu giờ có nghe tới ai bị loài ký sinh trùng này vật chết đâu,
thế mà sau 30/4 dân chúng mắc bệnh rất nhiều. Thuốc men những ngày đầu
còn đỡ, nhờ những kho dược VNCH để lại, những lọ chloroquine, nivaquine,
quinine dán nhãn cờ vàng 3 sọc chưa hết date, đã cứu sống nhiều người,
trong đó có tôi.
Nhưng ở nông thôn, nhất là các vùng kinh tế mới hoang vu lam chướng, dân
chết như rạ. Bệnh tập trung nhiều vào lứa tuổi trẻ, những thanh niên.
Bởi họ là thành phần phải gánh vác phần nhọc nhằn cơ cực nhất của những
gia đình bị lưu đày ấy. Khai hoang, đốn cây, hái măng, rau dại trái rừng
ăn cho đỡ đói, ngủ bụi nằm bờ. Chẳng một phương tiện cơ giới nào cả,
ngoài xác thân cùng dao rựa thủ công. Nhà cửa tạm bợ như những túp lều
sơn cước, trống huơ tứ bề gió giằng mưa giật. Chăn màn cũ rách, đêm về
muỗi mòng nhiều đến mức cứ huơ tay là nắm được. Tôi biết, dân kinh tế
mới nằm nghẹt các "bệnh xá", chờ cơn ác tính đến rước vào cõi hôn mê
diện kiến tử thần. Đêm đêm, sáng sáng... những cánh võng do người chưa
bệnh khiêng tấm thân còm xanh như lá của người đồng cảnh bạc phước... ra
bệnh xá, hoặc ra... góc rú bìa rừng về với đất bao dung!
Và ghẻ!
Ghẻ như những mụn nước, chứa chất dịch trong trong gần giống nốt thủy
đậu, khi khỏi còn lưu dấu kỷ niệm thâm đen dẳng dai bịn rịn, dân ghẹo
nhau là da nạm kim cương, nhiều như cát sông Hằng, gọi là ghẻ ruồi.
Ghẻ lở loét như ổ gà toang hoác, đầy mủ vàng tanh, khi lành để lại sẹo to tướng, gọi là ghẻ Tàu.
Ghẻ cả 2 loại, đồng loạt tấn công miền Nam như thể đã hiệp đồng chiến
đấu cùng bên thắng cuộc xuống từ Trường Sơn, nên bấy giờ dân nói lén với
nhau là ghẻ bộ đội.
Ghẻ ruồi, như đạn nhọn bắn vãi trấu, găm lỗ chỗ khắp thân thể nạn/bệnh nhân hoặc từng vạt mật độ dày như cơm cháy.
Ngứa, cha mẹ ơi, ngứa thấu tâm can xương tủy, ngứa đêm ngứa ngày, ngứa
mọi lúc mọi nơi, ngứa lẻ tẻ du kích, ngứa chiến dịch, ngứa đồng khởi,
ngứa tổng tiến công….
Ngứa khi đang cố nhọc nhằn dỗ giấc, ngứa lúc mồ hôi đẫm châu thân dưới nông trường nắng rang vạn vật.
Ngứa khi hì hục đạp xe trên phố bụi. Ngứa lúc gái trai đang hò hẹn tâm
tình cố giữ lễ lịch sự. Ngứa khi con gái đứng trước mặt cha, lúc anh
trai nói chuyện cùng em gái.
Ngứa đang giờ cô giáo trước học sinh, ngứa nhằm khi nữ sinh đang đứng trả bài cho thầy giáo.
Đó là giờ ngứa. Chỗ ngứa còn ác hơn. Binh chủng Ghẻ Ruồi chuyên đặc công
vùng xung yếu. Háng, đùi non, bụng dưới, mông, kẽ ngón... những chỗ non
da ít rèn luyện phong trần lại dễ làm mục tiêu đột kích.
Binh chủng Ghẻ Tàu kém tài luồn sâu đánh hiểm, nhưng giỏi biển người
diện địa. Hỏa lực Ghẻ Tàu không gây ngứa cuống cuồng như đặc công Ruồi,
nhưng nóng rát và đau nhức hơn. Có lẽ nhờ hiệu dụng của vi trùng trong
mảng mủ vàng làm sưng đau nóng đỏ, đủ hội chứng viêm. Nhiều khi chúng
còn gây hiệu ứng lan tỏa ra xa, các hạch háng hạch nách cũng sưng đau
khiến nạn nhân chiến cuộc cứ như người tàn tật, đi đứng liêu xiêu...
Cái sự ngứa do binh chủng Ruồi tác họa, tuy quắn đít nhưng dân còn gãi
được. Bọn Ghẻ Tàu ít ngứa hơn, nhưng vô cùng khó đối phó: móng tay thiếu
điều kiện vệ sinh cào vào chỗ mép thịt loét, nghĩa địa hỗn hợp xác vi
trùng lẫn bạch cầu phe nhà, càng lở lói rộng và sâu bốc mùi tế bào hoại
tử.
Miền Nam được một trận tổng tiến công từ ruộng đồng, từ bưng biền, từ
rừng sâu núi cao khí thế không gì cản nổi của các binh đoàn ghẻ. Ghẻ
giải phóng những e thẹn rụt rè, phá đổ gông cùm lịch sự kìm kẹp phong
cách tiểu tư sản, khi nam phụ lão ấu, nữ tú nam thanh, được san bằng
giai cấp, thảy đều trở nên bình dân chất phác rất tự nhiên, ai cũng biết
đánh đàn mười ngón, đờn vô tư sột soạt mọi lúc mọi nơi "đàn em reo ca
..a ..a..a..a.....ôi đàn ta lư..ư..ư.." với vẻ mặt diễn cảm say sưa, hít
hà khoái trá vì..."đã"!
Lần tôi từ tỉnh về thành thi sư phạm, ngày về trời đã chiều nắng tái, ở
lại thêm một ngày là cả một vấn nạn ăn ngủ. Ra bến xe đã hết chuyến
trong ngày, đám thí sinh tỉnh lẻ tụm năm tụm ba dưới những mái hiên, ngủ
gật gà hoặc làm quen nhau chuyện trò chờ sáng hôm sau xếp hàng mua vé,
quê ai nấy về. Tôi bắt chuyện với một bạn gái mà gần 40 năm rồi vẫn nhớ
bạn không quên, giọng Quy Nhơn tuy rắn rỏi song vẻ dịu dàng vẫn phảng
phất cốt cách gái miền Trung nền nã, kiên nghị chịu khó và nhất là nết ý
tứ kín đáo rất Á đông. Nhìn bạn, trên cổ tay và các kẽ ngón lấm tấm
những vết thâm còn mới, tôi hiểu liền bạn ấy cũng như tôi, đang là nạn
nhân của Ghẻ Ruồi.
Phong cách người miền Nam VN xuất thân từ nền GD/VNCH gồm cả 3 mặt tác
động uốn nắn: gia đình, nhà trường và xã hội, ngày ấy vẫn còn y trong
mỗi chúng tôi. Làm sao mà có thể sỗ sàng mười ngón thiên thần tay em,
thọc vào cào cấu những vùng thịt da u uất có Ghẻ Ruồi nằm vùng, trước
mặt người bạn mới?
Nét mặt dễ thương kia, chốc chốc lại khẽ cau cau, rõ là đang cắn răng
chịu đựng. Bạn đổi thế ngồi liền liền, câu chuyện thường phải tự ngắt
mạch rời rạc do cơn ngứa hoành hành xen ngang, thiêu đốt âm thầm. Mến
nhau, muốn nhân dịp làm thân với người xa xứ, mà cả hai cứ chốc chốc lại
phải luân phiên đứng lên làm như có việc riêng gì đó, trong khi thật ra
để một mình tìm nơi có bóng tối, nghiến răng mà gãi lấy gãi để, báo thù
lũ ghẻ!
Khổ vì ghẻ và sốt rét, hai hung thần hậu 30/4, hành hạ không chừa ai mặc trai thanh gái lịch, đến giờ vẫn không quên….
Lương Ngọc Phát (Danlambao) - Hồi
ức chính biến 30/4, cũng còn nhiều hiện tượng "đặc biệt" xảy đến cho
người miền Nam liền theo đó. Vâng, đó là ghẻ và sốt rét về thành phố!
Hồi đệ nhất CH, chính phủ đã mở chiến dịch Trần Tử Oai tảo thanh và
phòng chặn bệnh sốt rét trên khắp miền Nam, với hiệu quả rõ rệt. Từ đó
đến 30/4/75, dân Nam ít mắc bệnh này, nhất là ở đô thị. Thế nhưng, những
kẻ từ rừng vào đã mang theo mầm bệnh gieo rắc khắp nơi họ chiếm đóng.
Sài Gòn lâu giờ có nghe tới ai bị loài ký sinh trùng này vật chết đâu,
thế mà sau 30/4 dân chúng mắc bệnh rất nhiều. Thuốc men những ngày đầu
còn đỡ, nhờ những kho dược VNCH để lại, những lọ chloroquine, nivaquine,
quinine dán nhãn cờ vàng 3 sọc chưa hết date, đã cứu sống nhiều người,
trong đó có tôi.
Nhưng ở nông thôn, nhất là các vùng kinh tế mới hoang vu lam chướng, dân
chết như rạ. Bệnh tập trung nhiều vào lứa tuổi trẻ, những thanh niên.
Bởi họ là thành phần phải gánh vác phần nhọc nhằn cơ cực nhất của những
gia đình bị lưu đày ấy. Khai hoang, đốn cây, hái măng, rau dại trái rừng
ăn cho đỡ đói, ngủ bụi nằm bờ. Chẳng một phương tiện cơ giới nào cả,
ngoài xác thân cùng dao rựa thủ công. Nhà cửa tạm bợ như những túp lều
sơn cước, trống huơ tứ bề gió giằng mưa giật. Chăn màn cũ rách, đêm về
muỗi mòng nhiều đến mức cứ huơ tay là nắm được. Tôi biết, dân kinh tế
mới nằm nghẹt các "bệnh xá", chờ cơn ác tính đến rước vào cõi hôn mê
diện kiến tử thần. Đêm đêm, sáng sáng... những cánh võng do người chưa
bệnh khiêng tấm thân còm xanh như lá của người đồng cảnh bạc phước... ra
bệnh xá, hoặc ra... góc rú bìa rừng về với đất bao dung!
Và ghẻ!
Ghẻ như những mụn nước, chứa chất dịch trong trong gần giống nốt thủy
đậu, khi khỏi còn lưu dấu kỷ niệm thâm đen dẳng dai bịn rịn, dân ghẹo
nhau là da nạm kim cương, nhiều như cát sông Hằng, gọi là ghẻ ruồi.
Ghẻ lở loét như ổ gà toang hoác, đầy mủ vàng tanh, khi lành để lại sẹo to tướng, gọi là ghẻ Tàu.
Ghẻ cả 2 loại, đồng loạt tấn công miền Nam như thể đã hiệp đồng chiến
đấu cùng bên thắng cuộc xuống từ Trường Sơn, nên bấy giờ dân nói lén với
nhau là ghẻ bộ đội.
Ghẻ ruồi, như đạn nhọn bắn vãi trấu, găm lỗ chỗ khắp thân thể nạn/bệnh nhân hoặc từng vạt mật độ dày như cơm cháy.
Ngứa, cha mẹ ơi, ngứa thấu tâm can xương tủy, ngứa đêm ngứa ngày, ngứa
mọi lúc mọi nơi, ngứa lẻ tẻ du kích, ngứa chiến dịch, ngứa đồng khởi,
ngứa tổng tiến công….
Ngứa khi đang cố nhọc nhằn dỗ giấc, ngứa lúc mồ hôi đẫm châu thân dưới nông trường nắng rang vạn vật.
Ngứa khi hì hục đạp xe trên phố bụi. Ngứa lúc gái trai đang hò hẹn tâm
tình cố giữ lễ lịch sự. Ngứa khi con gái đứng trước mặt cha, lúc anh
trai nói chuyện cùng em gái.
Ngứa đang giờ cô giáo trước học sinh, ngứa nhằm khi nữ sinh đang đứng trả bài cho thầy giáo.
Đó là giờ ngứa. Chỗ ngứa còn ác hơn. Binh chủng Ghẻ Ruồi chuyên đặc công
vùng xung yếu. Háng, đùi non, bụng dưới, mông, kẽ ngón... những chỗ non
da ít rèn luyện phong trần lại dễ làm mục tiêu đột kích.
Binh chủng Ghẻ Tàu kém tài luồn sâu đánh hiểm, nhưng giỏi biển người
diện địa. Hỏa lực Ghẻ Tàu không gây ngứa cuống cuồng như đặc công Ruồi,
nhưng nóng rát và đau nhức hơn. Có lẽ nhờ hiệu dụng của vi trùng trong
mảng mủ vàng làm sưng đau nóng đỏ, đủ hội chứng viêm. Nhiều khi chúng
còn gây hiệu ứng lan tỏa ra xa, các hạch háng hạch nách cũng sưng đau
khiến nạn nhân chiến cuộc cứ như người tàn tật, đi đứng liêu xiêu...
Cái sự ngứa do binh chủng Ruồi tác họa, tuy quắn đít nhưng dân còn gãi
được. Bọn Ghẻ Tàu ít ngứa hơn, nhưng vô cùng khó đối phó: móng tay thiếu
điều kiện vệ sinh cào vào chỗ mép thịt loét, nghĩa địa hỗn hợp xác vi
trùng lẫn bạch cầu phe nhà, càng lở lói rộng và sâu bốc mùi tế bào hoại
tử.
Miền Nam được một trận tổng tiến công từ ruộng đồng, từ bưng biền, từ
rừng sâu núi cao khí thế không gì cản nổi của các binh đoàn ghẻ. Ghẻ
giải phóng những e thẹn rụt rè, phá đổ gông cùm lịch sự kìm kẹp phong
cách tiểu tư sản, khi nam phụ lão ấu, nữ tú nam thanh, được san bằng
giai cấp, thảy đều trở nên bình dân chất phác rất tự nhiên, ai cũng biết
đánh đàn mười ngón, đờn vô tư sột soạt mọi lúc mọi nơi "đàn em reo ca
..a ..a..a..a.....ôi đàn ta lư..ư..ư.." với vẻ mặt diễn cảm say sưa, hít
hà khoái trá vì..."đã"!
Lần tôi từ tỉnh về thành thi sư phạm, ngày về trời đã chiều nắng tái, ở
lại thêm một ngày là cả một vấn nạn ăn ngủ. Ra bến xe đã hết chuyến
trong ngày, đám thí sinh tỉnh lẻ tụm năm tụm ba dưới những mái hiên, ngủ
gật gà hoặc làm quen nhau chuyện trò chờ sáng hôm sau xếp hàng mua vé,
quê ai nấy về. Tôi bắt chuyện với một bạn gái mà gần 40 năm rồi vẫn nhớ
bạn không quên, giọng Quy Nhơn tuy rắn rỏi song vẻ dịu dàng vẫn phảng
phất cốt cách gái miền Trung nền nã, kiên nghị chịu khó và nhất là nết ý
tứ kín đáo rất Á đông. Nhìn bạn, trên cổ tay và các kẽ ngón lấm tấm
những vết thâm còn mới, tôi hiểu liền bạn ấy cũng như tôi, đang là nạn
nhân của Ghẻ Ruồi.
Phong cách người miền Nam VN xuất thân từ nền GD/VNCH gồm cả 3 mặt tác
động uốn nắn: gia đình, nhà trường và xã hội, ngày ấy vẫn còn y trong
mỗi chúng tôi. Làm sao mà có thể sỗ sàng mười ngón thiên thần tay em,
thọc vào cào cấu những vùng thịt da u uất có Ghẻ Ruồi nằm vùng, trước
mặt người bạn mới?
Nét mặt dễ thương kia, chốc chốc lại khẽ cau cau, rõ là đang cắn răng
chịu đựng. Bạn đổi thế ngồi liền liền, câu chuyện thường phải tự ngắt
mạch rời rạc do cơn ngứa hoành hành xen ngang, thiêu đốt âm thầm. Mến
nhau, muốn nhân dịp làm thân với người xa xứ, mà cả hai cứ chốc chốc lại
phải luân phiên đứng lên làm như có việc riêng gì đó, trong khi thật ra
để một mình tìm nơi có bóng tối, nghiến răng mà gãi lấy gãi để, báo thù
lũ ghẻ!
Khổ vì ghẻ và sốt rét, hai hung thần hậu 30/4, hành hạ không chừa ai mặc trai thanh gái lịch, đến giờ vẫn không quên….
Có những người lính như thế
Dương Hoài Linh (Danlambao) - Dùng
biểu tượng người lính VNCH trong các hoạt động XHDS là một đột phá táo
bạo của tuổi trẻ Việt Nam. Đột phá này chỉ đến với những tư duy dũng cảm
và cũng xuất phát từ một con người đã đạt thành tích cao trong học tập
chứ không phải từ những đầu óc hoang tưởng. Ít nhất nó cũng chỉ ra một
nguyên tắc căn bản trong một xã hội pháp trị: "người dân có thể làm bất
cứ điều gì mà pháp luật không cấm". Đó gần như là một chân lý không thể
dùng bất cứ luận điểm nào để ngụy biện. Chính quyền bắt giữ những người
như Dũng Phi Hổ là trái pháp luật, là phỉ nhổ vào những quyền tự do căn
bản của con người. Nếu không nhanh chóng trả tự do cho họ chính quyền sẽ
phải đối mặt với sự phản đối của giới trẻ trong nước.
Người lính là một hình tượng đã có từ lâu trong văn học dân tộc Việt Nam
suốt bốn nghìn năm. Một dân tộc suốt đời chỉ lo chống giặc ngoại xâm
chắc chắn rằng phải có những chàng trai thật phi thường:
Chí làm trai dặm nghìn da ngựa
Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao
Giã nhà đeo bức chiến bào
Thét roi cầu Vị ào ào gió thu
Thế nhưng người lính VNCH không hề được ca tụng như vậy. Biến cố
30/4/1975 và sự bôi nhọ khắc nghiệt của truyền thông "bên thắng cuộc" đã
khiến hình ảnh người quân nhân VNCH trong mắt người dân Việt nam được
tuyên truyền chỉ là hình ảnh của những người lính đánh thuê, một đám
người ác ôn chuyên mổ bụng, moi gan đồng loại, những đám tàn quân thất
trận tranh nhau tháo chạy, những kẻ chuyên đánh nhau vì tiền...?
Nổi bật, át đi tất cả là hình ảnh anh giải phóng quân, anh "bộ đội Cụ
Hồ" ngân vang, lung linh trong các bài giảng văn dưới mái trường XHCN
trên khắp đất nước Việt Nam:
Anh đi xuôi ngược tung hoành.
Bước dài như gió lay thành chuyển non.
Mái chèo một chiếc xuồng con.
Mà sông nước dậy sóng cồn đại dương.
Truyền thông trong tay, quyền lực trong tay muốn nhét vào đầu trẻ em
điều gì chẳng được. Một loạt các seri phim về anh giải phóng quân được
các đội chiếu bóng lưu động phục vụ đến các vùng nông thôn xa xôi hẻo
lánh trong thời kỳ đói ăn, đói mặc, đói văn hóa... một loạt các bài thơ,
văn xuôi, nhạc... của các văn nghệ sĩ coi trọng các giải thưởng Hồ Chí
Minh hơn hiện thực đã khiến đại đa số người dân tin rằng anh bộ đội thật
sự "xông xáo tung hoành ngang dọc... Mạnh hơn tất cả đạn bom... "Anh
thật sự" đi dân nhớ, ở dân thương"?
Mãi cho đến sau này, sự thật trần trụi ấy mới được Dương Thu Hương, Bảo
Ninh... vạch rõ. Các anh cũng chỉ là những cỗ máy được nhét vào một thứ
chủ nghĩa, để rồi cầm súng bắn về trước mà không biết bắn vào cái gì. Có
khi bắn nhầm lẫn nhau vì một con voọc, có khi đào ngũ rồi chết thảm
trên đường Trường Sơn, có khi suốt những năm tháng ở rừng chỉ làm một
công việc là đóng hòm cho đồng đội. Có những đơn vị chỉ qua một chiến
dịch là bị nướng sạch, chỉ còn vài ba người, vài hôm sau là được bổ xung
cơ số toàn lính mười tám, đôi mươi. Sự thật không giống thơ ca. Sự thật
là các anh bộ đội bị đẩy vào Nam từ các miền quê nghèo đầy rẫy một thứ
văn hóa quái đản, manh nha từ các cuộc cải cách ruộng đất... với sự kèn
cựa, đấu tố... để rồi tung những đứa con "đứt ruột đẻ đau" vào tay những
kẻ tôn thờ một chủ nghĩa ảo vọng. Sau đó mãi mãi đánh mất tuổi hai
mươi.
Ở phía kia, những người lính VNCH dù không chói ngời trên trang sách học
trò nhưng hình ảnh các anh là chân thực không khoa trương. Nó hiện lên
đơn sơ nhưng thật xúc động:
Mẹ đưa con tới trại vào quân trường Đà Lạt
Hai mươi mốt năm gươm đàn đại bác
Mười ba xuân, bắp muối khoai mì
Mẹ dõi theo từng bước con đi
Con "ra trại" mười tháng sau mẹ về chín suối.
Tiễn linh cữu mẹ đi lần cuối
Con khóc vùi như mới tuổi mười ba
Ngậm ngùi đếm giọt mưa sa.
Bi kịch của đất nước, của dân tộc đã đẩy người lính VNCH vào bi kịch của
cá nhân và gia đình. Hai mươi mốt năm đời lính, mười ba năm tù cải tạo
vẫn không hề lấy đi của họ cái chí khí của đời trai "dặm ngàn da ngựa",
thân thể mang đầy thương tích ở chiến trường, vẫn miệt mài bám lấy đơn
vị chiến đấu, tiếp tục quyết tâm đi trên khắp nẻo đường quê hương, từ
miền rừng núi, qua Kon Tum, Tân Cảnh, Hạ Là, rồi ra duyên hải miền
Trung. Rồi tiếp tục xuôi ngược lặn lội khắp vùng đồng bằng Hậu Giang,
Cà Mau, Năm Căn:
Trung đội ta những thằng giữ đất
Từ Qui Nhơn, Phù Cát, Phù Ly
Qua Tam Quan qua rừng An Lão
Từ Kỳ Sơn. Phước Lý, An Khê
(Trung đội, thơ Trần Hoài Thu)
Hoặc có khi âm vang nỗi nhớ thương trên các địa danh quen thuộc:
Tôi qua Phù Cũ, Bồng Sơn
An Cữu, An Khê, Tân Dân, Tuy Phước
Nhớ cây đa chiếc cầu trong văn Võ Phiến
Thương những người bỏ xứ xa hương
Nhớ vầng trăng trên xóm Gò Găng
Bà mẹ nhớ con mắt mù kết nón
Và những đêm sao trên đồi Bánh Ích
Cho tôi cố tìm đôi mắt người yêu
Nhớ những chuyến xe xuôi ngược sáng chiều
Ai trong ấy, cứ cắn hoài sợi tóc
(Sợi tóc nhớ nhung, thơ Trần Hoài Thư)
Thơ văn của người lính VNCH không có sự lên gân ,giả tạo. Nó là kết tinh
của những chiêm nghiệm đời lính, nói với chính bản thân mình không vì
mục đích tuyên truyền. Chính vì vậy lời thơ của họ hào hùng, sảng khoái
nhưng đầy tính nhân bản, không phô trương:
"Nếu mai mốt bỗng đổi đời phen nữa
Ông anh hùng ông cứu được quê hương
Ông sẽ mở ra ngàn lò cải tạo
Lùa cả nước vào học tập yêu thương
Cuộc chiến cũ sẽ coi là tiền kiếp
Phản động gì cũng chỉ sống trăm năm
Bồ bịch hết không đứa nào là ngụy
Thắng vinh quang mà bại cũng anh hùng”
Cao Tần.
Cái chất nhân bản, yêu thương con người ấy hiện lên trong thơ thật tự
nhiên bởi nhà thơ cũng là người lính. Những đêm hành quân, những ngày
tiếp viện, những mất mát đau thương trước sự bi thảm của chiến tranh
được miêu tả một cách bình dị:
Ta về dành lại quê em
Dành lại quận đường đêm nay đổ nát
Dành lại ngôi trường lời ca tiếng hát
Nhưng ta không dành em gái yêu thương
Ta bồng em lên nước mắt rưng rưng
Em nằm ngủ sao người em lạnh quá
Chiếc áo của em loang dần máu đỏ
Cô giáo trường làng bị bắn sau lưng
Ta đã về bầy chim nhỏ tang thương
Chúng ủ rũ như lòng ta ủ rũ
Lũ bé quì bên xác người cô trẻ
Ðặt chùm hoa mếu máo gọi cô về
Cô không về cô bỏ dạy cô đi
Cô bỏ chúng con, cô về xứ khác
Ta cắn bầm môi, em ơi, ta khóc
Em không về em cũng bỏ thanh xuân
Em bé quê ơi cho ta nhành bông
Một nhành bông quì vàng như màu áo
Ta đặt lên em. Trống trường áo não
Như những hồi mặc niệm em tôi
(Ðêm tiếp cứu quận Tuy Phước, Bình Ðịnh, thơ Trần Hoài Thư)
Đọc những dòng chữ ấy tim ta rướm máu, mắt bỗng thấy cay. Ta bỗng thấy
hiện lên tất cả những gì gọi là sự phi nghĩa của chiến tranh. Nó khác
với những lời kêu gọi "máu van trả máu đầu van trả đầu" vốn thường thấy
trong thơ văn của những người Cộng sản.
Bởi thực chất người lính VNCH không hề "khát máu". Họ có đầy đủ những
nỗi sợ hãi chiến tranh của một con người bình thường. Nhưng cũng có cả
dũng khí của một một "quân nhân". Họ không chiến đấu vì một điều không
có thực mà chính là vì những điều rất đời thường.
Ðất anh ở và rừng anh thở
Sớm anh đi chiều lại trở về
Rừng vi vút những đêm gió thổi
Bóng anh chìm với bóng hư vô
Ðôi khi đứng bên triền đá dựng
Anh hoang mang sợ núi đẻ mình
Có khi thấy con chồn con cáo
Anh giật mình lòng thoáng hãi kinh
Anh đi qua rừng cao quá đỗi
Anh đi về rừng quá đỗi cao
Anh thấy rồi, anh: con sâu gạo
Nằm rung rinh trong đám lá rì rào
Và buồn thảm ôi những chiều lặng lẽ
Núi và anh thành hai kẻ đăm chiêu
Núi ngó anh và anh ngó núi
Núi đụng trời anh đụng nỗi đìu hiu
Ðất anh ở và rừng anh thở
Quá lâu ngày nên thấy hoang mang
Anh sống dở và anh chết dở
Giữa núi rừng cao ngất ngàn năm
(Thơ: Ở trong rừng lâu ngày - Phạm Cao Hoàng)
Có lẻ vì những điều ấy mà hình ảnh họ mãi mãi không chết. Mặc cho sự
tuyên truyền của một nền văn học đề cao sự dối trá, có những người thanh
niên như Dũng Phi Hổ và những người bạn vẫn lấy hình ảnh họ làm biểu
tượng, dù rằng thế hệ này lớn lên khi những người lính VNCH đã lùi sâu
vào lịch sử. Không thể nói là họ dại dột. Mỗi con người có quyền chọn
cho mình một biểu tượng. Những người lính miền Nam của nước Mỹ chẳng
phải đã được vinh danh cho dẫu thất bại? Hơn nữa sự giải giáp của họ lại
đáng ghi vào sử sách khi tránh cho quê hương những giọt máu phải đổ
xuống vô ích. Khi hai kẻ chơi cờ đã bắt tay nhau, thì không thể gọi một
trong những quân cờ là người chiến thắng hay thất bại. Lịch sử sẽ ghi
công người lính VNCH vì họ đã không làm gì sai. Lý tưởng mà họ cầm súng
để bảo vệ, để hy sinh giờ đây đang sáng ngời trên khắp địa cầu. Tính
nhân bản mà họ thể hiện cũng là những giá trị bất hủ thuộc về lương tâm
con người.
Dùng biểu tượng người lính VNCH trong các hoạt động XHDS là một đột phá
táo bạo của tuổi trẻ Việt Nam. Đột phá này chỉ đến với những tư duy dũng
cảm và cũng xuất phát từ một con người đã đạt thành tích cao trong học
tập chứ không phải từ những đầu óc hoang tưởng. Ít nhất nó cũng chỉ ra
một nguyên tắc căn bản trong một xã hội pháp trị: "người dân có thể làm bất cứ điều gì mà pháp luật không cấm".
Đó gần như là một chân lý không thể dùng bất cứ luận điểm nào để ngụy
biện. Chính quyền bắt giữ những người như Dũng Phi Hổ là trái pháp luật,
là phỉ nhổ vào những quyền tự do căn bản của con người. Nếu không nhanh
chóng trả tự do cho họ chính quyền sẽ phải đối mặt với sự phản đối của
giới trẻ trong nước. Giới trẻ ngày nay không còn ngây thơ như cha anh
chúng. Vì họ có internet và quan trọng nhất là họ có một cộng đồng người
Việt Hải Ngoại, những con mắt của lớp trẻ. Bất chấp dư luận, đàn áp,
ngụy biện, bắt giữ người trái phép, họ sẽ phải đối phó với một làn sóng
"bất tuân dân sự "ngày một lan rộng trên khắp mọi miền đất nước. Làn
sóng này sẽ minh chứng lòng dân là một vũ khí lợi hại, nó sẽ cuốn phăng
tất cả những gì thuộc về dối trá của lịch sử: "Mọi con đường đều đến La
Mã. Tất cả những gì của Cesar phải trả lại cho Cesar".
Dương Hoài Linh (Danlambao) - Dùng
biểu tượng người lính VNCH trong các hoạt động XHDS là một đột phá táo
bạo của tuổi trẻ Việt Nam. Đột phá này chỉ đến với những tư duy dũng cảm
và cũng xuất phát từ một con người đã đạt thành tích cao trong học tập
chứ không phải từ những đầu óc hoang tưởng. Ít nhất nó cũng chỉ ra một
nguyên tắc căn bản trong một xã hội pháp trị: "người dân có thể làm bất
cứ điều gì mà pháp luật không cấm". Đó gần như là một chân lý không thể
dùng bất cứ luận điểm nào để ngụy biện. Chính quyền bắt giữ những người
như Dũng Phi Hổ là trái pháp luật, là phỉ nhổ vào những quyền tự do căn
bản của con người. Nếu không nhanh chóng trả tự do cho họ chính quyền sẽ
phải đối mặt với sự phản đối của giới trẻ trong nước.
Người lính là một hình tượng đã có từ lâu trong văn học dân tộc Việt Nam suốt bốn nghìn năm. Một dân tộc suốt đời chỉ lo chống giặc ngoại xâm chắc chắn rằng phải có những chàng trai thật phi thường:
Người lính là một hình tượng đã có từ lâu trong văn học dân tộc Việt Nam suốt bốn nghìn năm. Một dân tộc suốt đời chỉ lo chống giặc ngoại xâm chắc chắn rằng phải có những chàng trai thật phi thường:
Chí làm trai dặm nghìn da ngựa
Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao
Giã nhà đeo bức chiến bào
Thét roi cầu Vị ào ào gió thu
Thế nhưng người lính VNCH không hề được ca tụng như vậy. Biến cố
30/4/1975 và sự bôi nhọ khắc nghiệt của truyền thông "bên thắng cuộc" đã
khiến hình ảnh người quân nhân VNCH trong mắt người dân Việt nam được
tuyên truyền chỉ là hình ảnh của những người lính đánh thuê, một đám
người ác ôn chuyên mổ bụng, moi gan đồng loại, những đám tàn quân thất
trận tranh nhau tháo chạy, những kẻ chuyên đánh nhau vì tiền...?
Nổi bật, át đi tất cả là hình ảnh anh giải phóng quân, anh "bộ đội Cụ
Hồ" ngân vang, lung linh trong các bài giảng văn dưới mái trường XHCN
trên khắp đất nước Việt Nam:
Anh đi xuôi ngược tung hoành.
Bước dài như gió lay thành chuyển non.
Mái chèo một chiếc xuồng con.
Mà sông nước dậy sóng cồn đại dương.
Truyền thông trong tay, quyền lực trong tay muốn nhét vào đầu trẻ em
điều gì chẳng được. Một loạt các seri phim về anh giải phóng quân được
các đội chiếu bóng lưu động phục vụ đến các vùng nông thôn xa xôi hẻo
lánh trong thời kỳ đói ăn, đói mặc, đói văn hóa... một loạt các bài thơ,
văn xuôi, nhạc... của các văn nghệ sĩ coi trọng các giải thưởng Hồ Chí
Minh hơn hiện thực đã khiến đại đa số người dân tin rằng anh bộ đội thật
sự "xông xáo tung hoành ngang dọc... Mạnh hơn tất cả đạn bom... "Anh
thật sự" đi dân nhớ, ở dân thương"?
Mãi cho đến sau này, sự thật trần trụi ấy mới được Dương Thu Hương, Bảo
Ninh... vạch rõ. Các anh cũng chỉ là những cỗ máy được nhét vào một thứ
chủ nghĩa, để rồi cầm súng bắn về trước mà không biết bắn vào cái gì. Có
khi bắn nhầm lẫn nhau vì một con voọc, có khi đào ngũ rồi chết thảm
trên đường Trường Sơn, có khi suốt những năm tháng ở rừng chỉ làm một
công việc là đóng hòm cho đồng đội. Có những đơn vị chỉ qua một chiến
dịch là bị nướng sạch, chỉ còn vài ba người, vài hôm sau là được bổ xung
cơ số toàn lính mười tám, đôi mươi. Sự thật không giống thơ ca. Sự thật
là các anh bộ đội bị đẩy vào Nam từ các miền quê nghèo đầy rẫy một thứ
văn hóa quái đản, manh nha từ các cuộc cải cách ruộng đất... với sự kèn
cựa, đấu tố... để rồi tung những đứa con "đứt ruột đẻ đau" vào tay những
kẻ tôn thờ một chủ nghĩa ảo vọng. Sau đó mãi mãi đánh mất tuổi hai
mươi.
Ở phía kia, những người lính VNCH dù không chói ngời trên trang sách học
trò nhưng hình ảnh các anh là chân thực không khoa trương. Nó hiện lên
đơn sơ nhưng thật xúc động:
Mẹ đưa con tới trại vào quân trường Đà Lạt
Hai mươi mốt năm gươm đàn đại bác
Mười ba xuân, bắp muối khoai mì
Mẹ dõi theo từng bước con đi
Con "ra trại" mười tháng sau mẹ về chín suối.
Tiễn linh cữu mẹ đi lần cuối
Con khóc vùi như mới tuổi mười ba
Ngậm ngùi đếm giọt mưa sa.
Bi kịch của đất nước, của dân tộc đã đẩy người lính VNCH vào bi kịch của
cá nhân và gia đình. Hai mươi mốt năm đời lính, mười ba năm tù cải tạo
vẫn không hề lấy đi của họ cái chí khí của đời trai "dặm ngàn da ngựa",
thân thể mang đầy thương tích ở chiến trường, vẫn miệt mài bám lấy đơn
vị chiến đấu, tiếp tục quyết tâm đi trên khắp nẻo đường quê hương, từ
miền rừng núi, qua Kon Tum, Tân Cảnh, Hạ Là, rồi ra duyên hải miền
Trung. Rồi tiếp tục xuôi ngược lặn lội khắp vùng đồng bằng Hậu Giang,
Cà Mau, Năm Căn:
Trung đội ta những thằng giữ đất
Từ Qui Nhơn, Phù Cát, Phù Ly
Qua Tam Quan qua rừng An Lão
Từ Kỳ Sơn. Phước Lý, An Khê
(Trung đội, thơ Trần Hoài Thu)
Hoặc có khi âm vang nỗi nhớ thương trên các địa danh quen thuộc:
Tôi qua Phù Cũ, Bồng Sơn
An Cữu, An Khê, Tân Dân, Tuy Phước
Nhớ cây đa chiếc cầu trong văn Võ Phiến
Thương những người bỏ xứ xa hương
Nhớ vầng trăng trên xóm Gò Găng
Bà mẹ nhớ con mắt mù kết nón
Và những đêm sao trên đồi Bánh Ích
Cho tôi cố tìm đôi mắt người yêu
Nhớ những chuyến xe xuôi ngược sáng chiều
Ai trong ấy, cứ cắn hoài sợi tóc
(Sợi tóc nhớ nhung, thơ Trần Hoài Thư)
Thơ văn của người lính VNCH không có sự lên gân ,giả tạo. Nó là kết tinh
của những chiêm nghiệm đời lính, nói với chính bản thân mình không vì
mục đích tuyên truyền. Chính vì vậy lời thơ của họ hào hùng, sảng khoái
nhưng đầy tính nhân bản, không phô trương:
"Nếu mai mốt bỗng đổi đời phen nữa
Ông anh hùng ông cứu được quê hương
Ông sẽ mở ra ngàn lò cải tạo
Lùa cả nước vào học tập yêu thương
Cuộc chiến cũ sẽ coi là tiền kiếp
Phản động gì cũng chỉ sống trăm năm
Bồ bịch hết không đứa nào là ngụy
Thắng vinh quang mà bại cũng anh hùng”
Cao Tần.
Cái chất nhân bản, yêu thương con người ấy hiện lên trong thơ thật tự
nhiên bởi nhà thơ cũng là người lính. Những đêm hành quân, những ngày
tiếp viện, những mất mát đau thương trước sự bi thảm của chiến tranh
được miêu tả một cách bình dị:
Ta về dành lại quê em
Dành lại quận đường đêm nay đổ nát
Dành lại ngôi trường lời ca tiếng hát
Nhưng ta không dành em gái yêu thương
Ta bồng em lên nước mắt rưng rưng
Em nằm ngủ sao người em lạnh quá
Chiếc áo của em loang dần máu đỏ
Cô giáo trường làng bị bắn sau lưng
Ta đã về bầy chim nhỏ tang thương
Chúng ủ rũ như lòng ta ủ rũ
Lũ bé quì bên xác người cô trẻ
Ðặt chùm hoa mếu máo gọi cô về
Cô không về cô bỏ dạy cô đi
Cô bỏ chúng con, cô về xứ khác
Ta cắn bầm môi, em ơi, ta khóc
Em không về em cũng bỏ thanh xuân
Em bé quê ơi cho ta nhành bông
Một nhành bông quì vàng như màu áo
Ta đặt lên em. Trống trường áo não
Như những hồi mặc niệm em tôi
(Ðêm tiếp cứu quận Tuy Phước, Bình Ðịnh, thơ Trần Hoài Thư)
Đọc những dòng chữ ấy tim ta rướm máu, mắt bỗng thấy cay. Ta bỗng thấy
hiện lên tất cả những gì gọi là sự phi nghĩa của chiến tranh. Nó khác
với những lời kêu gọi "máu van trả máu đầu van trả đầu" vốn thường thấy
trong thơ văn của những người Cộng sản.
Bởi thực chất người lính VNCH không hề "khát máu". Họ có đầy đủ những
nỗi sợ hãi chiến tranh của một con người bình thường. Nhưng cũng có cả
dũng khí của một một "quân nhân". Họ không chiến đấu vì một điều không
có thực mà chính là vì những điều rất đời thường.
Ðất anh ở và rừng anh thở
Sớm anh đi chiều lại trở về
Rừng vi vút những đêm gió thổi
Bóng anh chìm với bóng hư vô
Ðôi khi đứng bên triền đá dựng
Anh hoang mang sợ núi đẻ mình
Có khi thấy con chồn con cáo
Anh giật mình lòng thoáng hãi kinh
Anh đi qua rừng cao quá đỗi
Anh đi về rừng quá đỗi cao
Anh thấy rồi, anh: con sâu gạo
Nằm rung rinh trong đám lá rì rào
Và buồn thảm ôi những chiều lặng lẽ
Núi và anh thành hai kẻ đăm chiêu
Núi ngó anh và anh ngó núi
Núi đụng trời anh đụng nỗi đìu hiu
Ðất anh ở và rừng anh thở
Quá lâu ngày nên thấy hoang mang
Anh sống dở và anh chết dở
Giữa núi rừng cao ngất ngàn năm
(Thơ: Ở trong rừng lâu ngày - Phạm Cao Hoàng)
Có lẻ vì những điều ấy mà hình ảnh họ mãi mãi không chết. Mặc cho sự
tuyên truyền của một nền văn học đề cao sự dối trá, có những người thanh
niên như Dũng Phi Hổ và những người bạn vẫn lấy hình ảnh họ làm biểu
tượng, dù rằng thế hệ này lớn lên khi những người lính VNCH đã lùi sâu
vào lịch sử. Không thể nói là họ dại dột. Mỗi con người có quyền chọn
cho mình một biểu tượng. Những người lính miền Nam của nước Mỹ chẳng
phải đã được vinh danh cho dẫu thất bại? Hơn nữa sự giải giáp của họ lại
đáng ghi vào sử sách khi tránh cho quê hương những giọt máu phải đổ
xuống vô ích. Khi hai kẻ chơi cờ đã bắt tay nhau, thì không thể gọi một
trong những quân cờ là người chiến thắng hay thất bại. Lịch sử sẽ ghi
công người lính VNCH vì họ đã không làm gì sai. Lý tưởng mà họ cầm súng
để bảo vệ, để hy sinh giờ đây đang sáng ngời trên khắp địa cầu. Tính
nhân bản mà họ thể hiện cũng là những giá trị bất hủ thuộc về lương tâm
con người.
Dùng biểu tượng người lính VNCH trong các hoạt động XHDS là một đột phá
táo bạo của tuổi trẻ Việt Nam. Đột phá này chỉ đến với những tư duy dũng
cảm và cũng xuất phát từ một con người đã đạt thành tích cao trong học
tập chứ không phải từ những đầu óc hoang tưởng. Ít nhất nó cũng chỉ ra
một nguyên tắc căn bản trong một xã hội pháp trị: "người dân có thể làm bất cứ điều gì mà pháp luật không cấm".
Đó gần như là một chân lý không thể dùng bất cứ luận điểm nào để ngụy
biện. Chính quyền bắt giữ những người như Dũng Phi Hổ là trái pháp luật,
là phỉ nhổ vào những quyền tự do căn bản của con người. Nếu không nhanh
chóng trả tự do cho họ chính quyền sẽ phải đối mặt với sự phản đối của
giới trẻ trong nước. Giới trẻ ngày nay không còn ngây thơ như cha anh
chúng. Vì họ có internet và quan trọng nhất là họ có một cộng đồng người
Việt Hải Ngoại, những con mắt của lớp trẻ. Bất chấp dư luận, đàn áp,
ngụy biện, bắt giữ người trái phép, họ sẽ phải đối phó với một làn sóng
"bất tuân dân sự "ngày một lan rộng trên khắp mọi miền đất nước. Làn
sóng này sẽ minh chứng lòng dân là một vũ khí lợi hại, nó sẽ cuốn phăng
tất cả những gì thuộc về dối trá của lịch sử: "Mọi con đường đều đến La
Mã. Tất cả những gì của Cesar phải trả lại cho Cesar".
Hồi ký đau thương
Người Sài Gòn (Danlambao) - Đã
40 năm oằn mình trong đau thương uất hận rồi, cuộc sống đọa đầy này sẽ
còn kéo dài đến bao giờ hỡi trời? Dân tôi đã làm gì nên tội, mà phải
sống lầm than trong một chế độ chuyên cầm tù và giết hại người dân lành,
chưa kể chúng còn bán cả đất nước của chúng tôi, biến chúng tôi thành
kẻ bị nô lệ, bị lưu đầy trên chính quê hương của mình! Nhà Việt Nam yêu
dấu ơi! Bao giờ thanh bình?! Bao giờ thì bọn quỷ đỏ thu gom liềm hái của
chúng rút về địa ngục, để dân Việt được sống tự do dân chủ và bình an?
*
Bốn mươi năm qua, cứ mỗi lần 30 tháng tư về, lòng tôi lại bồn chồn, u
uất! Tôi thường ngồi riêng một mình để hồi tưởng về một kỷ niệm đau
thương nhất trong đời mà tôi đã trải qua! Hình ảnh những ngày đen tối ấy
ám ảnh trong tôi không rời, những đoạn phim ngày sụp đổ của miền Nam tự
do tuần tự quay trở lại, và nước mắt tôi cứ chảy dài! Dù đã 40 năm qua,
dư thời gian cho CS và những kẻ tự xưng là chiến thắng nhìn ra sự thật
về sự ngược ngạo, sự lừa đảo đê tiện trong cách tuyên truyền bỉ ổi của
họ về một cuộc chiến thắng và thống nhất đất nước, trong khi thực ra chỉ
là một cuộc đi ăn cướp, phá tan một nền tự do dân chủ, đẩy đưa toàn dân
VN vào một nhà tù khổng lồ, một cãi cũi sắt có tên là CHXHCNVN! Cuộc
cướp phá này đã làm tan hoang đất nước nói chung, và miền Nam nói riêng,
xô đổ một công trình tự do dân chủ, một tòa nhà sáng ngời văn minh và
nhân bản của người miền Nam đã chung sức xây dựng, để biến nó thành một
miền đất nghèo nàn mạt rệp, nhục nhã vì còn kém thua hơn cả những nước
láng giềng ở vùng Đông Nam Á mà trước đây VNCH từng giúp đỡ, tài trợ cả
về kinh tế, xã hội, kỹ thuật… như Thái, Miên và Lào!
Cuốn phim dĩ vãng về ngày mất nước quay trở lại, khiến tôi như sống lại những ngày bi thương kinh hoàng đó!
Lúc đó cuộc chiến đang xảy ra ác liệt trên toàn miền Nam, do kẻ xâm lăng
từ miền Bắc vào gieo đau thương tang tóc! Tin chiến sự hết loan báo nơi
này mất đến nơi kia thất thủ, khiến mọi người đều hoang mang, mọi nhà
đều xao xác, bỏ cả công việc làm ăn và vô cùng lo sợ vì không biết sẽ đi
đâu, về đâu? Bi thảm và hoang mang nhất là những người đã một lần chạy
CS từ Bắc vào Nam, giờ này lại chạm trán với quân bạo tàn lần nữa, liệu
sẽ ra sao với sự trả thù của loài hung bạo bất nhân mà họ đã nếm mùi khi
còn ở miền Bắc, hay những thân nhân của họ phải hứng chịu bên kia bờ vĩ
tuyến 17?
Trước 30 tháng tư ít ngày, trường của tôi dạy đã cho giáo sư và học sinh
nghỉ, để mỗi người còn lo gia đình mình và lo di tản nếu cần! Lúc đó
tôi đang mang bầu đứa con thứ hai gần đến ngày sinh. Tôi vô cùng buồn bã
và lo sợ, không biết sẽ phải làm gì, trốn lánh CS ở đâu khi đất nước đã
lọt vào tay chúng. Tôi nhớ lần họp giáo sư toàn trường cách đó mấy
tháng, ông hiệu trưởng đã báo cho chúng tôi: Sài Gòn sẽ mất về tay CS
trong vài tháng tới, nhưng hầu hết chúng tôi không tin điều đó, vì nghĩ
rằng người Mỹ không thể bỏ miền Nam VN, là tiền đồn chống Cộng của thế
giới tự do, hoặc giả đây là đòn nhử của người Mỹ và của VNCH, dụ cho CS
vào rồi sẽ đánh úp một trận để tiêu giệt gọn bọn chúng như trận Mậu
Thân, vì Việt Cộng đã vi phạm hiệp định hòa bình Ba Lê, xâm phạm lãnh
thổ VNCH. Chính vì suy nghĩ như vậy, mà hai lần cậu ruột tôi từ Vũng Tàu
vào, khuyên tôi nên chuẩn bị di tản bằng cách vượt biển đi nước ngoài
cùng gia đình cậu, mà tôi vẫn không chịu đi. Một phần không tin Sài Gòn
mất, một phần tôi bụng mang dạ chửa, lại còn một đứa con chưa đầy 3
tuổi, làm sao mà dám lênh đênh trên biển hàng nhiều ngày với một chiếc
thuyền gỗ nhỏ, lại đi đến một chân trời vô định? Sau này tôi vô cùng ân
hận và khóc ròng rã nhiều tháng trời khi cậu tôi đã đi rồi, nhưng biết
làm sao! Sát ngày 30 tháng tư, chồng tôi đưa tôi qua nhà người bạn học
thân nhất của tôi, chồng của chị là sĩ quan quân đội làm việc ở Bộ Tổng
Tham Mưu. Họ muốn đi nhưng chưa tìm được đường đi, dù ba của bạn tôi tập
kết ra Bắc theo CS từ khi hai chị em còn nhỏ. Bạn tôi bảo tôi chuẩn bị
sẵn hành lý gọn nhẹ, nếu tìm được đường, sẽ gọi tôi qua cùng đi. Ngày 29
tháng tư, chồng tôi đưa tôi và đứa con nhỏ ra bến Bạch Đằng xem có tàu
bè nào cho đi không. Ở bến Bạch Đằng Sài Gòn lúc đó còn vài chiếc tàu
đậu, kẻ đi lên, người đi xuống, không biết tàu có đi không, và bao giờ
mới đi, mà tình hình đã rát rúa lắm rồi, tiếng súng lớn nổ khắp nơi.
Chúng tôi đứng ngơ ngẩn hàng giờ, rồi lại đành quay trở về nhà. Đêm đó
cả gia đình vợ chồng con cái tôi phải ở dưới cái hồ ngầm thường chứa
nước để sinh hoạt, đã được hút cạn nước để phòng khi tránh đạn. Suốt một
đêm trời đạn gầm xé trên đầu, mãi trưa hôm sau ngớt tiếng súng lớn,
chồng tôi mới lên khỏi hầm mở cửa ra đường xem chừng để tìm đường đưa vợ
con chạy. Nhưng không, chồng tôi đã trở lại với nét mặt bơ phờ thất
sắc, anh nói tôi không thể lên và ra đường được, vì ngoài đường đầy xác
người chạy giặc và bị trúng đạn, nhiều mảnh xác còn vắt trên cả cành
cây! Ôi! Trời sập rồi! Tôi òa khóc, và thoáng có ý định tự vẫn cả nhà,
vì tôi đã một lần chạy CS từ Bắc vào Nam năm 1954 lúc còn nhỏ tuổi, và
thân nhân tôi có người đã bị CS giết! Tôi cũng từng nghe nhiều về tội ác
của CS, giờ này tôi lại bị rơi vào tay chúng sao? Con tôi sẽ sống thế
nào? Chồng tôi có trấn an: “Mọi sự đã xong, mình phải hết sức bình
tĩnh và cầu nguyện xem Chúa xếp cho thế nào. Em phải ráng giữ sức khỏe
kẻo động thai, để có cơ hội còn phải chạy!”.
Qua ngày 30 tháng tư, CS đã vào dinh Độc lập, tiếng súng đã tạm êm, tôi
hé cửa ngó ra ngoài: đường phố hoang vắng không xe cộ, không người qua
lại, các cửa tiệm đóng kín. Chẳng lẽ hàng xóm của tôi họ đi hết rồi sao?
Tôi hoang mang lo sợ, trở vào nhà nằm vật ra giường mà khóc. Không biết
bố mẹ và các em tôi giờ này ở đâu, có bình yên không? Ba ngày vật vã ở
nhà, tôi liều hé cửa ngó ra đường xem xét tình hình. Ngoài đường thỉnh
thoảng có bóng người rảo bước hay một chiếc xe gắn máy phóng qua, chắc
họ là những người có công việc gấp nên mới ra đường những lúc này! Ngoài
ra còn có vài tốp người dọn vệ sinh đường phố với những xác xe bị trúng
đạn, xác người và những túi hành lý, đồ dùng mà người chết còn để lại!
Nếu kẻ nào ca ngợi ngày “giải phóng miền Nam”, thì đây là hình ảnh của
giải phóng: nó biến cuộc sống thành cái chết, biến một thành phố luôn
nhộn nhịp sinh hoạt nay trở nên thành phố hoang! Đứng ở cửa nhà nhìn ra
đường, tôi cố tìm xem có người quen hay người hàng xóm nào để hỏi thăm
tình hình. Tôi gặp được vài người, nhưng họ không còn là người của mấy
ngày trước, vui vẻ tay bắt mặt mừng khi gặp nhau, mà là những nét mặt
đăm chiêu lẫn lo lắng! Không ai nhếch nổi một nụ cười, cũng không còn
cởi mở thân tình như trước, mà họ như xa lạ, e dè, nghi ngại điều gì!
Tôi nói chồng tôi đưa tôi qua nhà người bạn thân, nhưng đến nơi thì nhà
trống không người, bấm chuông hàng 10 phút mới có người bên cạnh hé cửa
nói sang: "Anh chị ấy đi ngày 29 rồi! Kế đó nhiều nhà cũng vắng chủ, vì đây là khu nhiều sĩ quan quân đội ở."
Tôi thẫn thờ ra về, hai dòng nước mắt tuôn không thể ngăn nổi, môi mím
chặt và người như muốn rũ xuống! Một cuộc sống lầm than đã mở ra cho tôi
và những người còn ở lại!...
Hơn hai chục ngày sau, tôi trở bụng sinh con, chồng tôi vội cầm cái giỏ
quần áo và lấy xe chở tôi vào viện bảo sanh. Đường đi vắng ngắt giăng
đầy kẽm gai, có mấy người bộ đội vác súng đứng gác, thấy chúng tôi họ
chỉa súng chặn lại. Họ hỏi chúng tôi đi đâu, chồng tôi nói: “đi sinh”,
nhưng họ không hiểu tiếng “sinh” là gì, tuy nhiên nhìn thấy tôi đang đau
nhăn nhó với cái bụng to kềnh nên người này hỏi lại: “Đi đẻ hả?”, chồng
tôi gật đầu, anh này liền kéo kẽm gai ra một bên và hô to: “Khẩn
trương! Khẩn trương lên!”.
Đúng là con tôi sinh ra không hợp thời, tôi nhìn con mà vô cùng đau đớn muốn gào lên!
Tôi trở lại trường sau một tháng nghỉ, để xem tình hình. Trường bây giờ
vắng người, chỉ có Ban Giám Đốc làm việc để chờ lệnh của chính quyền
mới. Buổi họp giáo sư đầu tiên sau 30 tháng tư (trước năm 1975 người dạy
tiểu học mới gọi là giáo viên), số giáo sư chỉ khoảng 1/3 tổng số. Ai
nấy nhìn nhau mặt méo mó, hỏi thăm nhau đôi điều với những dòng nước mắt
kín đáo chảy và được lau vội kẻo có ai đó thấy sẽ cho là mình không
“phấn khởi” với chế độ mới! Bầu không khí u buồn thảm đạm cộng thêm sự e
dè ở giữa chúng tôi! Không còn tìm đâu ra cảnh vui tươi cởi mở ngày cũ!
Những buổi học chính trị đầy căng thẳng và uất ức. Nhóm cán bộ CS đến
giảng cho chúng tôi thế nào là “cách mạng”, đồng thời phô trương công
trạng đã “giải phóng” cho chúng tôi “khỏi cảnh lầm than đói khổ, làm cu
li cho Mỹ, ở trong trường thì nữ giáo viên phải bán thân cho hiệu trưởng
cá mập…”! Lạy Thượng Đế! Tai con có nghe nhầm không? Những kẻ này là ai
mà dám dựng chuyện sỉ nhục chúng con như thế? Tôi cắn môi đến chảy máu,
và nhiều lần định bụng: “Phải đứng lên nói cho chúng biết, dạy thì dạy, không dạy thì đừng, chứ không thể như thế này được!”.
Chị bạn ngồi bên tôi hiểu ý, lấy chân dí vào chân tôi và nhìn qua ý nói
tôi bình tĩnh lại kẻo nguy hiểm. Tôi cũng biết điều đó qua những khuôn
mặt đằng đằng sát khí nhưng cũng đầy kiêu căng ngạo mạn của những tên
cán bộ chính trị CS. Hàng ngày họ lôi chúng tôi nhốt vào những lớp học
để “lên lớp” chúng tôi, với thái độ vừa dạy đời vừa mạt sát, vì ỷ là kẻ
chiến thắng, còn chúng tôi là kẻ chiến bại! Thái độ ngạo mạn này khiến
tôi không thể chấp nhận, và có lần tôi đứng thẳng lên phát biểu với
giọng điệu cố điềm tĩnh, thật ra là tôi đang phát điên lên, nhưng cố
kiềm hãm: “Tôi thấy các vị nói là giải phóng chúng tôi, tức là cứu
giúp chúng tôi, khi cứu giúp nhau là người ta làm bằng tình thương, còn
các vị thì có thái độ khinh thị xem thường chúng tôi hơi quá đáng! Các
vị tự coi mình là kẻ chiến thắng còn chúng tôi chiến bại? Thật ra các vị
với chung tôi chưa từng giao chiến, sao có thể phân thắng bại? Còn về
khả năng chuyên môn, hai bên chưa biết bên nào hơn!”. Nói xong tôi
ngồi phịch xuống ghế, không đợi đối phương kịp trả lời! Điều làm cho
chúng tôi khó chịu nhất, là họ nhiều lần sỉ nhục ông hiệu trưởng cũ của
chúng tôi là “chủ trường cá mập”, vì ông có một ngôi trường tư tại Sài
Gòn vừa lớn, vừa uy tín nhất vùng Đông Nam Á lúc đó, với gần ba trăm
giáo sư, và nhiều vị rất có danh tiếng. Ông cũng là người rất có uy tín
trong lãnh vực giáo dục, cả trong và ngoài nước, từng tham dự nhiều hội
nghị quốc tế về giáo dục. Trong thâm ý, có lẽ CS muốn thực hiện mưu đồ
cướp trường, nên muốn chúng tôi đứng về phe họ tố cáo chụp mũ ông hiệu
trưởng, để họ đưa ông ra đấu tố và cướp trường cho mau lẹ, nhưng dân
miền Nam không giống miền Bắc!Tôi thuộc loại giáo sư trẻ nhất trường,
cũng chẳng mang ân huệ gì Hiệu trưởng, thậm chí rất ít gặp ông, nhưng
tôi kính trọng ông theo nhận định của tôi qua tư cách, đạo đức và kiến
thức của ông. Một lần, có lẽ đây là lần thứ ba, một nữ cán bộ trong lúc
giảng chính trị, (một bộ môn gian dối bịp bợm nhất mà tất cả giáo sư
chúng tôi đều ghét, chúng tôi ngồi nghe mà máu lộn lên đầu, nhưng đành
cắm tăm nhẫn nhục!), hôm đó bà ta nói: “Chúng tôi không lạ gì ở miền
Nam này, trong các trường kể cả trường này, những tên hiệu trưởng cá mập
đã bóc lột các đồng nghiệp nữ tận xương tủy, muốn có giờ dạy nhiều thì
phải hiến thân cho hiệu trưởng…”. Tôi đứng phắt dậy như lò xo bật vì quá sức chịu của mình, nhìn thẳng vào mặt mụ này, tôi nói: “Xin
lỗi chị, tôi thấy câu nói này các vị phát ra hơi nhiều lần, có lẽ các
vị chủ tâm hay được học để nói như vậy, nhưng tôi, với tư cách một nữ
giáo sư của trường này, tôi phản đối các vị về một sự bịa đặt trắng trợn
đã xúc phạm nặng nề đến các nữ giáo sư chúng tôi nói riêng, và tập thể
giáo sư nói chung! Ở miền Bắc tôi không biết, nhưng ở miền Nam thì tuyệt
đối không bao giờ! Học đường là nơi rèn luyện con người về cả kiến thức
lẫn đạo đức, nếu có điều ấy làm sao dạy học sinh? Tôi yêu cầu chị đã
nói thì phải đưa bằng chứng, nếu không chị sẽ phải xin lỗi chúng tôi.
Một là các vị biết rằng chúng tôi có đủ tư cách, đủ trình độ thì mới để
chúng tôi dạy học, và phải tôn trọng chúng tôi, hai là chúng tôi bỏ dạy,
chứ chúng tôi không chấp nhận các vị ỷ là kẻ thắng mà chà đạp nhân phẩm
của chúng tôi! Người miền Nam sống bằng danh dự hơn là cơm áo, các vị
nên hiểu điều đó!”. Tôi chưa dứt lời thì toàn thể các giáo sư trong
hội trường cùng đứng lên và vỗ tay thật lớn, thật lâu, còn kẻ chiến
thắng thì trơ trẽn nhìn nhau như một lũ ngố! Có lẽ những kẻ cuồng ngông
này chưa bao giờ bị một cú như vậy, nên chúng tức điên lên. Nếu hội
trường hàng 200 người này không đồng loạt đứng lên biểu đồng tình và hỗ
trợ tôi, chắc năm con thú CS này đã nghiền nát tôi lập tức rồi, hoặc ít
là tôi cũng bị bắt! Buổi sinh hoạt chính trị hôm đó bị rút gọn, vì kẻ
nói cũng bẽ bàng tức bực, còn kẻ nghe thì chẳng muốn nghe nữa! Thấy kéo
dài thêm e bất lợi, nên tên cán bộ tổ trưởng tuyên bố bỏ phần cuối trao
đổi. Gặp tôi ở nhà xe lúc ra về, một đồng nghiệp cao niên của tôi là nhà
thơ Bàng Bá Lân nắm tay tôi nói gần như khóc: “Thày cảm ơn con đã
quá cương trực và can đảm! Con nói thay cho mọi người, nhưng thày khuyên
con nên cố mà trấn tĩnh hơn, chứ như thế này nó sẽ bắt con, rồi hai đứa
con nhỏ của con làm sao?”! Tôi cũng khóc, nhưng khóc vì ức! Từ đó,
biết tôi rất khó chịu mỗi lần phải cầm cái túi đi lĩnh 10 kg gạo hàng
tháng, nên thày tự mang theo 2 túi để lãnh cho cả thày và tôi, rồi cột
sẵn vào xe cho tôi, vì tôi là kẻ hay bỏ bê không đi lãnh gạo do thấy
nhục! Đời sống của người miền Nam nói chung, và riêng thành phần nhà
giáo, đâu có bao giờ phải đói khổ, thiếu thốn mà đi xách từng bị gạo như
đi ăn xin vậy, khiến tôi uất ức! Gạo lúa của miền Nam xuất cảng không
hết, có năm còn phải hủy đi, sao giờ này CS vào lại khốn khổ đến thế?!
Ở trường ngoài sự uất ức vì bọn CS áp dụng chính sách hành hạ, mạt sát,
đày ải chúng tôi cho đói khổ và nhục nhằn, lại còn những bài dạy cho học
trò toàn những điều gian trá bịa đặt, đi ngược với lương tâm và trách
nhiệm người thày, khiến chúng tôi vô cùng đau khổ! Vài ba bạn đồng
nghiệp của chúng tôi đã tự vẫn một mình hoặc cả gia đình, làm cho nỗi
đau, nỗi uất hận của tôi mỗi ngày một dâng cao! Những vết hằn sâu đậm
trong tôi đến bây giờ, là cái chết đột ngột và bi thương của một học
sinh của tôi đang học lớp 11, do quá uất ức vì có cha đi tù cải tạo mà
sau 10 ngày không trở về như CS hứa, và những lần chấm bài văn của học
sinh, tôi phải tự đổ mực lên những câu các em lên án và chửi CS, hay tự
hủy cả một bài văn như một bản án kết tội CS, rất chính xác và gan dạ.
Đến khi trả bài cho các em, tôi nhận lỗi lỡ tay đánh đổ mực, hay làm
thất lạc bài, nhưng có ghi điểm vào giấy, rồi tìm dịp gặp những em đó
riêng để khuyên các em đừng dại dột hủy hoại đời mình và gây khổ đau cho
người thân. Cả hai thày trò cùng khóc! Còn tôi thì luôn bị theo dõi, vì
tôi là người hay thẳng thắn phát biểu, nghịch ý của bọn “thắng trận”
mỗi khi tôi phải nghe những điều xuyên tạc hay trái tai! Học trò 4 lớp
tôi dạy các em rất thương tôi, có lần tôi bị CA kêu xuống văn phòng ban
giám hiệu để làm việc, thì học trò cả 4 lớp 11 và 12 tôi dạy kéo xuống
sân trường đứng hậu thuẫn cho tôi, và có nhiều em vào chỗ làm việc phát
biểu rất cứng rắn: “Cô T. là một giáo sư vừa dạy giỏi, vừa nhiệt tâm
và thương yêu học trò, chúng em là học sinh của cô làm chứng điều đó.
Những báo cáo sai về cô là do mấy bạn không chịu học nên bị cô cho điểm
thấp và luôn theo dõi, báo cáo tầm bậy về cô. Nếu cô bị bắt, chúng em sẽ
nghỉ học hết!”. Nhờ vậy, CA đã để tôi lên lớp tiếp tục dạy sau khi
buông vài câu hăm dọa. Tôi thật sự chán nản và thương học trò của tôi,
với một tương lai đen tối mịt mù! Nếu tôi tiếp tục cái nghề này, thì cả
tôi và học trò tôi cùng khổ lụy! Nếu không vì hai con thơ dại, chắc là
tôi đã chết cho xong, hay có một lối sống khác! Mỗi ngày dắt xe ra đi
dạy, tôi lại trào nước mắt, còn mẹ tôi thì dặn dò: “Con ráng nhẫn
nhục, kẻo con có sao thì mẹ không thể lo cho con của con được, và còn
ảnh hưởng tới bố và hai em đang bị tù con ạ!”. Tôi gạt nước mắt gật đầu cho mẹ tôi yên tâm, và nặng nề dẫn xe ra với một tâm hồn oằn trĩu!
Bố tôi đi tù vì là người có chức vụ trước năm 1975, còn hai em trai của
tôi đang đi học, đứa lớp 8, đứa lớp 9, tức 13 và 14 tuổi, mà cũng bị CS
bắt tù một cách rất dã man! Một đứa bị đưa đi nhốt vào rừng sâu ở
Pleiku, bị xiềng chân và bỏ đói vì dám lập “tòa án nhân dân” cùng với
các bạn trong lớp có cha anh đi tù, chúng “xử bác Hồ” về tội “lừa đảo”,
nói quân nhân công chức đi học 10 ngày rồi nhốt luôn và đưa đi biệt
tích. Đám học sinh nhỏ này bị vây bắt còn ghê gớm hơn là bắt giặc, và bị
đưa đi biệt tích, đứa ở Pleiku, đứa ra Thanh Hóa, đứa ra tận Cao Bằng
Lạng Sơn, mấy năm sau gia đình mới biết tin, khiến nhiều người tưởng con
đã chết! Đứa em thứ hai của tôi 13 tuổi, cũng bị bắt đưa đi nhốt ở một
cù lao nằm giũa sông Cần Giờ, bị nhịn đói, nằm trên đống phân, bị hành
hạ còn hơn nô lệ, khiến một số rủ nhau trốn trại, đêm bơi qua sông, đứa
bị nước cuốn trôi, đứa bị bắn chết, may sao thằng em tôi mò được về nhà
với cái chân què vì ghẻ lở ăn sâu vào tận xương, do dơ bẩn và thiếu dinh
dưỡng! Những gì mà những tù nhân nhi đồng này đã phải chịu và kể lại
cho gia đình, khiến chúng tôi vừa xót đau, vừa bầm gan tím ruột mà không
thể nói lên lời! Chỉ có chế độ CS bất nhân mới cư xử với những trẻ vị
thành niên như vậy! Còn những sự tàn bạo, dã man, cướp của ngoài xã hội
đối với người dân miền Nam, không thể nào kể hết được! Tội ác của Việt
Cộng không chứa đâu cho hết, trên toàn thể người dân từ Nam chí Bắc!
Phần tôi chỉ mới kể sơ vài nét, chứ suốt thời gian tôi còn dạy học trước
khi đoạn tuyệt với mái trường vào năm 80, tôi có thể viết ra cả chục
cuốn sách dày không hết, về những sinh hoạt trong cái nhà trường CS ghê
tởm, và sự khổ đau nhục nhằn của chúng tôi cũng như những học sinh của
chúng tôi phải chịu, mỗi khi nhớ lại tôi còn rơi nước mắt và bặm môi!
Ở trường đã vậy, ở nhà tôi còn đau khổ vô cùng, vì trong gia đình có 3
tù nhân một già 2 trẻ, cả mẹ con tôi chia nhau đi thăm không nổi và
không đủ tiền, vì tài sản đã bị cướp hết do tiền gửi ngân hàng, và nhà
in của tôi bị CS tịch thu. Nỗi đau còn chồng chất thêm vì tôi bị mất
luôn ba người bạn thân nhất: một đi di tản ra nước ngoài mà không biết
tin, một là đồng nghiệp dạy cùng trường với tôi, khi đi dạy học về trên
đường bị bọn bộ đội ở rừng ra lái xe nghênh ngang đi ngược chiều, xông
qua bên trái cán chết bạn tôi tại chỗ, để lại đứa con một tuổi! Gây chết
người mà không xử, không đền bồi! Ngày chôn cất bạn tôi có bốn tên bộ
đội hai nam hai nữ, đến dự mà cười nói huyên thuyên như những đứa khùng
hay vô giáo dục, càng làm cho tang gia khổ đau cùng cực! Còn một người
bạn nữa của tôi đang khỏe mạnh bỗng phẫn chí mà chết, để lại con thơ cho
mẹ già! Tôi muốn gào lên thấu tận trời xanh, tại sao chúng tôi, dân
Việt tôi phải khổ sở lầm than thế này, vì đâu?!
Đã 40 năm oằn mình trong đau thương uất hận rồi, cuộc sống đọa đầy này
sẽ còn kéo dài đến bao giờ hỡi trời? Dân tôi đã làm gì nên tội, mà phải
sống lầm than trong một chế độ chuyên cầm tù và giết hại người dân lành,
chưa kể chúng còn bán cả đất nước của chúng tôi, biến chúng tôi thành
kẻ bị nô lệ, bị lưu đầy trên chính quê hương của mình!
Nhà Việt Nam yêu dấu ơi! Bao giờ thanh bình?! Bao giờ thì bọn quỷ đỏ thu
gom liềm hái của chúng rút về địa ngục, để dân Việt được sống tự do dân
chủ và bình an?
Vùng kinh tế mới
Nguyệt Anh (Danlambao) - Vào
một đêm không trăng, không sao, chính quyền mới - Cộng Sản, tự phong
mình là đỉnh cao trí tuệ, họ đã nghĩ ra một quái chiêu - cướp nhà.
Họ đã xuất chiêu. Gia đình tôi đã lãnh đủ, chúng tôi không được chọn lựa
ở trong nhà của mình, trong lúc ba tôi đi học cải tạo. Chị em tôi phải
xếp bút nghiên theo diện cha con. Gia tài của chúng tôi - nồi niêu xoong
chảo và mấy bộ quần áo còn sót lại, sau khi gia đình tôi bị bắt vì vượt
biên vào mùa hè năm 1977.
Long Tân là vùng kinh tế cách Sài Gòn khoảng 60 cây số. Khu kinh tế này
gồm 5 xã. Mỗi xã có chữ Long, Long Nguyên, Long Chiểu, Long Bình, Long
Hòa, Long Tân nằm trong vùng sâu cách đường chính khoảng 5 cây số. Đây
là vùng kinh tế gia đình tôi được chọn.
Long đâu chưa thấy, nhưng thấy dòng họ bò - rắn rít, bồ cạp. Lần đầu
tiên chị em chúng tôi được sống trong mái nhà tranh, không phải hai quả
tim vàng mà đến tám quả tim đỏ. Chúng tôi đã trồng cây trái chung quanh
nhà, ngõ hầu cải thiện cuộc sống, nhưng ít được thưởng thức cây nhà lá
vườn, vì có nhiều toán đạo tặc tuần hành, ngày cũng như đêm. Điện không
có đã đành, nhưng nước cũng không, mỗi ngày có tiếng kẻng là biết giờ đi
lấy nước, hoặc giờ đi lao động. Gia đình tôi đến sau vài tháng nên rất
bỡ ngỡ. Cũng may hàng xóm rất tử tế.
Xã Long Tân chia làm bốn đội, bên phải gồm có: Đội Một và Đội Ba, bên
trái có Đội Hai và Đội Bốn. Gia đình tôi ở bên phải, gồm đầy đủ thành
phần trong xã hội, lúc đầu có nhiều giai nhân và tài tử, họ biết ngâm
thơ, và đàn hát rất hay, do đó nỗi buồn cũng vơi đi ít nhiều sau những
ngày lao động. Nhưng nào ai có giữ những niềm vui hiếm hoi trong những
ngày sống kiếp người ở thiên đường xã hội. Chúng tôi phải tìm đường
thoát thân hơn là cứu nước.
Không biết chuyện hư thật như thế nào, nhà nhà trồng sả, nếu rắn bị đi
lạc, có bụi sả làm bùa hộ mạng, nhiều người giải thích rắn không ưa mùi
vị của sả, hơn nữa lá sả bén hơn con dao. Và nhà nào cũng có một chai
rượu ngâm với bò cạp cộng thêm rắn rít để làm thuốc khi trái nắng trở
trời. Cái thời kỳ chỉ có Xuyên Tâm Liên là thần dược. Bò cạp, giống như
người bạn của mình, đôi khi cùng ăn, cùng ngủ, nửa đêm phản bội chích
cho một phát để trả thù vì cái tội xâm lấn đất đai của tổ tiên. Hầu như
ai cũng bị một lần, hoặc nhiều lần để biết thú thương đau. Tôi bị sốt cả
tuần bị nó chơi đểu, gặp trúng bồ cạp lửa.
Có lần em tôi bị rắn cắn nơi cánh tay. Tôi vội cấp cứu sơ đẳng, và dùng
rượu của hàng xóm cho để uống, nhưng tay nó to như bắp vế, vì thế tôi
phải thuê xe đạp thồ chở nó ra huyện Bến Cát, khoảng cách hơn 10 cây số
nhưng phải mất hơn 2 giờ vì đường xá toàn ổ voi. Vào thời đó, xe đò
chạy bằng than, đến Sài Gòn ai cũng thành mọi đen. Tôi nói về trường hợp
của con em, người nhà vội vàng lấy ống kim hút chất độc nơi bị rắn cắn
và cho uống trụ sinh, không biết em tôi may mắn vì uống trụ sinh hay vì
rắn không độc, hoặc là rượu rắn?
Khi có dịp về Sài Gòn là vui rồi, vì tôi đã thấy đèn Sài Gòn ngọn xanh
ngọn đỏ, nhìn ánh đèn điện vào ban đêm, không phải là ngọn đèn dầu le
lói chỉ được thấp lên khi ăn cơm trên vùng kinh tế mới, được đi nhà thờ
vào ngày Chúa nhật, được nghe đài địch (BBC và VOA) được ăn cơm trắng,
có thêm cá và thịt. Tôi biết người quen phải ăn ít hơn, để chúng tôi có
hương vị này. Và xin có lời tri ân gia đình ân nhân đã cho chị em tôi
những phút giây hạnh phúc, ngọt ngào và ấm áp tình người trong những
ngày ba tôi đi cải tạo.
Ở Long Tân có nhiều chuyện lạ, đến bây giờ gần 40 năm, khi nhớ lại như
chuyện của hôm qua và hôm nay. Ông bí thư xã tên Nguyễn Bá Ngộ, mà ông
này ngộ thiệt, bỏ bà vợ người Bắc lúc đi tập kết, lấy vợ của ông sĩ
quan, dù nàng đã có hai con và một ông chồng đang đi cải tạo, sau này họ
có thêm một đứa con trai đặt tên của cái xã này. Không biết ông bí thư
này, vì lòng thương hại gia đình tôi - một bầy con gái 5 đứa, ốm như như
cây tăm, hai thằng em, tuổi vừa lên 10 và 12, hay vì một lý do gì
khác…? Vì thế nên tôi ít phải vác cuốc đi lao động tập thể, lại được dạy
bình dân cho các ông cán bộ và các em nhỏ vào buổi tối, sau đó được đi
học kế hoạch, kế toán, và giáo viên, nhưng chưa bao giờ được làm nhân
viên, có lẽ vì cái lý lịch của gia đình. Sau cùng ông bí thư bỏ chức vụ,
để tổ chức đi vượt biên, hết ở Sài Gòn, lại đến Bạc Liêu, lần nào có
chuyến là tôi được cho đi ké, nhưng chưa bao giờ đặt chân xuống tàu,
cũng may là chưa bị bắt.
Ở xã có hai ông Thành rất đặc biệt, ông bị lé - làm chủ tịch, nhưng phải
đi học bình dân, còn ông kia bị mù, nhưng lại thông thái theo người ta
nói. Bởi vì ông ta cố vấn từ chuyện dựng vợ gã chồng đến việc buôn bán
và vượt biên. Đây là thời vàng son của cái nghề bói toán. Ông ta hay
dùng đồng xu để bói cho những quẻ cấp bách. Đến bây giờ ngồi gõ những
dòng chữ này, tôi không biết bao nhiêu người được đến miền đất tự do?
Tôi thường đem những chuyện đất nước ra hỏi, vì ông là thầy bói, ngu gì
không hỏi, nếu như mình có dịp. Ví dụ tại sao "Miền Nam có chính nghĩa, nhưng lại mất về tay Cộng Sản".
Ông ta giải thích vì tổ tiên của chúng ta đã cướp đất của người Chiêm
Thành nên phải nhận quả báo. Ông thường giải thích về luật nhân quả và
cung phúc đức trong khoa tử vi khi bị bí. Nhà ông lúc nào cũng đông
khách. Vì cái thới kỳ "cái trụ đèn biết đi cũng đi".
Cái đói và bịnh hoạn là nỗi sợ hãi cho tất cả mọi người ở vùng kinh tế,
người dân trốn về Sài Gòn nếu như họ còn gia đình. Chỉ có những gia đình
không còn nơi để về, phải chọn nơi này làm quê hương, nhưng họ phải cố
gắng làm việc hơn súc vật, để không ăn bo bo hàng ngày. Tôi nhớ nhất có
lần ăn khoai mì với muối ớt, chỉ ước mong một chút mỡ hành để thêm mùi
vị, ông hàng xóm phán một câu: "Mỡ hành ăn với mạt cưa cũng ngon, đừng nói ăn với khoai mì."
Để xã Long Tân khỏi bị xóa tên trên bản đồ hình chữ S, chính quyền không
có cách nào khác - làm ngơ cho người dân muốn làm gì thì làm, miễn đừng
phá chính quyền là họ mừng rồi, vì thế rừng là nạn nhân đầu tiên, từ
cây cao đến cây thấp, bị đốn để làm than củi. Cũng nhờ than củi ở các
vùng kinh tế mà dân Sài Gòn không phải lao đao về nhiên liệu.
Có những cái chết ám ảnh tôi suốt đời, bé An Bình, con của ông giáo sư
Trọng. Đi làm lao động tập thể, thấy con cóc, ông vội vã chụp nó, mang
về nấu cháo cho con gái vừa lên ba tuổi đang bịnh. Vì sơ ý, không biết
chức năng của cái mật này. Nên cô bé chết tức thì, vừa ăn xong tô cháo.
Cũng may thằng anh có sức, ăn ít hơn nó được cứu kịp thời bởi y tá kiêm
bà mụ thời xưa. Ôi! Cái thời kỳ con gì cũng ăn, trừ con bulon.
Cái chết thứ hai - giáo viên tên Dung, vì nghi ngờ ăn cắp tiền, cô giáo
bị đem ra đấu tố không thương biết bởi các đồng nghiệp của mình, người
yêu cũng không dám biện hộ, cuối cùng phải dùng mạng sống để minh oan.
Nói chung có nhiều cái chết thật là oan uổng trên vùng kinh tế mới.
Nhưng đây là cái chết của một cô giáo con của Việt Cộng, phải trả giá
cho cái cơ chế chỉ có bầy đàn.
Ở vùng kinh tế có những cái chết rất thương tâm, nhưng khi tôi trốn về
Nha Trang tìm đường đi vượt biên, có nhiều cái chết cũng đáng ưu tư hơn
ở trên rừng rú. Cái chết đầu tiên tôi chứng kiến, một chàng trai không
được thi vào đại học, nhảy từ trên lầu hai xuống, bể sọ, tại đường Hoàng
văn Thụ, bởi lý lịch con ngụy nguyền. Cái chết thứ hai của ông sư tự
thiêu tại chùa Nghĩa Phương, đường Phan Chu Trinh, cách nhà tôi ở khoảng
hơn 10 mét. Vào lúc lúc 5 giờ sáng chưa kịp đi tắm biển, tôi đã thấy
khói đen từ ngôi chùa tỏa ra, có tiếng xầm xì và công an đã đến kịp thời
phong tỏa khu phố, thế là tôi được dịp nghe các bà chợ trời kể chuyện,
dĩ nhiên một trời câu chuyện. Tại sao ông thầy sư phải tự thiêu tại Nha
Trang? Trong khi ông ở Sài Gòn v.v..v...
Nhớ nhất chị Lạc chợ trời, cái nghề này rất thịnh vào những ngày không
còn tiếng súng trên quê hương. Hầu như nhà nào cũng mang những vật dụng
rất cần thiết, nhưng phải bán đi để nuôi cái bao tử. Khu phố nhà tôi
đang ở là đất lành cho các bà, nếu thấy công an thì chạy vô chùa để trốn
hay để đi tu năm phút, hoặc chạy vô đường hẻm Hoàng văn Thụ, Phan Chu
Trinh là an toàn, đôi khi bí quá cũng núp trong hiên nhà tôi. Nhưng một
ngày tháng năm xui, chị Lạc bị tóm bởi công an, vì nghi ngờ tiêu thụ
hàng gian, chị được nhốt trong Cát sô.Vừa bước vào chị đã ngửi mùi tử
khí, và la làng, la xóm, nhưng xóm làng ở xa, công an ở gần nhưng tai bị
điếc. Đến khi công an mở cửa dẫn đi cung, chị đã bất tỉnh, đồng thời
mới phát hiện xác chết. Chị được tại ngoại vô điều kiện.
Trong thời gian ở Nha Trang chờ đi vượt biên, tôi luôn thủ sẳn một lon
guygo đường cát trộn với chanh tươi, cộng thêm một ký khoai lang dẻo làm
hành trang, nếu có người réo một tiếng là lên đường. Người tổ chức vượt
biên thường chọn vào những ngày cận Tết, dễ dàng cho việc đi đứng, nếu
lỡ có bị công an hỏi thì nói: "dịp Tết tôi về quê thăm bà con họ hàng, mồ mả ông bà cha mẹ…", nhất là phải chuẩn bị những cái tên ở nơi mà mình sẽ đến.
Không biết có ai giống tôi không? Lúc ngủ phải mang sợi xích nhẹ nhàng,
không giống như dây xích của người tù Papillon. Nửa đêm công an có xét
hộ khẩu, người nhà ở dưới kéo sợi dây báo hiệu, tôi phải tỉnh ngủ, chạy
xuống lầu nhẹ nhàng như con mèo và vội vã trèo lên balcon để trốn. Có
lần công an nghi ngờ ra phía sau bếp để kiểm tra, nhưng tôi đang đứng
trên đầu họ. Có lẽ Chúa mẹ che chở, mắt họ bị mù tạm thời nên không thấy
tôi.
Mình tính không bằng trời tính. Vì thế tôi đã bị bắt ở Ninh Hòa trên núi Hòn Hèo vào năm con chuột: "Tôi
đi vào tù đầu năm Giáp Tý một chín tám tư, khi đi vào tù, tay sách giỏ
lát tay ôm mùng mền.Vào trại giam tôi thấy bâng khâng ngỡ ngàng, nước
mắt rưng rưng hai hàng…" Nhại bài hát Nỗi Lòng Người Đi của nhạc sĩ Anh Bằng.
Qua những sự kiện xảy ra ở Việt Nam, năm ngoái giàn khoan HD 918 và hội
Nhà Báo Độc Lập Việt Nam ra đời, cũng như nhiều hội thành lập mà không
cần xin phép chính quyền, năm nay công an đã đập phá và đánh giáo dân ở
nhà Đồng Yên, Hà Tỉnh. Tôi tin rằng sẽ có sự chuyển biến về cái cơ chế
này trong tương lai gần đây. Nhà triết học người Pháp, Jean-Jacques
Rousseau sinh vào thế kỷ 18 có viết trong cuồn Khế Ước Xã Hội: "Le
corps politique, aussi bien que le corps de l’homme, commence à mourir
dès sa naissance et port en lui-même les causes de sa destruction. Ainsi
le tyran peut n’être pas despose, mais le despote est toujour tyran".Tạm dịch là "Cơ
chế chính trị cũng giống như cơ thể con người, nghĩa là có sinh và có
tử. Trước khi chết thường có những triệu chứng để báo hiệu ngày tàn sắp
đến. Chế độc tài có thể độc quyền, nhưng chế độ độc quyền luôn luôn là
kẻ độc tài."
Quãng đời tôi 'Từ chiến tranh đến hòa bình'
Lương Phạm (Danlambao) - Nhân
dịp ngày quốc hận 30/04 tôi xin kể về cuộc đời tôi từ cuộc chiến VN đến
một thứ “hòa bình” không mong đợi. Có lẽ vì tính tôi hay nghi ngờ những
định kiến về CS nên Thượng đế đã cho tôi nhiều cơ hội hơn để tìm hiểu
về họ. Sau lệnh Tổng Động Viên năm 1968 và sau khi mãn khóa Trường SQTB
Thủ Đức, tôi được biệt phái về tiểu khu Long An. Là một người lính mới
ra trường còn mang giày bốt-đờ-sô bóng lộn tôi chưa kinh nghiệm là đi
hành quân nơi đất bùn lầy trơn trợt phải mang giày bố, nên trong trận ra
quân đầu tiên, khi phải chạy hay nhảy qua mương hẹp, tôi luôn bị trượt
té ạch đụi hoài.
Mấy người lính cười cười: "Chuẩn úy phải mang giày bố mới đi hành quân được". Nghe vậy tôi cũng hơi quê quê. Trong trận này lần đầu tiên nghe trực tiếp súng AK địch bắn thẳng, đạn ghim líu chíu xung quanh, tôi cũng hơi rợn. Sau lần hồi quen rồi cũng dạn dày như ai.
Mấy người lính cười cười: "Chuẩn úy phải mang giày bố mới đi hành quân được". Nghe vậy tôi cũng hơi quê quê. Trong trận này lần đầu tiên nghe trực tiếp súng AK địch bắn thẳng, đạn ghim líu chíu xung quanh, tôi cũng hơi rợn. Sau lần hồi quen rồi cũng dạn dày như ai.
Vì là đại đội trừ bị tiểu khu, nên đại đội của tôi hầu như phải ứng
chiến hành quân suốt tháng và một nửa trong số các cuộc hành quân đó là
trực thăng vận. Dù là tỉnh ven đô, nhưng vì địa thế là sông rạch trên
tất cả 7 quận từ Cần Giuộc, Cần Đước đến Thủ thừa, Bến Cát, Tân Trụ,
Rạch Kiến, Bình Phước, đều bao phủ bởi những đám dừa nước rậm rạp rất lý
tưởng cho VC ẩn trú và phá hoại khủng bố. Ngoài những cuộc hành quân
truy lùng và diệt địch, chúng tôi còn phải hành quân đốn lá khai quang
những vùng cây cối rậm rạp. Đôi khi máy bay Hoa Kỳ cũng rải thuốc khai
quang vào những vùng này. Do đó cùng với nỗ lực hành quân ngày đêm, năm
1970 tình hình an ninh ngày càng ổn định hơn so với những năm 1968. Khi
đi hành quân tôi tuyệt đối ra lệnh cho binh sĩ khi dừng quân cơm nước,
nếu mua gà vịt thực phẩm trong dân chúng, phải trả tiền sòng phẳng để
tránh mọi tuyên truyền của VC bất lợi cho QĐVNCH. Thực tâm mà nói, người
dân không mấy người thực lòng theo VC. Lý do họ phải làm theo VC chỉ
vì QĐVNCH quá mỏng để bảo đảm an ninh cho họ khi đêm về. Những vùng xôi
đậu là những nơi mà ban ngày là Quốc gia, ban đêm là CS. Khi màn đêm phủ
xuống là lúc du kích lẻn về vào từng nhà, thâu thuế, lúa gạo, thực phẩm
nói là “ủng hộ quân giải phóng”. Chúng tuyên truyền bịp bợm và khủng
bố, hăm doạ những ai không nghe chúng. Chúng sẵn sàng ban đêm vào nhà
bịt mắt dẫn đi giết, bêu xác đầu xóm để làm gương cho những ai cứng đầu.
Sau những trận oanh tạc hoặc pháo binh, chúng tôi gặp những xác kinh
tài VC bên những bao tải lớn đựng tiền VNCH, chứng tỏ họ vừa thu thuế
xong chưa giao nộp kịp. Nguời dân vì một cổ hai tròng nên phải cúi đầu
dưới sự áp bức của VC. Có một nghịch lý chợt hiện ra trong đầu tôi:
Trong khi xã hội miền Nam tự do no ấm, mọi người đều được tự do làm ăn,
dành dụm mua sắm, thì CS lại tuyên truyền nhân dân miền Nam bị “o ép,
kềm kẹp bởi Mỹ ngụy” nên họ phải vào “giải phóng” để đem chiến tranh vào
miền Nam yên bình. Để bảo vệ cuộc sống ấm no của người dân, chính phủ
VNCH phải động viên thanh niên nhập ngũ ngoại trừ những người có hoàn
cảnh cha mẹ già yếu, hoặc còn đang đi học. Trong khi đó VC tuyên truyền
là chính phủ bắt lính để chống lại nhân dân. Đáng lẽ người dân phải đóng
thuế cho chính phủ là người tạo ra cuộc sống ấm no đó, họ lại phải đóng
thuế cho bọn ăn cướp trên xương máu đồng loại. Có ai cần bọn chúng vào
đây nếu không phải là do sự tham tàn của lũ CS. Tôi không trách những
người lính CS Bắc Việt vì họ cũng chỉ có một con đường nhập ngũ đi B
(vào Nam) mà thôi. Nếu anh không tự vào lính thì không còn chỗ nào để
dung thân cả. Thân nhân vợ con bị bắt buộc vào đoàn, vào đảng họp hành
đấu tố thường xuyên. Nếu anh không đi thì vợ con sẵn sàng tố khổ, phê
bình và cuộc đời anh sẽ đi vào một trại cải tạo nào đó. Do đó có khi vào
lính anh còn có cái ăn, không bị đói. Đó chính là tâm sự của một vệ
binh trong trại tù binh khi có dịp nói chuyện riêng. Từ đó tôi bắt đầu
hiểu một chân lý: “CS nói không là có và có là không”. Họ tuyên truyền,
chửi bới “Mỹ Ngụy” về những cái xấu, cái ác thì thực ra họ đang nói xấu
về chính họ. Chân lý này luôn luôn đúng với tôi về sau này.
Cuối năm 1969 trong một cuộc hành quân ở Quận Bình Phước, tôi bị thương ở
đầu gối do một người lính vướng phải mìn nội hóa của địch. Người lính
đi gần đó bị một miểng ghim vào tim và chết ngay tại chỗ. Một vài người
lính khác bị thương. Chúng tôi được trực thăng tản thương liền sau đó.
Buổi chiều, có một toán biệt kích tỉnh đến nhập vào đại đội của tôi. Đến
khi chúng tôi rút đi thì toán đó nằm ém lại. Màn đêm vừa buông xuống,
VC bắt đầu kéo về bắt loa huyênh hoang về thành tích đã tiêu diệt và làm
bị thương một số lớn (số phóng đại) binh sĩ ngụy, trong số đó có giết
được một sĩ quan. Chúng tôi ở bệnh viện nghe báo cáo lại mà tức cười.
Không chờ cho đám VC này vào nhà dân, biệt kích đã nổ súng tiêu diệt
toàn bộ.
Vào những năm 68-69, VC móc nối nhiều gia đình làm tay sai cho chúng.
Khi mới về Long An, chân ướt chân ráo, tôi không quen ai nên cũng buồn.
Một anh bạn làm ở tiểu khu giới thiệu cho tôi làm quen hai chị em: Cô
chị tên Trinh quen với bạn tôi, còn tôi làm quen với cô em là Duyên. Sau
vài lần đến nhà chơi, tôi và Duyên có đi chơi Mỹ Tho và chụp ảnh chung.
Qua một vài sự kiện hơi lạ trong nhà khi chị em này có vẻ dấu diếm một
điều gì đó, anh bạn tôi nghi ngờ nên có dò hỏi Phòng 2 tiểu khu. Họ cho
biết 2 chị em này có một người chị khác bị bắt khi dấu truyền đơn và
chất nổ trong người và họ đang theo dõi gia đình này. Tôi dò hỏi Duyên
là tấm ảnh chụp chung với tôi đâu rồi. Cô ta nói là đã làm mất nhưng tôi
biết là cô ta đã giao nộp cho thượng cấp của cô ta rồi. Cha mẹ của
Duyên ở trong vùng xôi đậu (vùng bị VC kiểm soát vào ban đêm). Trong một
cuộc hành quân vào vùng này, một người lính có chỉ cho tôi căn nhà cha
mẹ cô ấy và cho biết tên Trinh và Duyên chỉ là tên giả. Từ đó tôi xa lần
không đến nhà chị em đó nữa.
Năm 1972 sau khi đi học một khóa tu nghiệp tại Mỹ trở về, Bộ Tổng Tham
Mưu thuyên chuyển tôi về Sư đoàn 5 Bộ Binh. Trong một cuộc hành quân
lớn, 2 tiểu đoàn chúng tôi bị Công Trường 7 bao vây bằng bộ binh và
thiết giáp trong hơn 1 tháng. Lúc này Hoa Kỳ đã Việt Nam hóa chiến
tranh nên không còn yểm trợ mạnh như trước. Chúng tôi phải hứng chịu
hàng chục trận mưa pháo mỗi ngày. Thiếu thực phẩm và nước uống nên chúng
tôi phải liều mở đường máu trở ra. Dưới hỏa lực hung hãn của địch, quân
số chúng tôi đa số đã bỏ mình, một số bị bắt, và một số trốn thoát.
Chúng tôi bị trói bằng dây giày dính chùm người này qua người khác. Họ
giải chúng tôi trong rừng gần 2 tuần lễ bằng chân trần không giày dép,
đạp lên gai góc, gốc cây nhỏ bị chặt lú lên, nên hai bàn chân người nào
cũng rách toác chảy máu. Cực hình này quá sức chịu đựng nên chúng tôi
chỉ muốn một được một viên đạn vào mình để giải thoát sự đau đớn. Trong
khi đó thì vệ binh VC luôn thúc mũi súng vào mình và quát: “Khẩn trương
lên”. Có tên chính trị viên an ủi là ráng đến trại sẽ được “giải nao” và
“bồi dưỡng”. Chúng rêu rao là ở trại cái gì cũng có nên chúng tôi cứ
tưởng là giải lao và bồi dưỡng là có “căn tin” bán đồ ăn thức uống. Nào
ngờ sau đoạn đường địa ngục hết 15 ngày mới đến trại, trước mắt chúng
tôi là bóng tối của rừng già, cây rừng chằng chịt. Các tên vệ binh ra
lệnh: “Các anh nghỉ giải nao đi”. Chúng tôi té ngửa ra giải lao với họ
là nghỉ mệt thôi, chứ chẳng có ăn uống gì cả. Mệt rũ ra, chúng tôi chỉ
múc nước uống rồi lăn ra trên lá rừng đầy đỉa vắt mà ngủ qua đêm. Sáng
hôm sau, họ bắt chúng tôi tập họp để “học tập chính sách” rôì phải tự
chặt cây làm chỗ ở. Đúng là làm nhà tù cho mình ở.
Chúng tôi bị bắt làm tù binh không lâu thì ký kết hiệp định Paris. Chúng
tổ chức học tập 3 ngày gọi là để chuẩn bị trao trả. Chúng bắt anh em
mỗi người làm bản cảm tưởng khi được trao trả như thật. Nhưng sau đó
việc trao trả không bao giờ xảy ra và họ giải thích là tại chính quyền
Sàigòn vi phạm hiệp định. Sáu tháng sau, hai bên phái đoàn lại ký Thông
Cáo Chung để thi hành lại hiệp định về trao trả. Với bản chất tráo trở,
lại một lần nữa VC không trao trả tù binh với lý lẽ là Sài Gòn vi phạm.
Hết ý kiến!
Ngày lại tháng qua, chúng tôi đã ở tù CS được 3 năm thì chúng chuyển
chúng tôi ra Bắc để chuẩn bị chiến dịch HCM tiến chiếm miền Nam. Chúng
tôi di chuyển ra bắc bằng đường mòn HCM. Những buổi chiều thật buồn
trên chuyến đi này, nhìn cảnh núi đồi tây Trường Sơn hiu hắt trong ánh
nắng chiều, những người phụ nữ dân công lầm lũi đi dọc theo đường mòn
khiến chúng tôi nhớ nhà tê tái. Nhìn những người bộ đội “sinh Bắc tử
Nam” lũ lượt trên con đường HCM vào Nam, tôi không biết ngày mai họ có
còn cơ hội để trở về với gia đình không. Chúng tôi thì biết đâu có thể
“sinh Nam tử Bắc” không chừng. Bước qua cầu Bến Hải phân chia Nam Bắc
chúng tôi đến địa phận Quảng Bình. Trước mắt chúng tôi thiên đường XHCN
miền bắc là những mái nhà tranh lụp xụp, dân chúng từ già đến trẻ đều đi
chân đất, quần áo thì rách rưới tệ hại. Một anh bạn cảm thán: “Ôi miền
Bắc chưa đến 20 năm mà đã như thế này ư?” (năm 1973). Xui cho anh này
là một tên vệ binh đi gần đó nghe được bèn quát: "Anh đã học tập cách
mạng mà ăn nói như thế hử?" Thế là anh ta hầm hầm tiến lại xích thật
chặt sợi xích vào hai ống chân. Báo hại anh chàng này khi đến được trại ở
Yên Bái thì hai chân đã sưng to. Từ Quảng Bình chúng tôi lên tàu hỏa đi
Hà Nội, Yên Bái. Nhân dịp này chúng xách động dân chúng căm thù ném đá
lên tàu và chúng tôi phải đóng cửa sổ lại. Một lát yên trở lại chúng tôi
hé cửa ra thì có một cô gái sấn sổ lại vùa mắng: “Làm tay sai Mỹ Ngụy
thế có đẹp mặt chưa”. Khi đến sát cửa sổ, cô ấy nói nhỏ: “Em mời các anh
hút thuốc” và ném vào trong toa 2 gói thuốc và một ít kẹo. Chúng tôi
mới biết là họ phải giả vờ căm thù để qua mặt lũ công an cú vọ. Ra đến
ga Hàng Cỏ thì cảnh tượng lụp xụp, bệ rạc chưa từng thấy. Một anh bạn
chỉ cái bảng quảng cáo thuốc lá Bastos từ thời Pháp vẫn còn và nói nhà
anh ở sát ngay đó. Có một điều tất cả nhà gạch hay gỗ đều có nóc lợp
tranh thay vì ngói hay tôn. Xung quanh những chỗ bị hư hỏng vì chiến
tranh được che chắn tạm bằng bìa carton trông rất thảm hại.
Chúng tôi được xuống tàu để đi tiểu tiện. Ga này vô cùng nhếch nhác với
rác rưởi và mùi nước tiểu nồng nặc. Một bà già quấn khăn mỏ quạ nhìn
chúng tôi vừa gạt nước mắt nói nhỏ: “Nhìn những gương mặt các cháu tôi
đẹp đẽ thế kia mà chúng nó lại tuyên truyền là ăn thịt người. Lạ thật!”
Chắc là bà có con cháu đã di cư vào Nam! Chúng tôi lại tiếp tục cuộc
hành trình đến Yên Bái. Tàu đến Yên Bái vào chiều tối dưới mưa dầm miền
Bắc. Những người vệ binh CS đến nhận chúng tôi mặc áo mưa đen, đội mũ
lưỡi trai, đi ủng cao su đen tới đầu gối trông như những tên phát xít
Đức Quốc Xã trong phim làm chúng tôi lo sợ, không biết tương lai rồi sẽ
ra sao. Ra đến Yên Bái ngày 27 tháng tư 75. Ba ngày sau bọn vệ binh reo
hò là đã giải phóng Sài Gòn rồi. Chúng tôi biết đây là sự thật vì trong
khi di chuyển ra Bắc, chúng tôi đã chứng kiến từng đoàn Molotova chở
súng đạn, tên lửa, lính bộ đội vào xâm lăng miền Nam. Trong khi đó
Sàigòn còn đang ngủ quên trong hòa bình giả tạo. Như vậy bảo sao mà miền
Nam không mất. Bản chất tráo trở, lật lọng của họ là một mặt ký hiệp
định Paris để Mỹ rút quân; một mặt chuyển quân và vũ khí vào Nam để cướp
chánh quyền. Ôi thời thế khi người bạn Đồng Minh đã rút lui trong khi
qua tay sai CSVN, 2 đế quốc Liên Xô và Trung Quốc quyết tâm chiếm miền
Nam bằng được. Như vậy “cả ba đánh một, không chột cũng què” là phải
chịu thôi. Chúng tôi xác định tương lai ngày về sẽ còn mờ mịt.
Những ngày dài “lao động cải tạo” lại tiếp tục. Lúc còn chiến tranh để
lấy tiếng với thế giới khi những người tù binh được trao trả về sẽ nói
tốt về họ, cai tù còn nhân nhượng. Sau ngày 30/04/75, họ tuyên bố chánh
quyền miền Nam không còn nữa nên họ bất cần. Họ bắt tù nhân làm việc
nặng như đốn gỗ cây to hai người ôm không hết từ trên núi chuyển về trại
để xẻ gỗ cho cán bộ. Công việc này rất nguy hiểm vì sơ ý một chút là
cây đè chết tươi ngay. Một vài anh yếu sức làm không nổi bị một tên vệ
binh hung dữ chĩa súng bắt quỳ. Ngày hôm sau chúng tôi họp trình báo lên
trại trưởng về việc làm nhục tù binh. Sau đó tình trạng này mới đỡ vì
họ đối xử với tù hình sự như nô lệ quen rồi. Ở riết rồi dân chúng xung
quanh rất thương chúng tôi. Họ nói có đồ ăn gì chẳng thà cho chúng tôi
ăn chứ không bán cho bọn khốn kiếp cai tù đó. Biết tin có vài linh mục
trong số tù binh, một vài gia đình khẩn khoản nói chúng tôi mời các cha
ra ngoài cho họ gặp mặt. Thấy chúng tôi lưỡng lự và biết chúng tôi chưa
tin tưởng họ nên họ bảo mấy đứa con kéo cổ áo xuống cho chúng tôi thấy
thánh giá và bảo chúng đọc kinh cho chúng tôi nghe.
Đối với dân miền Bắc, khi biết chúng tôi là những người có học, họ rất
ngạc nhiên và khâm phục. Có lần một cô giáo hỏi chúng tôi có biết đọc
chữ không. Chúng tôi cười cầm ngược tờ báo Nhân Dân lên đọc. Họ trầm
trồ: “Cầm ngược thế mà các anh đọc được à?” Rồi họ thử chúng tôi bằng
những bài toán cộng, trừ, nhân, chia và các phương trình đơn giản. Thấy
những bài toán đó là trò trẻ con đối với chúng tôi, họ càng phục hơn. Có
lần chúng tôi đẩy xe cải tiến ra Hợp Tác Xã chở rau và sắn về. Trên
đường đi tên bộ đội dẫn giải cho ghé vào nhà dân nghỉ, uống nước. Căn
nhà này chúng tôi thường ghé và có một cô gái rất đẹp và trắng trẻo. Vào
nhà bà mẹ hối cô gái đi nấu nước pha trà đãi chúng tôi. Tên bộ đội đuổi
chúng tôi xuống nhà bếp để anh ta tán tỉnh cô gái. Vì cô này là giáo
viên nên cũng có kiến thức thì làm sao cô có thể nói chuyện với một tên
vô học được. Do đó khi pha trà xong, cô gái cũng bỏ xuống dưới bếp ngồi
nói chuyện với chúng tôi. Tên bộ đội rất quê và tức giận nên hầm hầm hối
ra về. Có khi chúng tôi phải đi phà sang bên kia sông Hồng để chở thực
phẩm. Ngồi trên phà, một hai cô gái dạn dĩ đến hỏi chúng tôi bao giờ
được về. Khi tôi trả lời là không biết thì cô gái bèn nắm lấy tay tôi
đùa: “Hay anh ở lại đây cưới vợ luôn cho xong”. Những điều này chứng tỏ
cảm tình của người dân đối với chúng tôi thế nào.
Cuối cùng, năm 1980 tôi đưọc trở về nhà với vài người bạn. Lên tàu hỏa
khi biết chúng tôi là “tù cải tạo” các anh kiểm soát vé trên tàu đều
không lấy tiền và những bạn hàng đi buôn mua cơm mời chúng tôi. Đến ga
Bình Triệu, trời đã tối, tôi đón xe lam về nhà người chị gần đó để từ từ
báo cho ba má tôi biết tin sau. Đây là lý do tại sao tôi không về thẳng
nhà tôi. Số là có người bạn trong tù được cho về. Bước chân vào nhà, bà
mẹ già vì bất ngờ và cảm động, bà đã đứng tim và chết sau đó. Tôi không
muốn mẹ tôi ở vào hoàn cảnh đó vì bà đã già rồi và đã chịu quá nhiều
đau thương và mất mát. Những ngày sau đó, Sàigòn thân yêu của tôi hiện
ra với chiếc áo choàng đen đúa, bẩn thỉu. Tôi hiểu ra vì không còn lò
điện, ga nên mọi người tận dụng mọi thứ để đốt lên nấu nướng: từ cây
củi, giấy, bao nylon, cùi bắp, vỏ dừa… Do đó tường và của sổ nhà nào
cũng đen nhẻm vì chưa bao giờ được quét vôi lại. Sàigòn một thời là “Hòn
ngọc Viễn Đông” đã trở về thời kỳ hoang dã!
Ôi cảnh thanh bình nước tôi như thế này ư. Trên gương mặt mọi người ai
cũng có mối ưu tư nào đó: Làm sao kiếm ăn, làm sao sống nổi với sự thúc
ép đi kinh tế mới, làm sao tránh cặp mắt soi bói của CA địa phương, làm
sao vượt biên… Cũng để tránh soi mói của CA khu vực, tôi tìm việc tại
một tổ hợp đóng xà lan. Mỗi sáng tôi khoác chiếc áo công nhân và chiếc
mũ tai bèo dắt xe đạp ra khỏi nhà. Công việc chỉ là suốt ngày cầm chiếc
búa 7 ký, theo đường que chỉ của người cai mà nện liên hồi vào tấm thép
dày 10 ly để gò làm sườn xà lan. Một ngày họ trả 6 hào. Đến trưa nghỉ
giải lao, những người có vợ con thì xúm xít nấu lon cơm ăn. Còn tôi độc
thân nên ra ăn cơm dĩa của một bà gánh cơm trước cổng. Dĩa cơm với miếng
thịt mỡ nho nhỏ hết 6 hào và ly nước trà 1 hào nữa là 7. Làm việc nặng
1 ngày mà tiền lương không đủ ăn tiền ăn một buổi trưa! Trời ơi có chế
độ nào không có người bóc lột người mà lại như thế không! Sức trai
không làm nổi để nuôi mẹ già mà còn phải ăn bám thêm bữa sáng, bữa
chiều. Nghĩ đến đó và nhìn bà mẹ còng lưng gánh chè đi bán, tôi không
thể nào cầm được nước mắt dù đã từng là một người lính can trường. Tôi
phải tìm một việc khác là đi thồ gạo. Tăng cường thêm cho chiếc xe đạp
để đủ cứng cáp thồ 1-2 tạ gạo, ra đi với một người bạn, chúng tôi ăn
miếng cơm nguội rồi đạp xe lên đường đi Long An nơi mà trước đây tôi
phục vụ. Đạp xe gần 50 km tốn rất nhiều năng lượng mà chúng tôi không có
tiền để tái nạp nên rất mệt. Dọc đường chúng tôi chỉ dám ngừng xe để
uống ly nước mía đỡ khát. Chúng tôi vào tận thôn xóm xa xôi đến chỗ nhà
máy xay gạo mua gạo về bỏ mối. Chuyến đầu thồ 1 tạ gạo trót lọt. Sau khi
về Chợ Lớn bỏ mối xong, tôi lời được khoảng 20 đồng. Chắc chuyến này về
đưa tiền cho mẹ, chắc bà mừng lắm. Hôm sau, được nước chúng tôi lại
tiếp tục. Đến nơi nghe những người đi buôn nói là trạm thuế vụ hôm nay
nghỉ nên tha hồ xả cảng. Tôi và người bạn tấp luôn mỗi người 2 tạ. Đi
một đoạn gặp một tay du kích chặn xe lại và lôi về trụ sở ủy ban ND. Tại
đây sau khi thuyết pháp cho chúng tôi, tên chủ tịch bắt viết tờ kiểm
điểm rồi tha. Mừng rỡ chúng tôi lại tiếp tục lên đường. Đi một đoạn nữa,
một bóng áo vàng từ bên lề xộc ra đẩy xe tôi ngã chổng kềnh. Nó kéo tôi
vào trụ sở hăm dọa và tịch thu cả 2 tạ gạo. Hắn bảo tôi đi về và mai
xuống giải quyết. Trời đất như sụp đổ dưới chân. Bao nhiêu vốn liếng đã
tan thành mây khói.
Hôm sau tôi ráng trở lại trụ sở CA xã hy vọng nó sẽ trả lại cho tôị phần
nào. Vừa thấy mặt tôi, tên CA sừng sộ hăm doạ: “Anh còn dám trở lại đây
xin xỏ à. Anh làm xáo trộn thị trường, tôi chưa bắt anh là may rồi đấy.
Về đi!” Liếc nhìn trong góc phòng, mấy bao gạo đã được tính sổ chỉ còn
lại 2 cái bao không, tôi biết rằng không còn hy vọng nào nữa mà ở lại.
Chỉ ức rằng tôi đã không tự tay thanh toán được tên quỷ đội lốt người
này. Sau này tôi tìm được một nghề khác là bán đồ điện và sửa điện. Vốn
có học về điện nên tôi thích ứng cũng nhanh. Thuê một chỗ ngồi ngoài
đường với một chiếc xe đẩy nhỏ, tôi vừa bán đồ lặt vặt và sửa chữa.
Khách hàng ngày một đông và tôi đã có vợ con và cuộc sống khấm khá hơn.
Bây giờ thì những tay CA khu vực khác chỗ tôi bán bắt đầu tìm cách vòi
tiền. Bọn thuế vụ và Uỷ ban cũng không kém. Biết tôi không có hộ khẩu
tại khu vực, nửa đêm chúng đập cửa đòi xét hộ khẩu. Tôi không có, chúng
tịch thu giấy tờ cá nhân rồi bảo mai ra phường đóng phạt. Buổi sáng ra
phường, đóng phạt xong tên CA bảo tôi dắt xe Honda của nó đi đổ xăng cho
nó mà không đưa tiền. Thế rồi khi đi ăn nhậu, khi nhờ tôi mua cái này
cái khác cho nó mới yên thân. Lúc này tôi đã ở riêng thuê nhà trong khu
lao động. Ở đây côn đồ không ớn bằng công an vì CA chúng quấy nhiễu tối
ngày. Thật là một xã hội nhiễu nhương chưa từng thấy.
Năm một chín tám mấy tôi không nhớ rõ có vụ đổi tiền 500$(?) ăn 1$ mới.
Cách đó độ 1 tuần, một anh bạn thân cho biết em gái của anh làm ở ngân
hàng được lệnh khăn gói quần áo, thực phẩm đến cơ quan họp và ở lại
trong vài ngày và cho biết sẽ có đổi tiền. Tôi liền đem tất cả tiền bạc
bán trong ngày vào Chợ Lớn mua hàng cả. Mỗi ngày tôi đều làm như thế và
chỉ để lại một ít tiền tiêu xài mà thôi. Trước ngày đổi tiền một ngày,
trên đài ra rả tin nhà nước đính chính sẽ không có đổi tiền, yêu cầu
đừng nghe tin đồn nhảm làm mất trật tự. Nghe thế tôi biết chắc chắn rằng
ngày mai sẽ đổi tiền vì kinh nghiệm mà tôi đã nói ở trên là “chân lý”:
“CS nói không là có, nói có là không” mà. Đến sáng hôm sau tôi dọn hàng
như thường lệ. Được một lát tôi thấy thiên hạ ùn ùn chạy quàng chạy xiên
khắp mọi nơi mua bất cứ hàng gì có thể mua. Từ bịch xà bông kem nhão
nhẹt, đến bóng đèn, con gà, mớ rau bất cứ giá nào. Nhiều nhà có chiếc xe
đạp cũ đem ra ngoài đường bán, thiên hạ cũng giành mua. Chẳng thà đổi
tiền lấy bất cứ thứ gì còn hơn lát nữa đây tiền sẽ thành giấy lộn vì nhà
nước chỉ cho đổi giới hạn có mấy ngàn tiền cũ mà thôi. Tôi biết cái
“chân lý” của tôi đã bắt đầu phát huy hiệu quả. Khắp mọi ngã đường thiên
hạ chen lấn dành giật từng món hàng mà bình thường nó chẳng có nghĩa
gì. Đến gần trưa nhà nước phát lệnh đổi tiền. Tôi dẹp hàng đi xem thiên
hạ vì tiền mặt tôi còn chẳng đáng là bao. Tôi chứng kiến một người đàn
ông đi xe Vespa ngừng xe trước một sạp bán hàng hỏi chủ hàng muốn bán
trọn gian hàng bao nhiêu ông ta cũng mua. Nghe thế, chủ hàng hoảng sợ
bèn dẹp tiệm luôn. Sau khi đổi tiền tôi chỉ còn vài tờ tiền chẵn mà
thôi. Sau đó vài ngày thì vật giá tăng vù vù và chẳng bao lâu mệnh giá
tiền mới trở lại bằng như khi chưa đổỉ. Nghĩa là lúc trước anh có 500$
bây giờ chỉ còn 1$. Thật là một trò bài ba lá gian manh, xảo quyệt vô
cùng. Nhiều người vì tiếc của đã tìm đến cái chết một cách đau đớn.
Riêng nhà nước và cán bộ thì cuỗm được một vố thật to. Một số lớn tiền
bạc đã trôi vào túi họ mà chẳng phải bỏ công sức chi nhiều. Đúng là một
bọn cướp có môn bài mang vũ khí! Trong dịp này nhiều cán bộ nhận đổi
giùm một số người để ăn lời. Tuy nhiên khi đổi xong họ lại tuyên bố là
đổi không được và bỏ túi nguyên số tiền đó.
Báo chí thời đó chỉ có một số ít. Tôi thỉnh thoảng hay đọc báo Công An
Thành Phố để xem một số tin “xe cán chó” còn hơn là đọc “Quân Đội Nhân
Dân” hay “Nhân Dân” chỉ toàn là khẩu hiệu. Có một loạt bài báo năm 85-86
gì đó rêu rao về sự tài giỏi của “bác sĩ cách mạng”. Họ kể ra vài chiến
sĩ trong chiến tranh bị đạn thương ngay bộ phận sinh dục và hủy hoại
phần quan trọng của đàn ông. Quan tâm sâu sắc đến nỗi khổ tâm của người
lính khi đã mất “cái ấy”, các bác sĩ viện 108 (nếu tôi nhớ không lầm?)
đã quyết tâm tái tạo lại bộ phận đó. Họ kể lại là đã lột da đùi cuốn lại
bên trong sụn lấy ra từ sống mũi như cuốn chả giò. Sau đó họ may nối
lại và đã “thành công” vì sau đó anh X, anh Y với cái bộ phận mới, đã có
vợ có con hạnh phúc. Bài báo nói khơi khơi mà không cần biết đến luận
chứng khoa học. Ngay như hiện tại y khoa tân tiến của Mỹ vẫn còn phải
đầu hàng với một cấu trúc tinh vi như vậy của thượng đế. Tác giả bài báo
đã không cần biết đến thần kinh cảm giác và các mạch máu dẫn đến bộ
phận này ra sao. Họ chĩ nghĩ con người như cục đất sét, muốn nhào nặn ra
sao cũng được. Bài báo còn hứa hẹn đăng tiếp trong số tới. Không nén
nổi sự căm phẩn về sự ngu dốt này, tôi đã viết một bức thư gửi đến tòa
báo phân tích và yêu cầu ngưng ngay loạt bài nhảm nhí này để câu độc
giả. Sau đó loạt bài đó đã chấm dứt trong im lặng.
Những câu chuyện “hoang đường” như thế tôi đã gặp rất nhiều từ thời còn ở
trại Yên Bái đến gần đây nhất. Từ câu chuyện trong sách cách mạng tôi
đã xem kể về một cô gái truyền tin dũng cảm trong chiến tranh. Khi đường
giây điện thoại bị bom đánh đứt, không kịp để nối lại, cô đã 2 tay cầm 2
đầu giây bị đứt đứng dưới hố bom ĐẦY NƯỚC, ra lệnh cho đồng đội quay
điện thoại liên lạc với đơn vị cho kịp. Coi như thân mình cô ta có cùng
một điện trở nhỏ như dây đồng vậy! Đến gần đây trên internet đăng bài
phỏng vấn “anh hùng đánh Mỹ” 40 kg dùng tay không níu càng trực thăng
xuống để đồng đội bắn hạ. Đúng là Hercule tái thế. Kế đó là chàng trai
Phạm Gia Vinh đã dùng tay không chế tạo thành công phi thuyền không gian
và hứa hẹn sẽ đưa người ra quỹ đạo vào năm tới. VN đến thời điểm này
chưa chế tạo nổi một con vít đủ tiêu chuẩn mà nói chuyện trên mây. Hết
biết!!
Chuyện nhảm đại loại như vậy nói mãi không hết khi còn những đầu óc ngu
muội hợm hĩnh. Nói chung trong chiến tranh CS đã thành công vì gian trá,
lừa lọc, tàn ác, với sự trợ giúp đắc lực của 2 đế quốc CS to lớn là Tàu
và Nga. Người dân miền Nam đã ngây thơ nghe lời phỉnh gạt đi kèm sự
khủng bố giết chóc để tiếp tay làm tay sai cho chúng. CS đã coi sinh
mạng người dân là bàn đạp cho tham vọng ngông cuồng của chúng. Hằng
triệu xác người đã ngã xuống để xây lâu đài cho các ngài lãnh đạo chễm
chệ trên ngai vàng điện ngọc như vua chúa thuở xưa khi thiết triều trong
ngày đầu năm. Trong khi đó người dân cùng khổ bị chúng cướp nhà cướp
đất kêu oan dậy trời không thấu. Đây là thứ hòa bình mà toàn dân không
được an hưởng. Nó chỉ phục vụ cho bọn đầu sỏ ăn trên ngồi trốc mà thôi.
Các bạn thử nghĩ mà xem, chân lý: CS nói gì thì làm ngược lại mới là
đúng sự thực. Họ nói xấu mọi thứ về miền Nam thì đúng ra họ đang chửi
lại chính họ đó. VC đã có tất cả những xấu xa mà họ đã từng rêu rao về
“Mỹ Ngụy”.