Hòa giải bằng Hiệp định
Hòa giải bằng Hiệp định Genève
Danh xưng chính thức của hiệp định Genève là Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam, nghĩa là hiệp định Genève
chỉ là một hiệp định có tính cách thuần túy quân sự, hai bên ngưng
chiến đấu, tập trung ở hai vùng khác nhau và hiệp định nầy không đưa ra
một giải pháp chính trị nào cho tương lai Việt Nam.
Sau khi Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam cùng các hiệp định
đình chỉ chiến sự ở Lào và Cambodia được ký kết, các phái đoàn tham dự
hội nghị Genève họp tiếp vào ngày 21-7-1954 và cùng nhau bàn thảo bản "Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Genève 1954 về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương".
Bản tuyên bố gồm 13 điều; quan trọng nhất là điều 7, ghi rằng: “Để
cho việc lập lại hòa bình tiến triển đến mức cần thiết cho nhân dân Việt
Nam có thể tự do bày tỏ ý nguyện, cuộc Tổng tuyển cử sẽ tổ chức vào
tháng 7-1956 dưới sự kiểm soát của một Ban Quốc tế gồm đại biểu những
nước có chân trong Ban Giám sát và Kiểm soát Quốc tế đã nói trong Hiệp
định đình chỉ chiến sự. Kể từ ngày 20-7-1955 những nhà đương cục có thẩm
quyền trong hai vùng sẽ có những cuộc gặp gỡ để thương lượng về vấn đề
đó." (Thế Nguyên, Diễm Châu, Đoàn Tường, Đông Dương 1945-1973, Sài Gòn: Trình Bày, 1973, tr. 53.)
Điểm đặc biệt là sau khi soạn thảo xong bản tuyên bố nầy, chủ tịch phiên
họp là Anthony Eden (ngoại trưởng Anh) hỏi từng phái đoàn, thì bảy phái
đoàn là Anh, Pháp, Liên Xô, CHNDTH, VNDCCH, Lào và Cambodge (Cambodia)
trả lời miệng rằng "đồng ý". Bảy phái đoàn nầy tuy đồng ý, nhưng không
ký vào bản tuyên bố, và chỉ trả lời miệng mà thôi. (Hoàng Cơ Thụy, Việt sử khảo luận,
cuốn 5, Paris: Nam Á 2002, tr. 2642. Có thể tìm trong Google bằng tiếng
Anh hoặc tiếng Pháp.) Một văn kiện quốc tế không có chữ ký, thì chỉ có
tính cách gợi ý, hướng dẫn chứ không có tính cách cưỡng hành.
Phái đoàn QGVN và phái đoàn Hoa Kỳ không ký vào Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam ngày 20-7-1954 và cũng không đồng ý bản "Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Genève 1954 về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương"
ngày 21-7-1954. Hai phái đoàn QGVN và Hoa Kỳ đã đưa ra tuyên bố riêng
của mỗi phái đoàn để minh định lập trường của mình. Tuy nhiên, chính phủ
QGVN vẫn tôn trọng Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam ngày
20-7-1954 và thi hành việc chia hai nước Việt Nam theo đúng thỏa thuận
quốc tế.
Nếu để cho Nam Việt Nam (NVN) yên bình xây dựng kinh tế với sự trợ giúp
của Hoa Kỳ, thì đến một lúc nào đó chắc chắn NVN với nền kinh tế tự do
sẽ phát triển và vượt xa VNDCCH hay Bắc Việt Nam (BVN) với nền kinh tế
chỉ huy theo đường lối cộng sản. Đó chính là điều mà BVN thực sự lo
lắng.
Sự giúp đỡ của Hoa Kỳ cho NVN chẳng những khiến BVN rất quan ngại, mà sự
hiện diện của người Hoa Kỳ tại NVN còn khiến cho cả Trung Cộng chẳng
yên tâm. Không kể cuộc tranh chấp ở Nam Triều Tiên, Hoa Kỳ đã từng giúp
chính phủ Quốc Dân Đảng Trung Hoa tiễu trừ đảng CS ở lục địa, và nay
đang giúp Trung Hoa Dân Quốc bảo vệ Đài Loan (Taiwan), chống Trung Cộng.
Trung Cộng mạnh mẽ chống đối Hoa Kỳ khắp nơi trên thế giới, hơn cả Liên
Xô chống Hoa Kỳ. Nay người Hoa Kỳ lại có mặt ở NVN, gần sát với Trung
Cộng, nên Trung Cộng rất quan ngại cho an ninh của chính Trung Cộng.
Vì Liên Xô và Trung Cộng đều chống Hoa Kỳ, nên cả hai hậu thuẫn cho BVN
mở cuộc chiến xâm lăng NVN. Bắc Việt Nam đưa ra chiêu bài “chống Mỹ cứu
nước”, vừa để khích động lòng yêu nước của dân chúng BVN chống lại NVN,
vừa để phù hợp với chủ trương chống Hoa Kỳ của Trung Cộng và Liên Xô,
Như thế, rõ ràng các lý do “thống nhất đất nước” và “chống Mỹ cứu nước”
chỉ có tính cách biểu kiến bên ngoài, dùng làm chiêu bài động binh,
trong khi lý do thật sự được nhà nước BVN che đậy là tham vọng lớn lao
của đảng Lao Động (LĐ) tức đảng Cộng Sản, muốn đánh chiếm toàn bộ Việt
Nam, bành trướng chủ nghĩa CS đồng thời thi hành nghĩa vụ quốc tế, như
lời Lê Duẫn nói, đánh NVN là “đánh cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc”. Kế hoạch tấn công NVN đã được đảng LĐ chuẩn bị trước khi ký hiệp định Genève ngày 20-7-1954, thấy rõ trong kế hoạch Liễu Châu đầu tháng 7-1954.
Trước khi hiệp định Genève được ký kết, tại Liễu Châu (Quảng Tây,
Trung Hoa), từ ngày 3 đến ngày 5-7-1954, Chu Ân Lai, thủ tướng Trung
Cộng, bí mật gặp gỡ Hồ Chí Minh, chủ tịch VNDCCH, đưa ra kế hoạch là
trước khi rút người ra BVN theo quyết định của Hiệp định Genève, đảng LĐ
gài cán bộ ở lại NVN, đồng thời phân tán và chôn giấu võ khí ở lại NVN
để chuẩn bị chiến đấu về sau. (Về hội nghị Liễu Châu, mời đọc Tiền
Giang, Chu Ân Lai dữ Nhật-Nội-Ngõa hội nghị [Chu Ân Lai và hội
nghị Genève] Bắc Kinh: Trung Cộng đảng sử xuất bản xã, 2005, bản dịch
của Dương Danh Dy, tựa đề tiếng Việt là Vai trò của Chu Ân Lai tại Genève năm 1954, chương 27, "Hội nghị Liễu Châu then chốt".)
Như thế, ngay trước khi ký hiệp định Genève vào ngày 20-7-1954,
phía cộng sản đã chủ tâm sắp đặt trước kế hoạch trường kỳ mai phục ở
NVN, chuẩn bị lực lượng tiếp tục chiến tranh. Ngoài chuyện gài cán bộ
đảng viên lẫn trốn trong dân, đảng LĐ còn có cách cài người rất thâm
hiểm là cho cán bộ đảng viên đảng LĐ vội vàng cưới vợ trước khi tập kết
ra Bắc. Những người vợ ở lại NVN và con cái từ các cuộc hôn nhân nầy
sinh ra, sẽ tiếp tay cho cán bộ CS khi họ trở về hoạt động.
Trong khi đó, để kiếm cớ gây chiến, đảng LĐ tức đảng cộng sản BVN lại đổ lỗi cho phía NVN không tôn trọng hiệp định Genève,
trong khi chính hiệp định Genève chỉ là một hiệp định đình chiến mà
thôi và không đưa ra giải pháp chính trị. Còn giải pháp chính trị được
dư tính trong bản "Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Genève 1954 về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương",
thì không có chữ ký của bất cứ phái đoàn nào, không có giá trị pháp lý.
Lý do có thể là phía CS (Trung Cộng, CSVN) tại Liễu Châu đã quyết định
tiếp tục cuộc chiến, nên vận động không ký vào bản tuyên bố cho dễ hành
động về sau nầy.
Đó là cách hòa giải bằng hiệp định Genève của CSVN. Tạm dừng để
lấy sức, rồi tiếp tục chiến tranh. Cách hòa giải nầy đưa đến việc BVN
tái phát động cuộc chiến năm 1960, và dùng viện trợ của khối CS quốc tế,
nhất là Liên Xô và Trung Cộng, tấn công NVN.
Hòa giải bằng Hiệp định Paris
Chiến tranh Việt Nam lọt vào cao điểm chiến tranh lạnh toàn cầu. Liên
Xô, Trung Cộng giúp đỡ, viện trợ cho BVN. Ở thế yếu, NVN phải nhờ Hoa
Kỳ giúp đỡ, viện trợ. Điểm khác nhau quan trọng là Liên Xô và Trung Cộng
gởi quân viện cho BVN, và BVN sử dụng quân đội BVN và du kích NVN để
chiến đấu ở NVN. Liên Xô chỉ gởi chuyên viên ở hậu phương chứ không ra
chiến trường. Ngoaøi quaân vieÄn, töø thaùng 6-1965 ñeán thaùng 3-1968,
TQ gôûi sang BVN 320,000 quaân, truù ñoùng ôû caùc tænh vaø thaønh phoá
phía baéc Haø NoÄi, ñieàu khieån caùc suùng phoøng khoâng, söûa chöõa
ñöôøng saù, caàu coáng, ñöôøng xe löûa, baûo veÄ caùc tænh phía baéc,
nhaèm giuùp BVN keùo heát löïc löôïng xuoáng taán coâng NVN. (Qiang
Zhai, China & the Vietnam Wars, 1950-1975, The University of
Carolina Press, 2000, tr. 135.) Về phía Hoa Kỳ, Hoa Kỳ gởi Bộ binh và
Không quân trực tiếp chiến đấu ở Việt Nam từ năm 1965.
Điểm quan trọng là Hoa Kỳ áp dụng chiến lược phòng thủ ở NVN chứ không
đánh ra BVN bằng bộ binh như chiến tranh Triều Tiên. Hoa Kỳ chỉ gởi
Không quân tấn công những hậu cứ của CS ở BVN. Cứ thủ mãi và chờ địch
quân đến tấn công, đưa đến kết quả là tuy quân đội Hoa Kỳ không thua
trận nào, nhưng tử trận mỗi ngày một ít; cộng nhiều ngày, nhiều tháng,
nhiều năm thành số nhiều. Mỗi ngày vài phi công thuộc Không quân Hoa Kỳ
bị bắn rơi ở BVN và bị bắt làm tù binh; cộng nhiều ngày thành số đông.
Các số liệu tử vong và tù binh tăng cao làm cho dân chúng Hoa Kỳ sốt
ruột, lo sợ cho sinh mệnh của thân nhân mình, đòi rút quân về nước.
Phong trào phản chiến trong nước Hoa Kỳ hoạt động mạnh mẽ, dân chúng,
sinh viên biểu tình rầm rộ, làm cho đất nước Hoa Kỳ xáo trộn, khiến
chính phủ Hoa Kỳ phải kiếm cách ổn định tình hình nội bộ. (Chú ý: lúc đó
quân đội Hoa Kỳ còn gồm thành phần động viên. Luật động viên Hoa Kỳ bị
bãi bỏ năm 1973, sau Hiệp định Paris. Ngày nay, quân đội Hoa Kỳ
gồm toàn quân nhân chuyên nghiệp.) Hơn nữa, thông qua chiến tranh Việt
Nam, Hoa Kỳ bắt tay với Trung Cộng và đang muốn tách Trung Cộng ra khỏi
khối CS do Liên Xô lãnh đạo. Chính phủ Hoa Kỳ liền thay đổi chiến lược,
rút quân khỏi Việt Nam và kiếm cách ký hiệp định hòa bình để lấy lại tù
binh.
Từ đó, Hoa Kỳ mở đường hòa đàm với BVN và đi đến hội nghị Paris. Chính
phủ NVN với kinh nghiệm ê chề năm 1945 và 1954, không chịu nhượng bộ
BVN, không chịu ngồi vào bàn Hội nghị Paris, nhưng Hoa Kỳ áp lực,
rút quân, giảm viện trợ, nên NVN đành phải chấp nhận. Sau những cuộc
thảo luận gay go kéo dài từ năm 1968 đến cuối năm 1972, cuối cùng, ngày
27-1-1973, Hiệp định Paris tức Hiệp định chấm dứt chiến tranh và lập
lại hòa bình ở Việt Nam (Agreement on Ending the War and Restoring Peace
in Vietnam), còn được gọi là Hiệp định Hòa bình Paris (Paris Peace Accords)
được ký kết tại nơi bắt đầu, tức Trung Tâm Hội Thảo Quốc Tế (Centre de
Conférences International), trong khách sạn Majestic, số 19 đường
Kléber, Paris.
Hiệp định gồm 9 chương, 23 điều, có hai bản. Bản thứ nhứt giữa bốn bên
VNCH, Hoa Kỳ và CHMNVN, VNDCCH. Bản thứ hai giữa hai bên Hoa Kỳ và
VNDCCH. Hai bản chỉ khác nhau ở phần mở đầu và điều 23, còn giống nhau
từ điều 1 đến điều 22. Vì có hai bản, nên hiệp định Paris được ký
kết hai lần. Lần bốn bên VNCH, Hoa Kỳ, VNDCCH và CHMNVN ký kết vào buổi
sáng 27-1-1973. Lần hai bên Hoa Kỳ và VNDCCH ký kết vào buổi chiều
27-1-1973. Hiệp định có hiệu lực từ 0 G. giờ quốc tế GMT đêm 27 rạng
28-1-1973, tức 8 giờ sáng giờ Việt Nam ngày 28-1-1973.
Những điểm chính của hiệp định Paris là: Ngưng bắn trên toàn lãnh
thổ Việt Nam; Hoa Kỳ rút quân đội và cố vấn còn lại (khoảng 23,700)
trong 60 ngày; Hoa Kỳ triệt phá tất cả các căn cứ trong 60 ngày; trao
trả tù binh Hoa Kỳ và các tù binh khác trong 60 ngày; quân đội Bắc Việt
tiếp tục đóng giữ tại chỗ ở Nam Việt Nam; rút tất cả các lực lượng ngoại
nhập tại Lào và Cao Miên; cấm lập căn cứ và chuyển quân qua hai nước
nầy; duy trì khu phi quân sự tại vĩ tuyến 17 làm ranh giới tạm thời cho
đến khi nào thống nhất đất nước bằng một giải pháp hòa bình; thành lập
Ủy ban Kiểm soát Quốc tế gồm có người các nước Canada, Hungary, Ba Lan
và Indonesia với 1,160 thanh tra kiểm soát việc thi hành hiệp định;
Nguyễn Văn Thiệu vẫn là tổng thống miền NVN cho đến khi có bầu cử; BVN
tôn trọng quyền tự quyết của dân chúng NVN; không chuyển quân qua khu
phi quân sự; không sử dụng võ lực để thống nhất đất nước. (John S.
Bowman, The Vietnam War, Day by Day, New York: Maillard Press, 1989, tr. 210.)
Rõ ràng BVN chiếm lợi thế trong hiệp định Paris so với NVN. Trong
khi Hoa Kỳ rút quân, triệt phá hết các căn cứ Hoa Kỳ tại NVN, thì quân
đội BVN tiếp tục đóng giữ tại chỗ ở NVN. Trong khi đó, BVN bí mật tiếp
nhận viện trợ của Liên Xô và Trung Cộng ở BVN, rồi bí mật chuyển vào NVN
qua đường Trường Sơn và ngay cả đường vùng phi quân sự ở vĩ tuyến 17,
trắng trợn vi phạm hiệp định Paris. Số viện trợ do Liên Xô và Trung Cộng
cho BVN trong thời gian nầy tăng gấp 4 lần so với trước đây. (Henry
Kissinger, Years of Renewal, New York: Simon & Schuster, 1999, tr. 481.)
Hiệp định Paris quy định việc thành lập một số cơ chế để thực hiện và
theo dõi việc ngừng bắn. Đầu tiên là HỘI ĐỒNG HÒA GIẢI HÒA HỢP DÂN TỘC
(National Council of National Reconciliation and Concord). Điều 12
chương IV Hiệp định Paris ghi rằng “hai bên miền Nam Việt Nam
sẽ hiệp thương trên tinh thần hòa giải và hòa hợp dân tộc, tôn trọng lẫn
nhau và không thôn tính nhau để thành lập Hội đồng quốc gia hòa giải và
hòa hợp dân tộc gồm ba thành phần ngang nhau. Hội đồng sẽ làm việc theo
nguyên tắc nhất trí.” Danh xưng rõ ràng là “Hòa giải hòa hợp dân tộc”, nhưng thực chất là HGHH theo kiểu CS.
Ba thành phần nêu trên đây là VNCH, Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng (MTDTGP)
và lực lượng thứ ba. Lực lượng thứ ba được gọi là trung lập, không theo
VNCH cũng không theo MTDT. Trong thực tế, lực lượng thứ ba do CSVN ngấm
ngầm tổ chức và điều động, gồm những nhà hoạt động chính trị đòi hỏi
hòa bình, dân chủ mà không nhất thiết phải tán thành chủ nghĩa CS hay
chủ nghĩa xã hội, nhằm cô lập chính phủ VNCH. Cách quyết định theo
nguyên tắc nhất trí, có nghĩa là cả ba bên phải cùng đồng ý mới thông
qua một quyết định. Nói cách khác, mỗi bên đều có quyền phủ quyết. Vậy
làm sao hòa giải hòa hợp, vì ai không bằng lòng thì phủ quyết, thế là
đường ai nầy đi.
Cũng theo điều 12 nầy, HĐHGHHDT sẽ đứng ra tổ chức tổng tuyển cử nhằm
bầu chọn cơ quan quyền lực cho NVN. Tuy nhiên, vì chính phủ Hoa Kỳ nôn
nóng rút quân, rút tù binh nên ký hiệp định Paris, chịu để cho BVN đóng
quân ở lại NVN, nên BVN tiếp tục tấn công NVN, và chiến tranh vẫn tiếp
diễn. Cho đến ngày 30-4-1945, BVN cưỡng chiếm NVN, HĐHGHHDT cũng chưa
thành lập được.
Như thế, chuyện hòa giải hòa hợp theo điều 12 chương IV Hiệp định Paris chỉ là một cái bánh vẽ cho Hoa Kỳ rút quân, vì trong thực tế, sau HĐHGHHDT, Hiệp định Paris
còn thành lập, theo điều 18 chương VI, Ủy ban Quốc tế Kiểm soát và Giám
sát (International Commission for Control and Supervision), gồm đại
diện bốn quốc gia Canada (Gia Nã Đại), Hungary (Hung Gia Lợi), Indonesia
(Nam Dương), Poland (Ba Lan). Ủy ban nầy cũng chẳng làm được việc gì vì
thiếu sự hợp tác về phía CSVN.
Trong khi Ủy ban QTKSGS tự do đi lại trong vùng do chính quyền NVN kiểm
soát, thì Ủy ban bị ngăn cản khi đi vào những vùng CS hoạt động. Ngày
7-4-1973, hai trực thăng của Ủy ban chở nhân viên đến Khe Sanh và Lao
Bảo để quan sát và kiểm soát sự xâm nhập của CS theo đường Trường Sơn,
liền bị quân CS bắn rơi một chiếc, gây tử thương cho phi hành đoàn và 7
nhân viên. Các chuyến bay ở Lộc Ninh cũng bị quân CS hăm dọa. Sau khi
một nhân viên Canada bị CSVN bắt giữ, phái đoàn Canada rút lui vào cuối
tháng 7-1973, Iran (Ba Tư) được cử thay thế. Tuy Ủy ban tiếp tục hoạt
động cho đến năm 1975, nhưng hoàn toàn bất lực. (Webster's New World Dictionary of the Vietnam War, tt.. 180-181.)
Kết luận
Sau cuộc hòa giải nội bộ năm 1945, người Việt theo chủ nghĩa dân tộc có
được kinh nghiệm ê chề với CSVN. Trong hai giai đoạn 1954 và 1973, người
Pháp rồi người Hoa Kỳ, do chủ tâm rời bỏ Việt Nam, nên dễ dàng thỏa mãn
những yêu sách của CSVN để CSVN nhanh chóng ký kết hiệp định giúp hai
nước nầy ra đi cho rồi, trong khi đối với CSVN, ngưng chiến chỉ là những
giờ giải lao và các hiệp định đó chẳng qua chỉ là những tờ giấy loại bị
CSVN xé bỏ dễ dàng. Năm 1954, CSVN ký Hiệp định Genève để dưỡng sức
chuẩn bị tiếp chiến tranh. Năm 1973, CSVN ký Hiệp định Paris để
Hoa Kỳ rút quân, bỏ rơi và ngưng viện trợ cho NVN, rồi CSVN nhận thêm
quân viện của Liên Xô và Trung Cộng, tiếp tục tấn công và đánh chiếm NVN
năm 1975.
Với những kinh nghiệm lịch sử như thế, bằng những hiệp định quốc tế,
CSVN ký, nhiều nước ký và nhiều nước làm chứng, mà CSVN vẫn vi phạm
trắng trợn, xé bỏ dễ dàng, thì còn ai dám tin CSVN và hòa giải hòa hợp
với CSVN?
(Toronto, 24-05-2015)