30/11/15

VIII - Quê Nội tôi ai oán và tang thương vì CCRĐ

Đặng Huy Văn (Danlambao) - (Mục VIII- trong “Giấc mơ thiên đường tuổi thơ tôi”(1))

1- Vài lời phi lộ trước khi post mục VIII này lên blog.

Sau khi post mục “VII- Những ngày CCRĐ kinh hoàng trên quê ngoại của tôi”(2) lên mạng, tôi đã nhận được rất nhiều tấm lòng đồng cảm với những đau thương, mất mát và kinh hoàng đối với những người thân yêu của tôi trên quê ngoại Thiên Lộc mến thương. Tuy nhiên, tôi cũng đã nhận được một số ý kiến đóng góp đại ý, chuyện đã qua thì không nên nhắc lại, hơn nữa CCRĐ đã được Hồ chủ tịch thay mặt đảng và chính phủ nước VNDCCH nhận sai lầm, đã sửa sai và đền bù thỏa đáng rồi! Vậy thực tế việc “đã nhận sai lầm, đã sửa sai và đền bù thỏa đáng rồi” ấy đã diễn ra trên quê hương tôi như thế nào?

Đầu tiên là việc Hồ chủ tịch đã “nhận sai lầm” bằng cách lấy khăn “lau nước mắt” sau khi đã đọc lời thừa nhận CCRĐ là sai lầm trước quốc dân đồng bào vào tháng 10/1956 mà ai cũng đã thấy. Nhưng không hiểu vì sao từ đó đến nay, sự kiện CCRĐ long trời lở đất “đã đem lại ruộng cày cho hàng triệu nông dân Miền Bắc” như thế, mà lại không hề có một lần nào được tổ chức kỷ niệm. Chính phủ ta từ xưa đến nay, các sự kiện lớn, nhỏ đã xẩy ra trên đất nước đều được tiến hành kỷ niệm vào các dịp chẵn năm. Chẳng hạn như ngày ra đời của báo Nhân Dân, báo Công An Nhân Dân, báo Quân Đội Nhân Dân, hay cuộc tàn sát 504 người dân tại Mỹ Lai của Mỹ ở Miền Nam…đều được long trọng tổ chức kỷ niệm. Mà tại sao sự kiện CCRĐ đã cướp đi mạng sống của hàng chục vạn người lại không được một lần tổ chức kỷ niệm? Hay vì sinh mạng của hàng chục vạn người dân Miền Bắc chết oan này không đáng giá bằng 504 người dân chết ở Mỹ Lai năm 1968? Nếu đã thừa nhận CCRĐ “là sai lầm” thì càng phải được tổ chức kỷ niệm để cho con cháu đời sau mãi mãi không bao giờ phải lặp lại những sai lầm như thế mới đúng chứ?

Thứ đến là vấn đề “đã sửa sai” từ sau 10/1956, thì cụ thể như thế nào? Những ai đã bị đội CCRĐ kết án tử hình oan mà chưa kịp xử bắn thì không bị xử bắn nữa, những ai bị đi tù oan trong CCRĐ thì một số đã được ra tù. Nhưng cũng có nhiều người mấy năm sau mới được ra tù vì việc xét ai bị oan sai còn phụ thuộc vào trình độ và đạo đức của lãnh đạo từng địa phương nữa. Còn những người đã bị xử bắn oan trong đó có cả những đảng viên CS năm 1930 thì Hồ chủ tịch đã sửa sai như thế nào? Không hề có một lời xin lỗi đối với thân nhân của những người đã bị bắn oan này bằng văn bản của chính phủ nhằm phục hồi danh dự cho họ, khiến sau này con cháu của họ còn mang tiếng oan nối đời! Nghĩa là những người đã bị bắn oan thì cứ vĩnh viễn nằm dưới mồ chịu bản án oan đó từ đời này sang kiếp khác! Vậy việc “đã sửa sai” trên thực tế chỉ thực hiện được vài phần trăm thôi! Bởi vì cho đến mấy chục năm sau, các thủ tục xét cho ai đi học, xét cho ai đi làm hay nâng lương lên chức, dựng vợ gả chồng…nhà nước vẫn còn căn cứ vào thành phần gia đình của cái thời CCRĐ ấy. Người nào trót bị dính “ông bị bắn” hay “cha bị đi tù” trong CCRĐ là rất rắc rối, thậm chí thất bại! Còn cái sai lầm đã làm “đảo lộn thuần phong mỹ tục, phá bỏ nền nếp gia đình, thói quen chụp mũ, dựng chuyện vu cáo người khác” thì ngày nay vẫn còn nguyên xi nếu không muốn nói là đang ngày càng trầm trọng hơn. Tại sao ngày nay đã sang Thế Kỷ 21 rồi mà việc vợ giết chồng, con đánh cha, anh em ruột thịt chỉ vì vài tấc đất cũng dẫn đến giết nhau lại đang xẩy ra thường xuyên như thế? Theo tôi, nó đã được thai nghén và sinh ra từ cái “nền văn minh CCRĐ”, từ các ông đội trưởng và bần cố nông cốt cán chuỗi rễ của thời kỳ CCRĐ để lại. Vậy việc “đã sửa sai rồi” đó là sửa những cái gì?

Thứ ba là vấn đề “đã đền bù thỏa đáng” tài sản, trâu bò, ruộng nương do đội CCRĐ tịch thu thì đợt sửa sai cuối năm 1956 chưa thực hiện được bao nhiêu. Lúc bấy giờ may ra gia đình nào chưa bị nông dân phá dỡ nhà thì chủ cũ được về ở nhà cũ. Nhưng tuyệt đại đa phần là không được trả lại nhà và tài sản vì các hộ cố nông được chia quả thực đó đã phá dỡ, hoặc họ kiên quyết không trả lại. Nhiều trường hợp vì tranh chấp nhà đất, trâu bò giữa những cố nông đã được chia quả thực và các địa chủ bị quy sai đã xẩy ra xô xát đổ máu và phần thắng luôn thuộc về các bần cố nông được chia quả thực này! Đơn cử gia đình tôi, mẹ tôi đã bị tịch thu trong CCRĐ một căn nhà ngang, 2 con trâu, 3 sào vườn, 3 mẫu ruộng và nhiều tài sản quý giá khác thì mãi 53 năm sau, năm 2008, mới được chính quyền xã gọi lên ký nhận tiền đền bù là 4 triệu VNĐ. Vào thời điểm 2008 may ra 4 triệu đồng này chỉ có thể mua được một phần tư con trâu mà thôi! Như vậy tổng số tài sản của gia đình tôi đã bị tịch thu lên tới chục tỷ đồng tính theo thời giá 2008 ấy đã được đền bù vỏn vẹn 4 triệu VNĐ. Số tiền 4 triệu đồng này là có thật và anh cả của tôi hiện nay vẫn đang giữ để “hàng năm thắp nhang cho ba mẹ tôi” vào những ngày giỗ mà thôi!

Cuối cùng, không phải tôi viết “GIẤC MƠ THIÊN ĐƯỜNG TUỔI THƠ TÔI” là để bới móc quá khứ CCRĐ đau thương mà là tôi đang viết về Ký Ức Tuổi Thơ cho đến trước khi tôi tròn 20 tuổi. Vì vậy, cái gì vui và tốt đối với tuổi thơ, tôi cũng viết thì tại sao CCRĐ làm tôi suýt bị chết đói vào năm tôi 11 tuổi ấy lại không cho phép tôi được nhắc lại? Thực ra, khi phải đọc lại những trang quá khứ đau thương giàn dụa nước mắt ấy, đôi khi tôi cũng nghẹn ngào không muốn đọc chứ đâu phải riêng gì quý vị. Nhưng “Thuốc đắng thì dã tật, sự thật thì mất lòng!” Chúng ta nên đối diện với sự thật phũ phàng này để cho mai sau con cháu của chúng ta sẽ mãi không bao giờ phải chịu lại cảnh đau thương như thế này lần nữa!
2- Quê nội tôi những ngày đầu CCRĐ tưng bừng dựng chuyện đấu tố.
Cái đêm rằm tháng Bảy năm Ất Mùi ấy sáng trăng. Tôi đi bộ suốt đêm từ quê ngoại Can Lộc về đến nhà lúc trời đã gần sáng. Thấy cả nhà đang say giấc nên tôi không gõ cửa vào nhà mà đã chui lên nóc chuồng trâu ngủ liền một mạch không một ai hay biết. Đến bữa ăn trưa tôi mới từ nóc chuồng trâu chui xuống làm cả nhà hoảng hồn. Mẹ tôi lo lắng hỏi:
- Sao con lại bỏ về nhà mà không chăn trâu giúp cậu Thành nữa, hả? Có phải con lại nghịch ngợm rồi bị cậu Thành đuổi về, đúng không?
Nhìn nét mặt mẹ tôi giận dữ đã làm tôi bật khóc. Rồi tôi vừa khóc vừa kể cho cả nhà nghe ở quê ngoại đã xẩy ra CCRĐ như thế nào, cậu Chắt Thiện bị đấu tố ra sao? Khi tôi kể đến chuyện cậu Thành bị bắt giam, nhà cậu cũng bị tịch thu làm tôi và mợ Thành đã phải nhịn đói mấy ngày liền, đến chuyện Võ Thị Tần đã cho tôi ăn oản Chùa Hương nên cô ấy đã bị bà Cung đánh đòn đau ra sao. Thì lúc đó cả nhà tôi mới òa lên khóc. Mẹ tôi liền ngữa mặt lên trời như nói với ai đó:
- Cha ơi! Em Thành con út của cha ngày vừa sinh ra thì cha đã qua đời. Đứa em côi cút của con nhà nghèo vậy mà cũng bị quy là địa chủ thì hỏi trời còn có mắt nữa hay không, thưa cha?
Lúc đó, tôi vội đưa cho thằng út cái oản Chùa Hương của Tần tặng hôm trước để mọi người bớt khóc đi nhưng mẹ tôi vẫn vừa lau nước mắt vừa kể lễ: “Dì Cung là người bà con của mợ Thành. Vậy tại sao Tần cho con ăn oản để đỡ đói mà lại bị dì Cung đánh? Mẹ nghe nói dì ấy cưng con gái lắm cơ mà!”
- Thưa mẹ, dì ấy sợ bị liên lụy đến dượng Cung mà. Cũng chính vì sợ con lại làm liên lụy đến nhà Tần nữa nên mợ Thành mới đồng ý cho con về nhà vào đêm qua đó, mẹ ạ! Họ còn nói cậu Thành bị quy địa chủ và bị bắt cũng vì chứa chấp “con của đại địa chủ Đức Lâm”, mẹ có biết không?
Lúc đó mẹ tôi mới khóc lên thành tiếng:
- Thành ơi, tại vì thương chị mà em đã bị quy oan, mong em tha tội cho chị!
Chúng tôi đang tiếp tục ăn trưa thì bỗng nghe tiếng trống, tiếng chiêng và tiếng người hô khẩu hiệu đang tiến dần đến trước cổng nhà mình:
- Đã đảo giai cấp địa chủ cường hào gian ác ngoan cố!
- Có khổ nói khổ nông dân vùng lên!
- Hoan nghênh chính sách cải cách ruộng đất của Hồ chủ tịch!
- Thà đánh nhầm còn hơn bỏ sót!
- Hồ chủ tịch muôn năm! Mao chủ tịch muôn năm!
Mẹ tôi nói với tôi: “Đã mấy ngày phải nhịn đói rồi, hãy ăn đi con! Ngày nào vào giờ ăn trưa họ cũng kéo đến hô như thế, mặc kệ họ con ạ! Từ ngày đội CCRĐ về xã, nhà địa chủ nào cũng phải chịu cảnh này. Ban đêm thì bắt ra đấu, ban ngày thì bắt nghe hô khẩu hiệu. Thật uất đến muốn chết, con ạ!”
Tối đến thì bác Bắc trai, mẹ tôi, ông nội tôi và một số người nữa lại bị dân quân bắt giải ra sau xóm để nghe nông dân tố khổ. Xóm tôi đại thể có thể chia ra ba loại người giàu.
Loại người giàu nhất là cố Cửu Hạnh (hay còn gọi là ông Giáo Châu). Cố Cửu tư chất thông minh, giỏi chữ Hán, giỏi chữ quốc ngữ và biết cả tiếng Pháp nữa nên cũng có một thời cố đi dạy học. Cố không tán thành đường lối chống Pháp của cộng sản mà ủng hộ chủ trương đòi dân sinh, dân chủ của cụ Phan Chu Trinh. Năm 1930, ba tôi tham gia đảng CS Đông Dương đã bị Pháp bắt đi tù 5 năm tại Kon Tum. Thấy ông nội tôi đi tiếp tế cho ba tôi khổ quá nên có lần cố đã nói:
- Sao thằng Trung nó dại thế? Đang học trường Quốc Học Pháp Việt sau này ra làm quan chẳng sung sướng hơn sao mà lại đi theo cộng sản chống Pháp? Từ xưa đến nay, đội đá vá trời thử hỏi đã có ai làm được chưa?
Vì vậy các con của cố, người nào cố cũng cho đi học đến nơi đến chốn. Bác cả tên là Bẹp Huỳnh ở chung với cố học rất giỏi. Sau 1945, bác Bẹp Huỳnh làm cho ngành thương nghiệp của chính phủ ta nhưng đã bị ốm chết năm 1950. Bác thứ hai tên là Cu Minh, học về kỹ nghệ thực hành ra mở lò đúc đồng kết hợp buôn bán rất phát tài. Bác thứ ba tên là Chắt Hoàn học về thiên văn nhưng rất giỏi tiếng Pháp và tiếng Nhật nên khi Nhật hất cẳng Pháp, cố Cửu đã khuyên bác Chắt Hoàn sang làm phiên dịch cho quân đội Nhật tại Lào cốt để giúp cố buôn bán qua Lào được thuận lợi thôi. Chứ thực ra, cố Cửu và bác Chắt Hoàn cũng rất căm thù bọn phát xít Nhật tàn ác. Chuyện này chỉ có mình ba tôi biết chứ nếu người làng mà biết rồi tố cáo với đội cải cách thì có thể bác Chắt Hoàn cũng sẽ bị rắc rối! Bản thân cố Cửu Hạnh xuất thân là con nhà nghèo, nay giàu được không phải là do nghề giáo, cũng không chỉ do làm ruộng mà do cố còn biết buôn bán gỗ lạt từ Lào về. Nhờ thế, cố Cửu mới xây được nhà hai tầng, tậu được ruộng. Bởi vì cha ông của cố Cửu Hạnh không có ruộng đất và nhà cửa để lại như ông nội tôi. Lúc sinh thời, ông nội tôi rất kính trọng cố Cửu Hạnh vì cố khá nghiêm khắc với con cháu trong nhà nhưng lại rất mềm mỏng với bà con họ hàng trong xã. Cố Cửu là một trong những người đã bị quy là địa chủ từ ngày mới phát động giảm tô, 1954, cùng với ông bà nội tôi và mẹ tôi.
Loại người giàu thứ hai là ông nội tôi. Ngày xưa ông nội tôi là người có tiếng giàu có nhất nhì huyện bởi vì có nhà cửa, ruộng đất, của cải từ nhiều đời bá hộ để lại. Nhưng đến đời ông nội tôi thì gần như đã phá sản. Phần vì ông nội tôi ham cờ bạc mà lại đánh toàn thua nên cứ phải dâng ruộng vay tiền cố Cửu Hạnh để đánh tiếp. Nhờ thế, ruộng nhà cố Cửu Hạnh ngày một nhiều lên còn ruộng của ông nội tôi ngày càng ít đi. Ngày ba tôi bị đày ở ngục Kon Tum, 1930-1935, ông nội tôi cũng đã phải bán đi rất nhiều ruộng để vào thăm nuôi. Rồi sau 1940, bác Bắc trai và ba tôi lại vào Sài Gòn và Căm pu chia hoạt động cách mạng, thì ông nội tôi đã phải dâng cho người khác hàng chục mẫu ruộng để lấy tiền cho bác Bắc và ba tôi xài tại Sài Gòn, Đồng Nai, Phnompenh và nhiều nơi khác nữa. Ông nội tôi lại có tính hay thương người. Những người ở giúp việc của ông nội ai lấy vợ, lấy chồng ông cũng tặng ruộng và làm nhà riêng cho. Năm 1950, ông nội còn là người đã hiến ruộng cho chính phủ nhiều nhất nhì huyện Thanh Hà nữa. Bởi vậy đến CCRĐ thì ruộng của ông nội tôi chỉ còn vỏn vẹn 4 mẫu nhưng phải phát canh thu tô vì ông không thuê người làm được nữa. Thóc tô thu được không đủ để đóng thuế nông nghiệp nên cuối năm 1953, còn 5 gian nhà lớn ông nội cũng phải bán nốt để lấy tiền nộp thuế thay thóc. Ông bà nội sau đó đã phải vào ở gian nhà ngang cạnh chuồng trâu. Nhà bác Bắc và nhà mẹ tôi còn giữ được cái nhà để ở nhưng thóc lúa cũng đã đóng thuế nông nghiệp và thoái tô hết sạch rồi nên đều đang lâm vào cảnh thiếu đói.
Loại người giàu thứ ba trong xóm tôi là những gia đình trồng chè trên núi. Mấy năm vừa rồi họ đã giàu phất lên. Đó là nhà Chưởng Tuyên, Tuần Dật, Trịnh Vượng, Thọ Bút, Vịnh Điệng, Nguyên Nhờn… Mỗi nhà họ có hàng chục sào chè trên núi nhưng đội cải cách không biết vì không phải là ruộng có giấy tờ khai thuế nông nghiệp rõ ràng. Hơn nữa ở trên núi cao thì chẳng ai vào đó mà kiểm đếm được. Tuy họ có rất ít ruộng, đều là thành phần bần nông thôi, nhưng nhờ chè mà họ có rất nhiều tiền và vì vậy họ rất giàu. Chính vì giàu nên họ rất sợ đội cải cách sẽ quy họ là địa chủ. Bởi thế những gia đình này đã trở thành những cốt cán đắc lực của đội CCRĐ từ nuôi ăn, nuôi ở, cung cấp tiền bạc đến giúp đội vạch lá tìm sâu tố cáo người này, người nọ thành địa chủ để khỏi liên can đến họ. Chẳng hạn vốn liếng của bác Bắc tôi chưa chắc đã bằng một phần mười của Chưởng Tuyên, nhưng hắn là người đã to mồm tố cáo bác Bắc tôi nhiều nhất trong các cuộc đấu tố hằng đêm. Ngoài ra bọn nhà giàu làm chè này gần như mù chữ, con cái cũng chỉ biết quần quật kiếm tiền thôi chứ chỉ học biết đọc biết viết rồi bỏ vào núi làm chè cả. Chính vì thế mà bọn họ rất đố kỵ với nhà cố Cửu Hạnh và nhà ông bà nội tôi, tuy ngày nay không giàu bằng chúng nhưng xét về mặt văn hóa thì đúng là một trời một vực!
Tôi nhớ ngày ba tôi đang là ủy viên thường vụ tỉnh ủy tỉnh Thanh Hóa mỗi lần về quê có cả cận vệ đi theo nên Chưởng Tuyên nhìn theo ba tôi vừa thèm muốn vừa ghen tỵ. Nhưng hắn sợ ba tôi và bác Bắc tôi lắm. Bác Bắc tôi làm việc trên tỉnh nên mỗi lần về xã công tác, bọn Chưởng Tuyên, Tuần Dật, Vịnh Điệng,…cứ khép nép gặp bác tôi đâu cũng “thưa anh, thưa anh” trông tội nghiệp lắm. Nay bác Bắc tôi bị đội cải cách đưa ra đấu tố thì chúng hởi lòng hởi dạ cố tìm mọi cách dựng chuyện tố điêu để làm hại bác Bắc tôi đến chết. Có qua thử thách CCRĐ mới thấy rõ được cái bản chất đố kỵ, ích kỷ, nhỏ nhen và độc ác của bè lũ nông dân trọc phú vô học này.
Sau đây, tôi xin thuật lại vài cuộc đấu tố địa chủ mà tôi đã được tận mắt chứng kiến.
Tối hôm đó, tôi đã theo mẹ tôi ra sân đấu để xem cuộc đấu tố ông nội tôi. Ông nội tôi sau một năm trời đi ăn mày, nay gầy gò lắm. Kể từ ngày về bên ngoại, tối hôm đó tôi mới được tận mắt thấy lại ông nội. Hai dân quân đã xô ông nội tôi ngồi bệt xuống một góc sân trông như một xác chết, mắt ông lờ đờ, hai tay ôm lấy gối bỗng giật nẩy mình bởi tiếng thét của ông đội trưởng:
- Địa chủ Đặng Đình Báu! Ba hôm nay các cốt cán chuỗi rễ vì thương mày đau yếu nên không lên đấu tố mày chứ không phải vì mày vô tội đâu nhé! Hôm nay mày hãy dỏng tai lên, mở mắt ra mà nghe xem mày mắc những tội gì nhé! Tiếp theo xin mời cốt cán Chưởng lên đấu!
- Địa chủ Đặng Đình Báu! Mày có biết tao là ai không? Mày còn nhớ năm 1932 khi tao đi ở cày ruộng cho mày, đêm nào mày và vợ mày cũng bàn nhau chuyện bán ruộng cho Cửu Hạnh để lấy tiền tiếp tế cho thằng Trung đang theo bọn quốc dân đảng phản động tại Kon Tum, mày có nhớ không, hả? Rồi năm 1940, mày lại bán ruộng để cấp tiền cho cả thằng Bắc và thằng Trung vào tận Sài Gòn để hoạt động trong tổ chức quốc dân đảng phản động tại Nam Kỳ, chắc mày còn nhớ chứ? Mày tưởng bấy lâu nay, thằng Trung và thằng Bắc con của mày theo bọn quốc dân đảng phản động dưới danh nghĩa tỉnh ủy viên CS để phá hoại cách mạng từ bên trong mà che được mắt của đồng bào sao? Mày hãy thành khẩn nhận tội đi để được cụ Hồ khoan hồng, hoặc là mày sẽ bị xử tử đó! Chọn đi!
- Dạ, con biết ông là Chưởng rồi ạ! Đội xử tử con cũng được nhưng ông nói sai thì con không thể nào nhận được ạ! Các con của con dù phải chết chúng cũng chỉ đi theo cụ Hồ và cách mạng thôi, chứ không bao giờ đi theo bọn quốc dân đảng phản động đâu ạ!
- Đã đảo địa chủ Báu cường hào gian ác ngoan cố! Hồ chủ tịch muôn năm! Mao chủ tịch muôn năm!
Chưởng Tuyên tự hô khẩu hiệu rồi xấn tại cầm râu ông nội tôi giật mạnh làm ông tôi ngã sóng soài ra đất. Không phải chỉ mình mẹ tôi mà rất nhiều người dự cuộc đấu hôm ấy đều vén áo lên lau nước mắt. Trong lúc hai dân quân đang đỡ ông nội tôi ngồi dậy thì ông đội trưởng lại dõng dạc gọi tiếp:
- Mời cốt cán Kỳ lên đấu!
Cháu Kỳ người Văn Yên có cha mẹ bị chết đói năm 1945, đi ở cày ruộng cho ông nội tôi được 5 năm thì ông nội tôi đã cưới vợ, làm nhà và cho hai sào ruộng để làm vốn. Nhưng tay này tham của, được ông đội trưởng hứa sẽ cho cái chuồng trâu nối liền gian bếp bằng gỗ lim của ông nội tôi làm quả thực nên hắn đã lên đấu rất hùng hổ:
- Địa chủ Đặng Đình Báu! Mày có biết tao là ai không? Mày có biết mày đã bóc lột tao bao nhiêu năm không, hả? Mày có biết năm 1945 chỉ vì bọn địa chủ bóc lột khốn nạn như mày mà hơn hai triệu người đã chết đói trong đó có cả cha mẹ tao không, hả? Vậy mà sau đó mày còn giở trò đạo đức giả làm nhà và cưới vợ cho tao. Đó là một tội ác tày trời, mày có biết không? Con cháu của tao sẽ đời đời khắc ghi tội ác này của mày, mày rõ chưa?
- Dạ, con chỉ làm theo lời Phật dạy thôi ạ! Ông nội tôi thều thào trả lời.
Sau khi Cháu Kỳ đấu xong nhiều tiếng khóc thút thít đã bật lên từ phía cuối sân. Vì phải có tới gần một chục gia đình trong xóm tôi đã bị ông nội tôi “giở trò đạo đức giả” như thế nên họ đã không cầm được nước mắt khi thấy ông nội tôi đang sắp đến ngày gần đất xa trời vào lúc này. Nhưng ngạc nhiên nhất là lời tuyên bố của ông đội trưởng Đỗ Chí Thẹo:
- Địa chủ Đặng Đình Báu đã phạm trọng tội là đã nuôi nấng và tiếp tế cho bọn quốc dân đảng phản động. Nhưng vì tuổi già sức yếu nên đội tạm cho về nhà nằm nghỉ. Lúc nào địa chủ Báu khỏe lại, mời bà con lại tiếp tục đấu tố nó hăng hái hơn nữa. Bà con hãy học tập cách đấu tố của cốt cán Chưởng, vừa có lý vừa có sức mạnh, bà con rõ chưa?
Tôi thở phào nhẹ nhõm chạy lại ôm chầm lấy ông nội sau tám tháng trời xa ông. Nhưng ông chưa kịp nhận ra tôi thì hai dân quân đã xô tôi ra để cho anh hai con bác Bắc cõng ông tôi về nhà. Tôi cứ vừa đi theo sau vừa khóc thút thít. Mẹ tôi nói, ông nội đã bị bắt giam hai tuần nay rồi. Bác Bắc trai và cố Cửu Hạnh cũng bị bắt giam nhưng riêng mẹ tôi do có con nhỏ nên được ở nhà.
Sáng hôm sau, mẹ tôi bảo tôi mang cháo sang cho ông nội lúc còn tờ mờ sáng. Bà nội thấy tôi đã từ Can Lộc trở về thì mừng lắm nhưng không hỏi chuyện được vì sợ làm ông tỉnh giấc. Đêm qua về nhà, ông nội cứ nằm bất động như thế vì vừa mệt vừa buồn ngủ. Tôi khẽ sờ vào đôi chân gầy guộc của ông nội và tự hỏi, không hiểu ngày xưa làm sao ông đã có thể cõng được tôi trên lưng đi qua một đoạn đường khá dài bị ngập lụt trên đôi chân gầy guộc này? Phải chi ông nội là một ông Bụt trong các chuyện cổ tích mà ông đã từng kể cho tôi nghe?
Rồi cũng sáng hôm đó mẹ tôi mới kể lại cho tôi nghe về các cuộc đấu tố cố Cửu Hạnh, bác Bắc trai, ông nội tôi vào những hôm tôi còn ở Can Lộc chưa về. Mẹ tôi nói, “Buồn tẻ nhất là các buổi đấu tố ông nội con mấy hôm đầu. Ông chỉ ngồi bệt ngủ gật ở góc sân vì không có ai lên đấu cả. Đêm qua mới có người lên đấu ông nội chắc là ông đội trưởng đã bắt họ phải diễn tập nhiều buổi và hứa chia nhiều quả thực nên Chưởng Tuyên, Cháu Kỳ mới hùng hổ như thế đó, con ạ!” Khi đó tôi mới tò mò hỏi mẹ tôi:
- Thế cố Cửu Hạnh đâu mà tối qua con chỉ thấy bác Bắc trai thôi, thưa mẹ?
- Khác với ông nội và bác Bắc trai của các con, cố Cửu Hạnh chỉ bị đấu tố hai đêm thôi. Đêm đầu, khi cốt cán lên đấu cố, dù đúng dù sai cố cũng đều nhận là “người có tội để được hưởng chính sách khoan hồng của cụ Hồ” như lời ông đội đã hứa. Do đó, các buổi đấu tố cố Cửu đã không gây căng thẳng, thậm chí mọi người còn thương cố. Có người tố cố đã nhiều lần góp tiền và vàng ủng hộ bọn Việt Minh quốc dân đảng phản động trước năm 1945, cố cũng nhận “con có tội”. Có người tố cố đã cho thợ cày ăn gạo hẩm với mắm thối, việc này do bà Cửu gây ra nhưng bà Cửu đã chết lâu rồi nên cố cũng nhận là “con có tội”. Có người tố cố đã mời lính Khố Xanh về trông coi ruộng lúa vào năm đói 1945 và đã đánh đập người cắt trộm lúa, việc này cũng do bà Cửu gây ra vì dịp đó cố Cửu đi vắng, nhưng cố cũng nhận là “con có tội”. Tuần Dật, Chưởng Tuyên, Vịnh Điệng… còn đặt điều dựng chuyện cho cố nhiều tội nữa như hiếp dâm, đánh người ở, cho vay nặng lãi…nhưng cố không cãi mà đều nhận là “con có tội”. Cố làm như thế nên những cốt cán lên đấu cố để được chia quả thực cũng phấn khởi, mà ông đội trưởng cũng rất tự hào là “cuộc đấu tố địa chủ Hạnh đã rất thành công”. Cố Cửu Hạnh còn phải trải qua một cuộc đấu xã vào ban ngày nữa, nhưng mọi việc vẫn được diễn lại như buổi đấu đầu tiên. Cuối buổi đấu cố Cửu Hạnh đó, ông đội trưởng đã tuyên dương cố Cửu Hạnh như sau: “Địa chủ Đặng Văn Hạnh là người đã thấm nhuần chính sách CCRĐ của bác Hồ, thật đáng làm gương cho nhiều địa chủ còn ngoan cố khác. Các tội trạng mà địa chủ Hạnh đã nhận tuy rất nghiêm trọng nhưng xét sự thành khẩn của địa chủ Hạnh là đáng hoan nghênh nên chắc chắn rồi đây địa chủ Hạnh sẽ được hưởng chính sách khoan hồng của bác Hồ!” Thấy ông đội trưởng nói thế nên mẹ đã rất mừng cho cố Cửu, con ạ.
Mẹ tôi lại từ từ kể tiếp: “Khác với cố Cửu Hạnh, các buổi đấu tố bác Bắc trai vô cùng căng thẳng. Bác Bắc đã không chịu nhận bất cứ lời vu cáo nào của bọn Chưởng Tuyên, Thọ Bút, Vịnh Điệng, Nguyên Nhờn, Văn Cơ, Chắt Điểu, Tuần Dật… đã cố dựng ngược lên cho bác Bắc trai. Buổi đấu tố nào bác Bắc cũng bị chúng đánh vào mạng sườn ngã lăn ra đất, đạp vào mặt chảy máu mồm máu mũi hoặc bị giật hết cả tóc trên đầu làm bác ngất lên ngất xuống. Nhưng lần nào bác cũng chỉ nói: “Những tội mà các cốt cán vừa tố, con không hề làm, nên con không thể nhận được ạ! Ông đội trưởng có thể xử tử con, nhưng con nguyện suốt đời chỉ đi theo Hồ chủ tịch chứ không bao giờ đi theo bọn quốc dân đảng phản động như các cốt cán đã tố con đâu ạ!” Và lần nào kết thúc các buổi đấu tố bác Bắc trai cũng là những trận đòn đánh hội đồng của các cốt cán kết hợp với những tiếng hô đanh thép: Đã đảo địa chủ phản động Đặng Đình Bắc ngoan cố! Kiên quyết xử bắn Đặng Đình Bắc để làm gương cho nhiều tên phản động còn ngoan cố khác!”
Mẹ tôi cứ rỉ rã kể chuyện đấu tố mà quên là trời đã gần trưa. Lúc đó, mẹ bảo tôi vào bếp nhóm củi thổi cơm, rồi bà vừa nhặt rau vừa kể tiếp cho tôi nghe:
- Hôm đấu tố bác Chắt Hoàn con cố Cửu Hạnh cũng rất nhẹ nhàng. Bác Chắt Hoàn chủ yếu làm nghề thợ may, hay lấy rẻ cho mọi người nên ai cũng yêu quý bác. Chỉ có cốt cán Phượng và vài cốt cán khác đang nhìn vào cái nhà và cái máy khâu của bác Chắt Hoàn để mong được chia quả thực nên mới lên tố điêu cho bác Chắt Hoàn một số tội, nhưng bác đã thành khẩn nhận “con có tội” nên hai buổi đấu xóm và đấu xã của bác Chắt Hoàn cũng đã kết thúc không căng thẳng.
- Thế người ta đã đấu tố mẹ như thế nào sao không thấy mẹ kể cho con nghe?
- Mẹ đã bị thằng An con Nguyên Nhờn đập gẫy hai cái răng cửa mà con không nhận ra à? Những người từng ăn ở trong nhà mình ai cũng thương mẹ nên không ai lên đấu cả. Thằng An con Nguyên Nhờn mới 17 tuổi lên tố mẹ đã thu tô nhà nó gấp đôi tô nhà khác trong khi thực tế nhà nó luôn khất tô không chịu nộp. Vừa tức Nguyên Nhờn đã không chịu nộp tô để mẹ đóng thuế nông nghiệp, nay lại còn cho thằng ranh con này lên vu cáo mẹ nên mẹ đã uất quá hét lên: “Thằng ranh con kia! Tại sao cha mày chưa chịu nộp tô mà mày lại dám dựng chuyện lên như thế, hả?” Thế là mẹ bị nó đấm một quả trời giáng thẳng vào mồm làm gẫy mất hai cái răng cửa, máu chảy lênh láng, làm mẹ phải nằm nhà mất mấy hôm. Không hiểu sao từ hôm đó chưa thấy ông đội bắt mẹ ra đấu tiếp.
Chiều muộn hôm đó tự nhiên thấy bác Chắt Hoàn con cố Cửu Hạnh vào gặp mẹ tôi. Tuy cùng họ nhưng cố Cửu Hạnh là cửa trên, ông nội tôi cửa dưới nên chúng tôi phải gọi các con cố Cửu Hạnh bằng bác. Chưa kịp ngồi uống nước đã thấy bác Chắt Hoàn nói với mẹ tôi tha thiết như van:
- Tôi lạy thím, thím đừng cãi chúng nó nữa! Thím cãi bọn vô học đó thì được cái gì mà để chúng đánh đau rồi lăn ra ốm thì 5 thằng con còn nhỏ dại kia ai sẽ nuôi cho thím, hả? Tôi nghe nói, tối nay chúng lại lôi thím ra đấu xã đó. Thím phải cố gắng nhẫn nhịn hết mức nếu có thể để còn sống được mà nuôi các con, bởi vì chú Trung còn phải đi cải tạo biết bao giờ mới về? Thím hãy nghe lời tôi một lần này đi! Tôi đã phải liều mạng đến đây để gặp thím cũng vì thương 5 đứa trẻ con nhà thím còn nhỏ dại đó, thím Trung ạ!
Vừa nói xong, bác Chắt Hoàn đã vội chui bờ rào về thẳng nhà vì sợ bọn dân quân bắt được. Quả nhiên tối đó mẹ tôi đã bị lôi ra đấu xã ở trụ sở xóm Kỳ Nam bên cạnh. Đầu tiên thấy Vịnh Điệng sừng sộ bước lên:
- Địa chủ Võ Thị Thanh! Mày có biết tao là ai không? Mày có nhớ năm ngoái mày đã bán cho tao một con nghé, nhưng hai tháng sau nó đã bị ngã xuống khe núi chết rữa ra rồi mời tìm được xác không? Như vậy là mày đã biết, trước sau con nghé này cũng sẽ chết nên mày đã lừa bán cho tao. Sau khi con nghé đó chết tao vào đòi mày trả lại tiền, mày đã không trả mà còn đổ lỗi cho tao đã không biết trông giữ con nghé đó cẩn thận, mày có nhận tội không, hả?
Biết Vịnh Điệng đã tố bậy nhưng nhớ lại lời bác Chắt Hoàn, mẹ tôi chỉ cúi mặt xuống rồi tấm tức khóc mà không cãi lại nó. Lúc đó Chưởng Tuyên mới hằm hằm bước lên:
- Địa chủ Võ Thị Thanh! Mày là một con địa chủ gái gian ngoan. Bao nhiêu năm nay mày đi chợ buôn bán vải để lấy tiền nuôi chồng mày, thằng Trung đi hoạt động cho bọn quốc dân đảng phản động ở Thanh Hóa, mày có nhận tội không? Chồng mày còn làm tới chức ủy viên thường vụ tỉnh ủy quốc dân đảng phản động tại Thanh Hóa, mỗi lần về quê nó còn mang theo một tên quốc dân đảng đi theo để bảo vệ, mày còn gì để chối cãi nữa không? Nhờ ảnh hưởng của chồng, mày còn tham gia vào tổ chức quốc dân đảng phản động tại xã ta để phá hoại cuộc kháng chiến của bác Hồ nữa. Mày có nhận tội không hay là muốn để tao bẻ gẫy nốt những cái răng còn lại của mày đây?
Lần này mẹ tôi cũng lại cúi gằm mặt xuống khóc chứ không nói gì cả nên đã không bị chúng đánh. Cuối cùng ông đội trưởng nói:
- Bà con hãy yên tâm, im lặng là sự đồng ý! Như vậy là nó đã nhận tội. Các cốt cán khác còn ai định lên đấu nữa không, xin mời lên tiếp tục!
Chờ mãi không thấy ai lên đấu tố nữa nên buổi đấu xã của mẹ tôi đã kết thúc. Anh em chúng tôi dìu mẹ tôi về trong lòng đầy cảm kích về những lời khuyên chân tình của bác Chắt Hoàn đối với mẹ tôi hồi chiều. Chúng tôi biết nếu như không có những lời khuyên đó thì không biết bây giờ mẹ tôi sẽ như thế nào. Bởi vì tính mẹ tôi giống hệt tính cụ Võ Liêm Sơn, luôn cương trực trước mọi bạo quyền.
Sau các cuộc đấu tố kéo dài đó, cố Cửu Hạnh vẫn bị tạm giam tại nhà Thái Thiêm để chờ tòa CCRĐ tuyên án. Bác Bắc trai vì không chịu nhận tội nên còn bị tạm giam trong xóm để còn đấu tố tiếp. Bác Chắt Hoàn do đã thành khẩn nhận tội và không bị ai tố là quốc dân đảng phản động nên đã không bị tạm giam. Trong xã tôi đến lúc đó còn nhiều địa chủ khác chưa bị đấu xã nên vẫn bị tạm giam trong xóm hoặc quản thúc tại nhà. Những người ấy rất lo lắng trong đó có bác Phó Hằng và cố Chắt Khả ở Kỳ Nam, cố Thơ Diễn ở Kỳ Bắc, cố Tổng Hội, cố Tổng Cầu và ông Lan Phương ở Vân Trình, cố Cửu Duy ở Phái Đông, ông Bẹp Đậu và cố Cửu Lý ở Phái Nam, ông Ới Nhâm và bác Cu Minh ở Phái Thượng, ông Bẹp Sung ở La Xá, ông Chắt Thẹ ở Tiền Ngọa và nhiều địa chủ khác nữa ở rải rác các xóm mà đến nay tôi không còn nhớ rõ tên nữa.
3- Một cuộc xử bắn kinh hoàng và những vụ tự tử tang thương.
Tin địa chủ Đặng Văn Hạnh là “người đã thấm nhuần chính sách CCRĐ của Hồ chủ tịch và sẽ được hưởng chính sách khoan hồng của bác Hồ” đã được ông đội trưởng đội CCRĐ của xã tuyên truyền tới khắp các thôn xóm trong toàn xã. Vì cố Cửu Hạnh học rộng, tài cao lại từng là một thầy giáo đức độ nên việc cố Cửu đã “thành khẩn ký vào biên bản nhận tội để được hưởng chính sách khoan hồng của bác Hồ” loan đi đã làm xao lòng nhiều địa chủ còn “ngoan cố không chịu nhận tội” trong các cuộc đấu tố vừa qua ở các xóm khác.
Thêm một tin vui là sau gần 30 ngày bị tạm giam tại nhà Thái Thiêm, cố Cửu Hạnh đã gửi một lá thư về cho bác Bẹp Huỳnh gái và bốn đứa cháu nội mồ côi cha của cố. Trong lá thư đó có đoạn cố đã viết: “Ông bị tạm giam nhưng đã được đối xử rất tử tế, ăn no và đầy đủ thức ăn. Nay có lẽ ông đã lên được vài cân rồi. Mẹ Bẹp ở nhà không phải lo cho ông mà hãy cố gắng chăm sóc lấy các con để chờ ngày cha con, ông cháu được đoàn tụ với nhau nhé!” Bác Bẹp Huỳnh trai, con trai cả của cố mất năm 1950 đã để lại người vợ trẻ và bốn đứa con gái còn nhỏ tuổi. Tội nghiệp nhất là Út Nịu mới vừa tròn 5 tuổi, ngày cha mất còn nằm ngữa trong nôi. Cái tin cố Cửu Hạnh biên thư về cũng đã được ông đội trưởng loan đi toàn xã. Ai cũng mừng cho cố Cửu Hạnh, một người ông nội hiền lành, tốt bụng và đã rất mực yêu thương các cháu nội mồ côi của mình. Vì chơi thân với bác Bẹp Huỳnh gái nên mẹ tôi cũng rất mừng khi được đọc lá thư của cố Cửu gửi về.
Thêm vào đó, các ông đội phụ trách các xóm còn rỉ vào tai bà con rằng “địa chủ Đặng Đình Bắc do ngoan cố không chịu nhận tội nên có thể sẽ bị xử bắn ngay trong phiên xử án đầu tiên” đã làm cố Tổng Hội là bố đẻ của bác Bắc gái hoang mang cực độ. Cố Tổng Hội là một đảng viên 1930 do được sự phân công của tổ chức nên cố đã đứng ra nhận làm cai tổng để bảo vệ tổ chức đảng. Mấy đợt đấu xóm vừa qua, cố Tổng đã bị các cốt cán tố “địa chủ Phan Đình Hội là một tên cai tổng phục vụ ý đồ đen tối của bọn quốc dân đảng phản động” nhưng cố đã kiên quyết không nhận tội đó. Nay thấy người con rể yêu dấu của mình có thể sẽ bị xử bắn nên cố vừa thương vừa sợ. Thế là trong cuộc đấu xã gần đây nhất, cố Tổng Hội đã theo gương cố Cửu Hạnh nhận hết những “tội trạng” mà ông đội trưởng đã xui các cốt cán lên đấu mình để “được hưởng chính sách khoan hồng của bác Hồ”. Sau khi cố Tổng Hội đã nhận tội thì lần lượt những địa chủ ở các xóm khác như cố Cửu Duy, ông Ới Nhâm, cố Thơ Diễn, cố Chắt Khả, ông Bẹp Sung, ông Lan Phương, cố Tổng Cầu, bác Cu Minh, ông Chắt Thẹ, ông Bẹp Đậu, cố Cửu Lý… đã lần lượt nhận là “con có tội” trong các cuộc đấu xã vừa xẩy ra gần đây nhất.
Đặc biệt hôm 24 tháng Tám âm lịch vừa rồi có vụ đấu xã đối với bác Phó Hằng mới bị đôn lên địa chủ hơn chục ngày nay. Bác Phó Hằng là bác họ của tôi vốn là con nhà nông chất phác. Nhờ cần cù lao động và biết căn cơ tiết kiệm nên năm ngoái gia đình bác mới cất được một ngôi nhà rất đẹp. Nhưng tất cả của cải, ruộng đất, nhà cửa của bác ấy đều do con cháu trong nhà tự tay làm ra chứ chưa thuê mướn bóc lột một nông dân nào khác. Khi bị đưa ra đấu xã vào một buổi chiều ngay trước mắt tôi, Bẹp Phụng đã vu cho bác Phó Hằng là “tay sai đắc lực của tên quốc dân đảng phản động Đặng Đình Bắc”, vì Bẹp Phụng muốn chiếm được ngôi nhà của bác ấy làm quả thực. Với tinh thần “nhận tội đi để được bác Hồ khoan hồng” nên dù bị Bẹp Phụng tố điêu tố láo, bác Phó Hằng vẫn nhận là “con có tội”. Hôm ấy Bẹp Phụng cứ cầm lọn tóc của bác Phó Hằng kéo bác sấp mặt xuống đất rồi đấm tới tấp vào gáy bác ấy. Đó là do bác Phó đã ngoan ngoãn nhận tội chứ nếu không thì có lẽ đã bị Bẹp Phụng đánh bác chết tươi ngay tại sân đấu hôm đó rồi!
Và cái ngày định mệnh của những người dân lương thiện trên chốn quê nghèo Đức Lâm thân thương của tôi xưa nay vốn bình yên đã đến. Sáng sớm ngày 28 tháng Tám năm Ất Mùi, tức ngày 13/10/1955, mẹ tôi gọi chúng tôi dậy rất sớm ăn khoai luộc mà mẹ tôi đã luộc sẵn từ tối hôm trước để cả nhà cùng kéo nhau xuống Đình Eo tập trung xem xử án. Tại đó, theo lời ông đội trưởng, bà con sẽ được nghe tòa án nhân dân đặc biệt xã Đức Lâm xử một tên địa chủ đầu sõ vô cùng nguy hiểm của xã mình. Trên đường đi, mẹ tôi và bác Bắc gái cứ ứa lệ nhìn nhau như hai bà đã đoán biết được số phận của bác Bắc trai hôm nay sẽ được định đoạt trong phiên xử này.
Đến sân Đình Eo, tôi đã choáng ngợp bởi có tới mấy ngàn người của xã tôi và các xã lân cận đến dự. Gần bốn chục gia đình địa chủ trong xã đã được ông đội trưởng “ưu tiên” cho ngồi lên hai hàng đầu để được nhìn rõ hơn. Bác Bắc gái và mẹ tôi còn dùng khăn đen che mặt để người ngoài không biết là hai bà đang khóc. Hai chị con gái bác Bắc cứ ôm chặt lấy mẹ vì sợ bà sẽ bị ngất, còn mẹ tôi thì ôm thằng con út 3 tuổi của bà vào lòng như đang tiếp cho nó thêm lòng can đảm. Các gia đình bác Bẹp Huỳnh và bác Chắt Hoàn con cố Cửu Hạnh cũng yên lặng ngồi bên cạnh chúng tôi như để thể hiện sự cảm thông và sẻ chia cùng bác Bắc gái của tôi. Riêng cái Út Nịu mới 5 tuổi, đứa cháu nội mồ côi thân thương nhất của cố Cửu Hạnh thì vẫn hồn nhiên chạy nhảy trước mặt mọi người như một con chim vàng anh đang bay nhảy dưới cái nắng thu vàng rực rỡ.
Ngay trước mặt chúng tôi là một cái lễ đài mới được dựng lên để ông chánh tòa và bồi thẩm đoàn ngồi trên hai hàng ghế phía sau hai cái bàn lớn đặt kề nhau. Phía sau lưng hàng ghế ông chánh tòa ngồi là một cái phông bằng vải màu xanh xi lâm của Trung Quốc, có một dòng chữ thật lớn: TÒA ÁN NHÂN DÂN ĐẶC BIỆT XÃ ĐỨC LÂM. Phía trên hàng chữ đó là các bức ảnh lãnh tụ như Các Mác, Ăng Ghen, Lê Nin, Hồ Chí Minh, Mao Trạch Đông, Bun Ga Nin, Kim Nhật Thành… được treo khá trang trọng. Phía trên hàng ảnh các vị lãnh tụ là hai lá cờ lớn: cờ đỏ sao vàng và cờ đỏ búa liềm. Còn ở ngay góc lễ đài có một hàng cọc tre chôn xuống đất quây tròn lại như một cái cũi chó lớn, mẹ tôi nói, đó là vành móng ngựa. Trời ơi, bác Bắc trai yêu dấu của tôi sắp sửa sẽ phải đứng trong cái cũi chó này ư? Rồi bỗng nhiên nước mắt tôi giàn dụa làm mẹ tôi phải cầm lấy tay tôi giật giật: “Hãy can đảm lên con trai!”
Đúng 8 giờ sáng, bồi thẩm đoàn lần lượt bước ra lễ đài. Bỗng hàng ngàn người đứng vụt dậy rồi hô to khẩu hiệu theo lời hô của một ai đó: “Nhiệt liệt chào mừng buổi xử án đầu tiên của tòa án nhân dân đặc biệt xã Đức Lâm!” Tiếp theo là một người trong đám đông đứng lên hô lớn:
- Đã đảo tên quốc dân đảng phản động Đặng Đình Bắc ngoan cố! Kiên quyết bắt địa chủ Đặng Đình Bắc phải đền tội! Hồ chủ tịch muôn năm! Mao chủ tịch muôn năm!
Hàng ngàn tiếng hô “Đã đảo!”, “Kiên quyết!” và “Muôn năm!” cứ thế được nhắc đi nhắc lại như vỡ bờ lan sang cả huyện Cẩm Xuyên ngay bên kia sông Vịnh Lại. Rồi chủ tịch xã Hòa Xờ, một cố nông mù chữ trăm phần trăm, từ ngày được cử làm chủ tịch xã chỉ biết ký mỗi chữ “Xờ”, bước lên lễ đài nói mấy câu đã được học thuộc lòng:
- Hôm nay, được sự đồng ý của Đoàn ủy CCRĐ và đoàn cố vấn Trung Quốc, tòa án nhân dân đặc biệt xã Đức Lâm sẽ mở phiên tòa xét xử một tên địa chủ đầu sỏ vô cùng nguy hiểm. Bây giờ, xin kính mời tất cả bà con đứng dậy để chúng ta làm lễ chào cờ.
Sau khi làm lễ chào cờ và hát quốc ca xong thì ông đội trưởng đã bước lên tự giới thiệu:
- Kính thưa toàn thể đồng bào! Tòa án nhân dân đặc biệt xã Đức Lâm đã được thành lập ngày 1/10/1955 theo quyết định số 23 của đoàn ủy CCRĐ huyện Thanh Hà do ông Nguyễn Văn Ẻm, một cán bộ của đoàn ủy CCRĐ cử xuống làm chánh tòa, bà Bùi Thị Mẹc làm thẩm phán, bà Đặng thị Mùi làm thư ký phiên tòa, ông Đặng Hữu Điệng là đại diện của hội thẩm nhân dân và tôi đội trưởng Đỗ Chí Thẹo làm phó chánh tòa xin được bắt đầu làm việc. Thưa bà con, bồi thẩm đoàn chúng tôi đã xem xét hàng ngàn trang hồ sơ, lời khai và chữ ký của gần bốn chục tên địa chủ phản động của xã ta. Các phiên tòa sẽ được mở lần lượt từ hôm nay đến ngày 7/11/1955 để xét xử tội trạng của các tên địa chủ phản động đầu sỏ theo thứ tự các xóm Kỳ Trung, Kỳ Nam, Kỳ Bắc, La Xá, Tiền Ngọa, Phái Đông, Phái Nam, Phái Thượng và Vân Trình. Trong phiên xử đầu tiên này, tòa sẽ xét xử tội trạng của các địa chủ đầu sỏ xóm Kỳ Trung. Trước tiên, xin mời dân quân giải tên Đặng Đình Bắc ra trước vành móng ngựa!
Từ giữa sân, Chưởng Tuyên bỗng đứng vụt dậy hô lớn: “Đã đảo địa chủ đầu sỏ Đặng Đình Bắc ngoan cố! Kiên quyết bắt tên địa chủ đầu sỏ Đặng Đình Bắc phải đền tội!” Sau khi nghe ông đội trưởng tuyên bố và các câu khẩu hiệu của Chưởng Tuyên vừa hô, bác Bắc gái đã ngất xỉu trong vòng tay của hai cô con gái. Còn mẹ tôi thì bặm môi căm uất nhìn lên lễ đài, nơi bác Bắc trai đang bị hai dân quân lôi ra trước cái vành móng ngựa hình cũi chó đó. Bác Bắc trai yếu quá không tự đứng được nữa mà phải dùng hai tay bám chặt vào hai cái cọc tre của vành móng ngựa để đứng. Từ lễ đài quay xuống nhìn hàng ngàn người dân đang hướng về phía bác Bắc trai tôi, phó chánh tòa Đỗ Chí Thẹo dõng dạc nói:
- Thưa bà con, địa chủ Đặng Đình Bắc, sinh năm 1906 tại xóm Kỳ Trung, xã Đức Lâm, huyện Thanh Hà là một tên quốc dân đảng phản động cực kỳ nguy hiểm. Hơn hai tháng trời trải qua 12 cuộc đấu xóm, liên xóm và 3 cuộc đấu xã, các cốt cán đã vạch trần các tội trạng rành rành mà nó vẫn ngoan cố không chịu nhận tội. Để bảo vệ sự tồn vong của chế độ và sự nghiêm minh của luật CCRĐ do bác Hồ đã ký ban hành, phiên tòa hôm nay sẽ xét xử tên Đặng Đình Bắc với tội danh cao nhất.
Tôi đang bàng hoàng nghe đội trưởng kiêm phó chánh tòa Đỗ Chí Thẹo nói thì chợt thấy chánh tòa Nguyễn Văn Ẻm cầm một tờ giấy gì đó đưa cho Thẹo xem. Đỗ Chí Thẹo đang vùng vằng có vẻ bực mình thì Nguyễn Văn Ẻm đã bố cáo trước toàn thể bà con:
- Kính thưa bà con! Tôi vừa nhận được bức điện này từ đoàn ủy CCRĐ của huyện Thanh Hà gửi xuống. Bức điện nói đại ý, theo chỉ thị của các cố vấn Trung Quốc, bị cáo Đặng Đình Bắc từng là một cán bộ của huyện ủy Thanh Hà và là tỉnh ủy viên của tỉnh ủy Hà Tĩnh. Vì vậy, đoàn ủy CCRĐ của huyện Thanh Hà sẽ phải xét xử tên Đặng Đình Bắc trong phiên tòa sắp tới của tòa án nhân dân đặc biệt của huyện nhà để làm gương cho bọn quốc dân đảng phản động còn ngoan cố trong toàn huyện. Đến hôm xét xử bị cáo Đặng Đình Bắc, chúng tôi sẽ thông báo ngày giờ và địa điểm cụ thể để mời bà con xã ta đến dự. Tiếp theo phiên tòa hôm nay, tòa sẽ tiến hành xét xử bị cáo Đặng Văn Hạnh.
Nguyễn Văn Ẻm vừa nói xong thì đã thấy hai dân quân lúc nãy dìu bác Bắc trai xuống ngồi cùng với hơn 30 các địa chủ khác cũng đã bị triệu tập đến để xem buổi xử án. Một lát sau mới thấy hai dân quân khác dẫn cố Cửu Hạnh bước ra trước vành móng ngựa.
Khác với bác Bắc trai tôi xanh xao gầy gò, đứng trước vành móng ngựa là một cố Cửu Hạnh đỏ da thắm thịt đang bình thản nhìn về phía chúng tôi như đang dõi tìm ai đó. Bỗng cái Út Nịu gọi lớn: “Ông nội ơi! Cháu đây này!” Rồi nó òa lên khóc làm cố Cửu cũng không cầm được nước mắt. Cả ngàn người trên sân bỗng im bặt nhìn cụ già 73 tuổi quắc thước khỏe mạnh, vừng trán rộng mênh mông, tóc hoa râm râu dài trông như một ông tiên đang vẫy tay chào bà con trong xã và nhiều người trong xã cũng đã vẫy tay thân ái chào lại cố. Một cụ già nhân hậu đã dạy dỗ cho nhiều thế hệ con em trong xã biết chữ quốc ngữ, biết yêu thương đùm bọc lẫn nhau, biết cả về tướng số thiên văn địa lý…Cố Cửu Hạnh đang như là hiện thân cho những gì được gọi là văn minh nhất trong xã Đức Lâm của tôi. Tôi đang nghĩ lan man như thế thì bỗng bị tiếng chánh tòa Nguyễn Văn Ẻm ngắt quảng:
- Sau đây, xin mời thẩm phán Bùi Thị Mẹc lên đọc bản cáo trạng về bị cáo Đặng Văn Hạnh!
Bùi Thị Mẹc là một cốt cán đã học xong lớp ba bổ túc văn hóa, người Phái Nam chưa có chồng và có quan hệ rất thân thiết với đội trưởng Đỗ Chí Thẹo. Trong rất nhiều cuộc đấu tố địa chủ do đội trưởng Thẹo chủ trì, Mẹc thường được đi theo làm thư ký để ghi lại các lời tố cáo của các cốt cán và lời nhận tội của các địa chủ. Vì vậy, Mẹc nắm rất vững hồ sơ vụ án của cố Cửu Hạnh. Bùi Thị Mẹc cầm một tờ giấy đã viết sẵn rồi từ từ đọc:
- Bị cáo Đặng Văn Hạnh sinh năm 1883, nguyên quán xóm Kỳ Trung, xã Đức Lâm, huyện Thanh Hà. Qua các buổi đấu tố ở xóm và ở xã, bị cáo Đặng Văn Hạnh đã thừa nhận bằng văn bản có chữ ký tự xác nhận đã phạm các tội trạng nghiêm trọng xin được tóm tắt như sau. Một là: trước năm 1945, bị cáo Hạnh đã nhiều lần tiếp tế tiền, vàng và lương thực cho bọn quốc dân đảng phản động trong xã đứng đầu là tên đầu sỏ Đặng Đình Bắc. Hai là: năm đói 1945, bị cáo Hạnh đã mời lính Khố Xanh của chính quyền cũ về canh lúa và đã đánh đập một số người bị đói cắt trộm lúa của Hạnh. Ba là: bị cáo Hạnh đã làm giàu bất chính bằng cách cho vay nặng lãi và bóc lột người ở thậm tệ. Ngoài ra, bị cáo Hạnh còn thừa nhận đã phạm nhiều tội trạng khác nữa. Vậy chúng tôi đề nghị bị cáo Đặng Văn Hạnh phải chịu mức án tương xứng với các tội trạng mà bị cáo đã phạm!
Mẹc cũng đã có một thời làm con ở trong nhà cố Cửu, nên khi nghe thẩm phán Bùi Thị Mẹc đọc bản cáo trạng về các tội của mình, cố Cửu Hạnh trông vẫn bình tĩnh vì có lẽ cố đã nghĩ là thế nào mình cũng sẽ được hưởng chính sách khoan hồng của Hồ chủ tịch. Nhưng đến khi nghe chánh tòa Nguyễn Văn Ẻm tuyên án: “Đặng Văn Hạnh bị tòa kết án tử hình và bản án phải được thi hành ngay lập tức!” thì cố đã thất thần ngữa mặt lên trời như một con nai con bị sập bẫy đang ngơ ngác nhìn trăng kêu cứu. Hàng ngàn cặp mắt của người đến dự phiên tòa trên sân Đình Eo hôm ấy cũng ngơ ngác nhìn lên trời vì không còn tin vào tai mình nữa! Một số người đã đau đớn buột miệng thốt lên: “Trời ơi, sao lại xử tử một thầy giáo già nhân từ và đức độ như thế!”
Trong khi các con, các cháu ruột của cố Cửu Hạnh chưa kịp hiểu chuyện gì vừa xảy ra thì đã thấy các dân quân lôi ngay cố ra trói vào một cái cột gỗ đã chôn sẵn dưới chân Rú Trò cạnh lối lên chùa Tịnh Lâm và bịt mắt cố lại. Ngay tiếp sau là hai phát súng kinh hoàng nổ “Đoàng! Đoàng!” làm ngực cố phun trào máu và óc trên đầu cố phọt ra ngoài tung tóe! Đến lúc đó những người ruột thịt của cố mới hiểu rằng, người cha và người ông thân yêu của họ đã vĩnh viễn không còn ở trên cõi đời này nữa! Rồi ngay tức khắc, các dân quân cởi dây trói ra khỏi cột và kéo lê xác cố Cửu Hạnh vòng theo chân Rú Trò chừng 100m và đạp xác cố xuống một cái hố đất đã được đào sẵn bên chân rú. Nãy giờ cái Út Nịu đang nằm thiu thiu trong lòng mẹ thì sau khi nghe tiếng súng nổ, nó mới choàng tỉnh dậy ngơ ngác nhìn lên lễ đài nhưng chẳng thấy ông nội mình đâu nữa! Nó vùng dậy chạy lao đi tìm ông nội trong tiếng gào khóc thê thảm của một bé gái mới đầy 5 tuổi:
- Ông nội ơi! Ông nội đi đâu rồi? Ông hãy về nhà với cháu, ông nội ơi!
Tiếng gào khóc thảm thiết của Út Nịu như xé ruột, xé gan mọi người nhưng cũng vì thế mà tất cả chúng tôi đã không một ai dám khóc để chị Vinh con gái lớn của bác Bắc dỗ Út Nịu: “Ông nội của em đã được các chú dân quân đưa về nhà rồi! Hãy lại đây để chị cõng em về nhà thật nhanh may còn kịp gặp ông nội của em đó! Ông đang đợi em ở nhà mà, Út Nịu ơi!” Nói rồi, Út Nịu đã được chị Vinh cõng về nhà trước.
Không ai có thể ngờ rằng, cuộc xử án đã diễn ra nhanh như thế! Từ lúc cố Cửu Hạnh bước ra trước vành móng ngựa để nghe tuyên án đến lúc xác cố bị đạp xuống hố sâu chỉ xẩy ra chưa đầy 15 phút. Mười lăm phút kinh hoàng đó đã ám ảnh ký ức tuổi thơ của tôi suốt cả cuộc đời này! Út Nịu ơi, sáu mươi năm đã trôi qua rồi nên anh dù muốn cũng không thể nào dỗ em được nữa! Nhưng anh chỉ biết chắc một điều rằng, ông nội của em, ông nội thân yêu của chúng ta đã không chết mà ông vẫn còn mãi ở trên cõi Niết Bàn, vẫn đang dõi theo chúng ta từng bước đi và sẽ luôn phù hộ cho chúng ta, em ạ!
Trưa hôm ấy, các dân quân đã áp giải mẹ tôi, bác Bắc gái, bác Bẹp Huỳnh, bác Chắt Hoàn cùng bọn trẻ con chúng tôi về đến tận nhà. Đang vừa đói vừa buồn, tôi và cậu em út trêu nhau rồi vô ý tôi đã xô ngã em trai làm vỡ cái nồi đất duy nhất còn lại của mẹ tôi. Toàn bộ tài sản của gia đình tôi sáng hôm đó đi xem xử án cũng đã bị đội cải cách niêm phong hết rồi! Không còn cái nồi đất nấu khoai cũng đồng nghĩa với việc trưa nay cả nhà tôi sẽ phải nhịn đói. Lúc mẹ tôi đang nằm khóc vật vã ở đống rơm đun bếp thì chợt thấy bác Bẹp Huỳnh dắt cái Út Nịu đến để chơi với cậu em trai út của tôi vì hai đứa thân nhau như chị em ruột. Tôi còn nhớ ngày mẹ tôi sinh con út lại là trai, bác Bẹp Huỳnh đã nài nỉ: “Thím Trung ơi, nhà thím 5 đứa con đều trai, nhà tôi lại 4 đứa toàn gái. Tôi muốn thím đổi cho tôi thằng út lấy cái Út Nịu về nuôi để cả hai nhà đều có nếp có tẻ, được không thím?” Mẹ tôi cũng đồng ý nhưng vì em út của tôi mới sinh đang cần sữa mẹ nên mẹ tôi đã nói: “Có đổi thì cũng để chúng lớn thêm chút đã!” Mẹ tôi thương bác Bẹp Huỳnh lắm vì bác trai đã mất sớm nên đã không nỡ từ chối bác ấy. Bấy giờ, Út Nịu đã nín khóc vì nó nghĩ ông nội nó đã trở lại trại giam rồi, nên hai chị em chúng lại chơi vui vẻ như chưa có chuyện gì đã xẩy ra. Mấy phút sau, bác Bẹp Huỳnh đã mang đến cho mẹ tôi một cái nồi đất còn mới và nửa giờ sau bữa khoai trưa sau một buổi sáng tang tóc kinh hoàng cũng đã diễn ra.
Lúc cả nhà tôi đang ăn khoai thì bỗng thấy một thằng bé gầy giơ xương đang đứng ngơ ngác trước cửa bếp. Nhìn một lúc mẹ tôi mới nhận ra được em Tư của tôi rồi khóc òa lên:
- Ôi thằng Tư! Sao con lại đến nông nỗi này, hả con?
Lúc đó cả nhà mới nói cho tôi hay, em Tư của tôi đã đi ở chăn bò cho dì dượng Lan Phương ở Vân Trình được 8 tháng rồi, hôm nay mới được trở về nhà lần đầu. Rồi em Tư vừa trệu trạo nhai khoai vừa kể, em đã phải nhịn đói 3 ngày nay vì phải đưa bò sang Rú Trò trú tạm vì ở Vân Trình nước lụt lên ngập cả nhà. Ban đêm em Tư phải ngủ nhờ ngoài hiên chùa Tịnh Lâm nhưng không có cái gì để ăn cả vì các sư, các tiểu của nhà chùa cũng đã bị đội cải cách đuổi về quê hai tháng nay rồi! Sáng nay nước lụt đã rút hết, em mới dắt bò về Vân Trình thì nhà dì dượng Lan Phương cũng đã bị niêm phong hết rồi! Không còn gì để ăn nữa, nên dì Lan mới cho em Tư về nhà.
Tôi và em Tư gặp lại nhau sau 8 tháng trời cách xa nhau mừng mừng tủi tủi. Tôi tưởng, tôi ở Can Lộc đã khổ nào ngờ em Tư tôi ở với dì dượng Lan còn khổ cực hơn nhiều. Dượng Lan chỉ lo chắt bóp làm giàu chứ không lúc nào dám cho con cho cháu ăn một bữa cơm độn khoai no bụng cả. Dượng Lan xuất thân con nhà nghèo, ít ruộng lại cần cù lao động không thuê mướn bóc lột ai, nhưng đội CCRĐ đã nghe lời mấy cốt cán tham quả thực cố quy cho dượng là địa chủ phản động để chiếm nhà và tài sản của dượng. Nay dượng đã bị đấu tố mấy buổi rồi, nhà cửa tài sản đã bị niêm phong để tịch thu. “Chắc chắn nếu địa chủ Lan Phương không bị bắn thì cũng phải đi tù mọt gông”, ông đội trưởng đã tuyên bố như thế trong cuộc đấu xã đầu tiên khi dượng Lan ngoan cố không chịu nhận tội. Nhưng nghe nói nay dượng Lan đã nhận “con có tội” rồi thì không biết sẽ ra sao?
Đêm hôm đó tôi cùng em Tư ngủ trên nóc chuồng trâu. Trong giấc ngủ chập chờn, chẳng hiểu sao tôi toàn gặp ác mộng. Không biết có phải vì hai con trâu nhà mình đã vừa bị nông dân dắt đi không? Hay vì vụ xử bắn cố Cửu Hạnh sáng nay quá kinh hoàng, khiến tôi vừa chợp mắt được mươi phút là lại ú ớ kêu la hốt hoảng. Trong những cơn ác mộng đó, lần nào tôi cũng thấy các cánh đồng của xã tôi nhung nhúc những bầy quạ đen bay dáo dác, kêu “quà, quà…” rầm trời. Rồi tôi quyết định không ngủ nữa mà chỉ nằm yên để cho em trai tôi được yên giấc ngủ ngon sau ba ngày đêm em đã phải nhịn đói nhịn khát và mất ngủ. Nhưng chưa đến tảng sáng thì bỗng bên nhà bác Bắc đã có tiếng khóc thất thanh:
- Cha ơi! Sao cha đã nỡ bỏ chúng con đi! Cha ơi là cha ơi!
Tôi hốt hoảng chui bờ rào sang thì đã thấy bác Bắc gái đang vừa gào khóc vừa lăn lộn giữa sân. Hỏi ra mới biết, con cậu Cháu Thiều vừa lên cho biết, cố Tổng Hội, cha đẻ của bác Bắc gái và bà Nhạc vợ kế của cố vừa treo cổ tự tử đêm qua rồi! Con cậu Cháu Thiều còn mang lên một bức thư tuyệt mệnh của cố gửi cho con rể nữa. Trong thư tuyệt mệnh để lại, cố đã viết: “Bắc ơi, việc con kiên quyết không nhận những tội mà mình đã không làm là hoàn toàn đúng, con ạ! Cha bắt chước người khác nhận tội để được hưởng chính sách khoan hồng của cụ Hồ là sai thật rồi! Cha biết, đằng nào thì cũng sẽ phải chết nên cha đã quyết định tự chết chứ quyết không để cho bọn dối trá dơ bẩn đó bắn vào người mình, các con ạ! Vĩnh biệt các con! Ở dưới suối vàng, cha sẽ mãi mãi phù hộ cho các con!” Lúc đó, tôi thấy mẹ tôi đang ôm lấy bác Bắc gái và đang vừa cho bác ấy uống nước đường vừa dỗ: “Chị khóc bé thôi kẻo dân quân lại kéo đến bây giờ đấy, chị Bắc ạ!”
Chờ mãi trời mới sáng hẳn nhưng cái không khí thanh bình của của một buổi bình minh cuối thu hôm nay đã được thay thế bằng các tin chết chóc! Nhìn ra ngoài đường chỉ thấy mọi người đang dáo dác chạy ngược chạy xuôi loan tin: “Hai vợ chồng cố Tổng Hội đã treo cổ tự tử rồi!”, “Ông Ới Nhâm đã tự vẫn dưới sông rồi!”, “Ông Bẹp Sung đã tự cắt máu tay chết rồi!”, “Cố Tổng Cầu cũng đã tự vẫn rồi!”, “Cố Cửu Duy cũng đã tự treo cổ rồi!”, “Cố Cửu Lý cũng đã bị chết đuối rồi!” Và hai vụ tự tử khác nữa nhưng tôi không còn nhớ rõ họ tên của người bị chết nữa!
Vì đã qua 60 năm nên tôi không thể nào nhớ hết được tên của những người ở xã tôi đã tự tử thành công vào cái đêm 28 tháng 8 năm Ất Mùi ấy. Nhưng tôi nhớ chính xác là đã có 9 người tất cả. Lý do cũng rất đơn giản, vì tất cả họ đều đã trót nhận “con có tội” và đã ký tên vào các hồ sơ đấu tố mà nay ông đội trưởng Đỗ Chí Thẹo đang giữ. Một cố Cửu Hạnh hiền lành đức độ và có nhiều đóng góp cho làng cho xã mà còn bị hành hình một cách dã man như thế thì những người khác làm sao có thể thoát được tội chết khi trong hồ sơ đã tự ký xác nhận những tội trạng tày trời mà mình đã bị các cốt cán dựng lên qua các buổi đấu xã đó?
Từ hôm ấy đến cả tháng sau, trên các cánh đồng làng của xã tôi thay cho những tiếng hát yêu đời và vô tư của trẻ chăn trâu là “dàn hợp xướng của những bầy quạ đen” cất tiếng hát “quà…quà!” du dương suốt cả ngày lẫn đêm qua đủ mọi cung bậc trầm bổng của bản giao hưởng tử thần để ngợi ca bác Hồ Chí Minh kính yêu và công cuộc CCRĐ vĩ đại của người. Bởi nhờ chính sách khoan hồng của bác Hồ và vỏn vẹn 2 viên đạn mà chỉ trong một ngày một đêm đã hạ gục được 10 tên địa chủ đầu sỏ đã nhân tội của xã tôi mà không mang tiếng ác! Nếu căn cứ vào chỉ tiêu của các cố vấn Trung Quốc đã đặt ra là trung bình mỗi xã phải tử hình tối thiểu 5 tên địa chủ, thì xã tôi đã vượt gấp đôi chỉ tiêu rồi! Nhờ sự hi sinh cao cả của các cố ấy mà bác Bắc tôi và nhiều địa chủ khác trong các phiên tòa sau không còn ai bị xử tử hình nữa mà chỉ bị đi tù tại trại giam Cầu Đông hay Trại Đưng mà thôi.
Sau cái đêm kinh hoàng ấy, đội trưởng Đỗ Chí Thẹo đã bị khiển trách và phải chuyển sang xã khác vì đã để lọt lưới mất mấy tên đầu sỏ lẽ ra phải chịu án tử hình, do Thẹo đã chủ quan để cho 9 địa chủ phản động ấy tự tử nhằm trốn tránh sự trừng phạt của pháp luật.
4- Những ngày tôi phải đi ăn xin và tiễn đưa ông nội về cõi Phật.
Sau cuộc xử bắn kinh hoàng và 9 vụ tự tử thương tâm xẩy ra trên quê nội Đức Lâm, nhà mẹ tôi và các nhà địa chủ khác của xóm tôi đã bị niêm phong toàn bộ. Chúng tôi không còn khoai khô hay gạo để nấu cháo nữa, cũng không còn giường chiếu để nằm ngủ mà tất cả 5 anh em tôi cùng mẹ phải chui vào ổ rơm trong bếp hoặc nóc chuồng trâu để nằm ngủ. Trưa hôm đó, mẹ tôi nói với cả 5 anh em tôi:
- Văn ơi, ông nội từ hôm bị giam trở về nhà đến giờ yếu lắm, không tự đi ăn xin được nữa. Con hãy cùng thằng Tư đi xin ăn để hỗ trợ cho ông bà nội nhé. Mẹ sợ ông bà nội sẽ chết đói mất, các con ạ! Còn thằng cả và thằng hai thì vào rừng hái củi mang ra chợ bán để lấy tiền mua khoai mua gạo giúp mẹ. Mẹ chỉ biết trông cậy vào các con thôi!
Chiều hôm đó, tôi đã dẫn em Tư sang thăm ông bà nội. Bà nội thì ngày càng yếu, nằm một chỗ vì què chân không đi lại được nữa. Còn ông nội thì nay xanh xao gầy gò hơn trước rất nhiều. Chỉ còn một mình bà cô tàn tật, cô Khương là người chăm sóc bà nội suốt cả đêm ngày. Bà nội vừa thấy tôi và em Tư bước vào đã khóc thổn thức:
- Các cháu ơi, tội do ông bà nội đã gây ra mà bắt các cháu phải chịu khổ như thế, các cháu hãy tha lỗi cho ông bà nhé! Tình hình dì dượng Lan và bà con Vân Trình như thế nào, cháu Tư hãy kể cho ông bà nghe đi!
- Thưa ông bà nội! Ở dưới Vân Trình dì dượng Lan cũng đã bị quy địa chủ, nhà cửa bị niêm phong hết cả rồi ạ. Hôm qua cố Cửu bị bắn thì đêm qua, ông bà cố Tổng Hội có lẽ do sợ quá nên cũng đã thắt cổ tự tử rồi, ông bà ạ!
Bà nội nghe tin ông bà thông gia ở Vân Trình đã thắt cổ tự tử thì bàng hoàng như nghe tin trời sập đã không cầm được nước mắt, còn ông nội thì đau đớn cầm lấy tay bà nội:
- Tội nghiệp cố Cửu Hạnh hiền lành đức độ mà đã phải chết thê thảm như thế! Nay lại cố Tổng Hội, một người khỏe như lực sĩ, tinh thần của cố bền bỉ hơn cả sắt thép. Vậy mà đêm qua cố đã phải tự tử thì chứng tỏ tình hình đã xấu lắm rồi, bà ạ. Thương thằng Bắc đang bị tạm giam không về chịu tang bố vợ nó được, à mà chắc gì đội cải cách đã cho đi. Nghe nói hôm qua khi họ chôn cố Cửu Hạnh, con cháu cố cũng có được lại gần đâu. Lát nữa cháu Văn sang xem bác Bắc gái thế nào rồi quay trở sang đây cho ông bà biết nhé!
Chúng tôi vâng dạ rồi chào ông bà nội ra về. Ông nội còn ngó trước ngó sau xem có ai theo dõi không rồi mới quay vào. Nhà bác Bắc cũng đã bị niêm phong, cả nhà phải dồn xuống ở trong nhà ngang và gian bếp. Tôi từ cửa bếp lẻn vào thì thấy bác Bắc gái đang ngồi ăn cháo, mặt mày sưng húp chắc vì đã khóc quá nhiều. Tôi nói: “Thưa bác, ông bà nội đang rất lo lắng cho bác, bác có nhắn gì ông bà nội không để cháu trở sang báo cho ông bà biết ạ!”. Bác Bắc gái nói:
- Lâu quá rồi, bác không sang thăm ông bà nội được. Ông nội đã đỡ chưa? Bà nội có nhúc nhắc đi lại được không? Cháu cầm hộ bác tô cháo này sang biếu ông bà nhé! Chuyện ông bà cố Tổng mất đau đớn như thế mà họ cũng không cho hai bác về chịu tang cháu ạ. Cháu nói với ông bà nội là, các anh các chị con bác đã về Vân Trình từ sáng sớm rồi.
Tôi quay lại nhà ông bà nội mang cháo của bác Bắc biếu ông bà và nói cho ông bà biết tình hình của bác Bắc gái như thế nào rồi vội chui dưới bờ tre quay về nhà vì sợ dân quân bắt được.
Từ hôm đó trở đi, tôi và em Tư chính thức mang bị gậy đi ăn mày. Trước hết chúng tôi lên Làng Điền, nơi ông bà nội tôi có nhiều người quen cũ mà ngày xưa tôi đã lên đó chơi cùng với ông nội nhiều lần rồi. Nhưng đến đâu người quen cũng tránh mặt anh em tôi, chỉ những nhà không quen biết họ mới cho người củ khoai, người nắm gạo. Đi long dòng như thế mấy ngày liền cũng chỉ xin được vừa đủ cho hai anh em tôi ăn thôi. Một lần chúng tôi lên tận làng Giáp Thượng gần núi. Tại đó chúng tôi đã đến nhà một người bà con mà năm trước bà nội tôi đã lên đó dự đám cưới ngủ lại rồi bị ngã què chân ấy. Người bà con đó đã gửi về cho bà nội tôi vài bò gạo, một mủng khoai khô và dặn tôi đừng đến nữa vì nhà họ cũng đang bị theo dõi gắt gao lắm. Tôi mừng quá về thẳng nhà ông bà nội để đưa cho ông bà cả gạo và khoai khô thì không ngờ lại được gặp bà Xuân Sơn đang ở thăm ông bà nội. Bà Xuân Sơn là con người chú ruột của bà nội tôi và là chị ruột của ông Chắt Cẩn bố đẻ Trần Quốc Hoàn. Lúc tôi đến thì bà Xuân đang nói chuyện với bà nội tôi:
- Hôm trước, thằng Hoàn về kiểm tra CCRĐ ở tỉnh mình có ghé nhà em chơi. Nó bảo tình hình còn căng thẳng lắm, còn nhiều người sẽ bị bắn và bị bắt giam nữa. Tôi có nói với nó: “Cô dượng Cửu Báu ở Đức Lâm đã từng mấy năm trời cưu mang cha mẹ và ba đứa em trai của cháu. Nay cháu là bộ trưởng bộ công an được gần gũi cụ Hồ, sao cháu không nói hộ với cụ một câu mà để cô dượng ấy phải đói khổ như thế?” Chị có biết thằng Hoàn nó đã nói sao không? Nó bảo: “Cô Xuân ơi! Sao cô giàu tình cảm như thế? Bọn địa chủ đã từng bóc lột tàn ác nông dân ta bao đời nay rồi, nay chúng nó phải trả giá là đúng chứ có oan ức gì đâu mà phải xin cụ Hồ, hả cô? Cháu nói với cụ nhỡ cụ giận rồi cách chức cháu và bắt cháu đi tù thì ai sẽ là người cứu cháu đây, thưa cô?” Nói xong thấy tôi khóc nấc lên, nó liền bỏ đi không kịp chào tôi nữa. Hình như nó cũng đang bị ai đó theo dõi thì phải, anh chị ạ.
Lúc đó bà nội tôi mới nói với bà Xuân:
- Năm 1952, mợ Chắt Cẩn mẹ thằng Hoàn đã bị ốm chết ở trên Cẩm Duệ, tôi và dì đã lên thăm. Bấy giờ thấy cậu Chắt Cẩn tội nghiệp quá tôi lại đón về nuôi. Dì nhắc lại chuyện vợ chồng tôi đã cưu mang cha mẹ và 3 đứa em của thằng Hoàn hồi 1950 để làm gì? Thằng Hoàn nó có được học hành đến nơi đến chốn đâu mà biết cái gì là phải, cái gì là trái, phải không dì? Hơn nữa với cương vị là bộ trưởng bộ công an nó cũng phải giữ chứ! Chỉ sơ sẩy một tý là mất chức ngay nhất là trong giai đoạn căng thẳng như lúc này.
Tôi bỗng nhớ lại những tháng ngày ông bà Chắt Cẩn và ba người em trai của chú Hoàn ở trong nhà ông bà nội tôi hồi năm 1950 ấy. Ông Chắt Cẩn rất hiền lành nhưng vụng về không lo được cho vợ con nên làm cả nhà đã bị lâm vào cảnh thiếu đói. Những năm 1949-1950, chú Hoàn lúc đó không biết đang làm việc gì ở Việt Bắc nên không giúp đỡ cha mẹ được. Thương ông bà Chắt Cẩn bị đói khát, ba người em trai của chú Hoàn không có việc làm nên ông bà nội tôi đã đón về nuôi một thời gian. Dạo đó tôi hay chơi thân với chú Tứ, người em út của chú Hoàn. Vì chú Tứ bị kém mắt, hơi méo mồm nên hay ở nhà chơi với tôi. Chú ấy rất hiền lành và vui tính nên thường bị chúng tôi trêu đùa cả ngày. Có lẽ vì vậy mà cho đến giờ trong tâm trí của tôi vẫn còn in đậm hình ảnh của một chàng trai tật nguyền chưa đầy 20 tuổi hồn nhiên ấy. Còn hai người em khác của chú Hoàn là chú An và chú Tịnh thì hay đi vắng nên tôi không còn nhớ rõ nữa. Ở nhà ông bà nội tôi một thời gian rồi ông bà nội tôi cùng bà Xuân đã giúp ông bà Chắt Cẩn lên làm nhà ở Cẩm Duệ để đan rá rổ bán cho đến ngày bà Chắt mất ông Chắt Cẩn mới chịu về xuôi.
Thế mà nay, ông bà nội tôi sắp chết đói vẫn không hề nhận được từ chú Hoàn một lời hỏi thăm, nói gì đến một củ khoai hay nửa bò gạo của chú ấy. Trách gì năm 1964 trước khi ra Hà Nội học đại học, ba tôi đã căn dặn: “Con ra đó tuyệt đối không được đến chơi nhà chú Hoàn!” Năm 1982, chú Nguyễn Mạnh Cầm đã đến tìm tôi tại Moscow dặn; “Chú Hoàn đang nghỉ mát ở Bulgaria, sang tới Sofia cháu hãy đến sứ quán Việt Nam nhờ chú Hoàn mang hộ quà về cho!” Nhưng nhớ tới lời ba tôi đã dặn nên tới Sofia, tôi cũng đã không đến gặp chú Hoàn như lời chú Nguyễn Mạnh Cầm đã dặn tôi tại Moscow.
Tôi và em Tư tiếp tục đi xin ăn ở các làng bên Lương đã nhẵn mặt mà chẳng được là bao nên một hôm chúng tôi đã rẽ vào một làng Công Giáo, ngay quê hương của Diễm Hạnh. Không ngờ chỉ trong một ngày mà chúng tôi đã xin được đầy một bị cả khoai khô và gạo. Chiều đến tôi về thẳng nhà ông bà nội trút gạo và khoai khô ra được một rá to, thì thấy bà nội nói khẽ vào tai tôi:
- Cháu hãy mang khoai và gạo này về cho mẹ để nuôi em út, bởi từ nay đã có bà Xuân cứ phiên chợ là gửi gạo và thức ăn lên hỗ trợ cho ông bà rồi. Đây, cháu hãy mang cả 2 con cá trích này về gỡ xương cho em cháu ăn kẻo nó chết vì đói thức ăn đó, cháu ạ!
Dù bà nội đã nói, đã khóc, rồi mắng nhưng tôi nhất định không chịu mang thứ gì về nhà mình cả. Cuối cùng bà nội mới nói:
- Thôi thì cứ coi là ông bà cho mẹ cháu vay vậy. Bao giờ ông bà nội cần thì mẹ cháu lại mang sang trả ông bà có được không? Ông ơi, ông hãy bảo các cháu một câu đi!
Ông nội tôi vuốt vào cái trán có sẹo của em Tư rồi âu yếm nói:
- Trời đã đánh dấu vào trán đứa cháu nội ngoan nhất của ông đây. Trong năm đứa con trai của mẹ cháu, có lẽ cháu sẽ là người nuôi mẹ cháu đến cuối cuộc đời này đấy, cháu Tư ạ! Hai cháu hãy nghe lời bà nội mang gạo và khoai về cho mẹ cháu để nuôi em út đã nhé!
Tôi không ngờ gần 12 năm sau, điều ông nội tôi nói hôm ấy là hoàn toàn đúng. Ngày 6/1/1967 em trai tôi đã ngã xuống trong khi làm nhiệm vụ tại đường 21, Tuyên Hóa, Quảng Bình. Từ đó trở đi mẹ tôi đã được nhận một khoản trợ cấp mẹ liệt sĩ, tuy ít ỏi nhưng tháng nào cũng được lĩnh cho đến ngày mẹ tôi nhắm mắt xuôi tay, năm 2007, 40 năm tròn kể ngày em trai tôi qua đời.
Những ngày tiếp theo, chúng tôi cứ tiếp tục đi xin ăn ở bên các xóm Công Giáo. Vì đội cải cách đã có lệnh cấm dân bên Lương tiếp tế cho con cháu địa chủ, nên mọi nơi chỉ tập trung sang xin ăn bên làng Công Giáo. Nhưng dân Công Giáo cũng nghèo, bị nhiều người xin ăn quá nên rồi cũng cạn kiệt. Có hôm hai anh em tôi đi suốt ngày mà cũng chỉ được vài mẩu sắn thôi. Một hôm trời mưa, trưa ngày chưa xin được gì thì em Tư bị cảm lạnh nằm ngất xỉu bên lề đường. Tôi đang hốt hoảng chưa biết cứu chữa em Tư thế nào thì có một bà già Công Giáo đi qua bảo tôi đưa em vào nhà bà ấy để đốt lửa sưởi. Sưởi lửa một lúc thấy em Tư tỉnh lại, bà ấy liền mang cháo ra cho hai anh em tôi ăn. Ăn xong bát cháo em Tư tôi đã tươi tỉnh trở lại. Hỏi ra mới hay, bà già này cũng là một người quen cũ của mẹ tôi. Sau khi hỏi thăm hoàn cảnh của mẹ tôi hiện nay, bà ấy liền nói: “Thôi một cháu ở lại chăn bò cho ông bà cũng được, ông bà sẽ nuôi ăn nuôi mặc miễn là phải ngoan!” Tôi cám ơn bà ấy và nói: “Thưa bà, chúng cháu phải về xin phép mẹ cháu đã ạ!”
Một tuần sau, khi em Tư đã thực sự khỏe, tôi đã đưa em Tư sang chào ông bà nội để lên đi chăn bò cho ông bà Công Giáo ấy. Đó là nhà ông bà cố Đạm ở Làng Đông, một làng Công Giáo toàn tòng có một ngôi nhà thờ rất lớn và đẹp. Đau đớn thay, đó cũng là lần cuối cùng em Tư của tôi được ông nội tôi chúc phúc trước khi chia tay. Bởi chỉ gần hai tuần sau đó, ông nội tôi đã vĩnh viễn không còn ở trên cõi đời này nữa mà em Tư của tôi đã không về kịp để chịu tang!
Từ đó trở đi, tôi phải đi ăn xin một mình. Có hôm tôi vào tận các trang trại trong núi cao để ăn xin. Vào trong đó hiếm người nên có nhà muốn tôi ở lại chăn trâu cho họ nhưng rồi cũng chỉ được vài buổi là tôi đã bỏ về nhà vì buồn lắm. Về đến nhà, tôi sang thăm ông bà nội thấy ông nội ngày một yếu đi nhưng vẫn tỉnh táo như mọi ngày. Không hiểu sao lần này tôi đến thăm, ông nội lại âu yếm nói với tôi những lời tha thiết như thế:
- Lớn lên cháu hãy cố gắng học thật giỏi, cháu Văn nhé! Nếu cháu dốt toán thì học văn cũng được mà. Cháu mới bằng này tuổi đầu mà đã thuộc lòng được gần hết Truyện Kiều thì chứng tỏ cháu nội của ông cũng đâu phải dốt đến nỗi phải học đi học lại 3 năm lớp Một, phải không? Truyện Kiều tuyệt vời lắm cháu ạ. Làm sao cách đây tới gần 200 năm mà cụ Nguyễn Du đã tiên đoán được, năm Ất Mùi này, nhà bác Bắc của cháu sẽ phải chịu cảnh bị đội CCRĐ tịch thu mà cụ đã viết thế này: “Đầy nhà vang tiếng ruồi xanh/ Rụng rời khung dệt, tan tành gói may/ Đồ tế nhuyễn của riêng tây/ Sạch sành sanh vét cho đầy túi tham!” hả cháu? Hôm nhà bác Bắc bị cả trăm nông dân đến đập phá và khuân đi cả đồ thờ cúng, ông đã khóc, cháu có biết không? Cháu hãy học đi, chỉ học Truyện Kiều thôi cũng đã quá tốt rồi. Bởi đó là một kho tàng văn hóa vô giá, có học từ đời này sang kiếp khác vẫn chưa thể nào hiểu thấu hết được những ẩn ý mà cụ Nguyễn Du đã gửi gắm vào trong đó đâu, cháu ạ. Chỉ tiếc là cháu còn bé quá, nếu lớn hơn ông sẽ có thể giảng giải cho cháu thấu hiểu một số đoạn thâm thúy nhất trong Truyện Kiều, cháu có thích không? Vài hôm nữa lục ra, ông sẽ tặng cho cháu một quyển Truyện Kiều bằng chữ Nôm “Kim Vân Kiều Tân Tập” để mai kia cháu học. Bản chữ Nôm Truyện Kiều này ông đã mua ở Huế năm 1907, khi ông nội còn đang học ở trong Huế cùng với ông ngoại Võ Liêm Sơn của cháu đó.
- Ông nội ơi, cháu thích quyển sách đó lắm! Ông cho cháu ông nhé! Sau này nhất định cháu sẽ học chữ Nôm để đọc nó. Chỉ thuộc Truyện Kiều mà không hiểu thì buồn lắm ông ạ. Biết bao nhiêu lần cháu muốn được hỏi ông về Truyện Kiều mà không dám vì sợ ông lại mắng cháu chưa đủ lớn. Bởi vì các môn học ở trường như toán, chính tả cháu còn chưa học được đến nơi đến chốn mà lại đi hỏi những chuyện văn thơ không liên quan đến bài học thì cháu sợ sẽ bị ông đánh đòn. Ôi ước gì cháu lớn thật nhanh để được ông giảng về truyện Kiều cho cháu nghe! Đợi năm sau hay năm sau nữa có được không ông?
Hai ông cháu vừa nói đến đó thì bỗng thấy bà nội gọi tôi lại gần bảo: “Mẹ cháu còn gạo không nói với mẹ mang sang cho bà vay một ít vì nay không còn nguồn tiếp tế từ bà Xuân Sơn nữa! Bà Xuân vừa viết cho bà nội mấy dòng nhắn đây này: “Anh chị ơi, không hiểu sao hơn một tuần nay có một tay công an lúc nào cũng kè kè bên em, nên em muốn mua gạo và thức ăn gửi về cho chị mà nó cứ đi kèm và hỏi: “Bà mua các thứ này để làm gì? Bà định để tiếp tế cho bà chị địa chủ ở Đức Lâm có phải không? Bà không được phép làm vậy nữa đâu! Đây là lệnh từ cấp trên của cháu, mong bà hiểu cho!” Em hoảng quá! Chắc thằng Hoàn nó đã sai cấp dưới của nó làm vậy đấy! Thế thì hết cách rồi anh chị ạ! Em thương anh chị lắm mà bất lực! Mong anh chị tha tội cho em nhé!” Sau khi đọc xong lời nhắn của bà Xuân, tôi đã an ủi bà nội bằng một quyết định lớn: “Bà nội ơi, có một chủ trang trại người Công Giáo ở trong núi thuê cháu chăn trâu mà cháu đã bỏ về. Ngày mai cháu sẽ vào tiếp tục chăn trâu cho họ để họ cho vay gạo giúp ông bà nội. Cháu sẽ trả cho họ sau bằng công chăn trâu của cháu mà!” Sau khi nghe tôi nói thế, bà nội đã giàn dụa nước mắt: “Tội nghiệp cháu tôi quá!”
Đêm đó về, tôi đã xin phép mẹ tôi vào núi chăn trâu để vay gạo giúp ông bà nội. Mẹ tôi đồng ý ngay vì mẹ cũng có quen ông chủ trang trại đó mà. Sáng hôm sau, tôi và anh cả đã mang gạo sang cho bà và chào ông bà nội để tôi bắt đầu vào đi ở chăn trâu trong núi. Khi tôi lại gần chiếc giường bà nội đang nằm để chào bà thì bà đã nói khẽ vào tai tôi:
- Cháu không phải vào chốn rừng thiêng nước độc ấy nữa đâu, vì ông bà đã có gạo rồi. Đêm qua cô Bẹp Giáo của các cháu đã mang lên cho ông bà 5 cân gạo mới đây này. Ông nội dạo này yếu lắm nên đang rất cần cháu ở bên cạnh, cháu hãy lại với ông đi!
Một lát sau đã thấy bác Bắc trai chống gậy lò dò sang thăm ông bà nội làm cả nhà ngạc nhiên. Bác Bắc trai bấy giờ chỉ còn da bọc xương dò dẫm từng bước lại ngồi bên cạnh ông nội. Bác Bắc trai nói: “Sau cái vụ 9 ông tự tử trong đêm 28 tháng 8 âm lịch vừa rồi ấy, tay đội trưởng Đỗ Chí Thẹo đã bị cách chức và chuyển đi nơi khác, đội trưởng Dụ lên thay nên con mới được tạm tha về nhà, ba mẹ ạ. Họ quản thúc con tại gia cho đến ngày xử án xong nhưng chắc chắn con sẽ không bị sao đâu vì con vô tội, ba mẹ yên tâm nhé!” Trong khi bác Bắc trai nói chuyện với ông nội thì bà nội bảo tôi đỡ bà ngồi dậy để niệm: “Nam Mô A Di Đà Phật!” Rồi bà nội bảo tôi: “Lúc nào gặp chuyện vui hay buồn, cháu hãy nhớ niệm Phật như thế để được Đức Phật độ trì cho, nghe không cháu?”
Hôm ấy đã là ngày 15 tháng 9 năm Ất Mùi, bà nội bảo cô Khương nấu cơm gạo mới mà cô Bẹp Giáo, con gái út của bà vừa mang lên cho để mời bác Bắc ở lại ăn cơm. Cô Khương vừa bỏ gạo vào nồi thì đã thấy một đoàn nông dân do ông đội trưởng Dụ mới thay ông Thẹo dẫn đến và đọc lệnh tịch thu tài sản của ông bà nội tôi. Trong cái gian nhà ngang tuềnh toàng mà ông bà nội tôi đang nằm chỉ còn cái sập đựng thóc rỗng không, một cái tủ lớn đựng toàn sách và hai cỗ hậu sự bằng gỗ. Họ khênh cái sập và hai cỗ hậu sự ra trước sân rồi vào dỡ đống sách gồm mấy trăm quyển của ông tôi từ trong tủ vất ra ngoài sân để lấy cái tủ. Xong việc họ đổ dầu châm lửa đốt cả đống sách vô giá đó. May mà bác Bắc trai còn nài ông đội trưởng Dụ xin được mấy quyển sách thuốc Bắc bằng chữ Hán, còn bản chữ Nôm cuốn “Kim Vân Kiều Tân Tập” mà ông nội vừa hứa cho tôi đã nằm gọn dưới đống sách đang ngùn ngụt bốc cháy đó. Cuối cùng, mụ vợ Cháu Kỳ nhìn lên tường nhà thấy còn bức tranh chân dung mầu nước của ông nội tôi do họa sĩ Nguyễn Phan Chánh vẽ năm 1950, mụ cũng giật xuống gỡ ra để lấy cái khung kính. Còn bức tranh mầu nước của họa sĩ Nguyễn Phan Chánh thì đã bị mụ ném vào đống lửa, ông đội trưởng định nhặt lên khỏi đống lửa mà không kịp nữa. Tôi tiếc nhất là bức chân dung của ông nội, vì tôi đã được tận mắt ngồi xem cụ Chánh bắt ông nội tôi ngồi mẫu mấy ngày để vẽ. Trong lúc đó thì hàng mấy chục người khác cũng đã dỡ xong căn nhà bếp cùng với cái chuồng trâu của ông bà nội, để lại một khoảng đất trống từng chôn vùi biết bao nhiêu kỷ niệm êm đẹp của tuổi thơ tôi thuở còn ở với ông bà nội. Lạ kỳ thay, ông nội và bác Bắc trai tôi vẫn bình thản nhìn lũ “ruồi xanh” vơ vét “cho đầy túi tham” mà không hề có vẻ gì là bực tức cả. Trước khi ra về, ông đội trưởng Dụ còn bảo mấy nông dân khênh giả ông bà nội tôi hai cỗ hậu sự vào trong nhà. Sau khi đội trưởng Dụ đã đi khỏi, ông nội mới nói cho bác Bắc biết, tay Dụ này là con trai một ông thầy thuốc Bắc bạn của ông nội tôi từ nhiều năm nay. 
Thấy cuốn “Kim Vân Kiều Tân Tập” mà ông nội hứa cho tôi đã cháy rụi, tôi buồn quá vừa khóc vừa chạy về nhà thì nhà mẹ tôi cũng đã bị “sạch sành sanh vét cho đầy túi tham” rồi! Lúc về đến sân, tôi vẫn còn thấy hai người nông dân gánh hai gánh bát đĩa sứ của Tàu thời Nhà Minh từ đời các cụ Bá để lại ra khỏi nhà. Còn ở trong nhà thì thấy mụ Tiu Bạng đang tra khảo mẹ tôi: “Cái áo bông mới mua năm ngoái nay mày cất giấu nó ở đâu, hả?” Mẹ tôi đang ấp úng thì mụ Nguyên Tứ con Nguyên Nhờn đã tìm được cái áo bông đã bị mẹ tôi giấu rất kỹ sau cái cánh cửa nhà xí khi họ phá dỡ cái nhà ngang cùng với chuồng trâu của mẹ tôi. Thôi thế là cái nóc chuồng trâu, nơi tôi đã từng mơ “Giấc Mơ Thiên Đường Tuổi Thơ Tôi” giờ cũng đã bị dỡ nốt đi rồi! May mà căn nhà chính của gia đình tôi lụp xụp quá nên ông đội trưởng Dụ đã nói với những người đi cướp quả thực rằng: “Thôi để cho họ còn có nơi chui ra chui vào nữa chứ!” Nhưng đau đớn nhất là khi thấy gần một ngàn quyển sách tiếng Pháp, tiếng Hoa cùng các cuốn sách giáo khoa và tiểu thuyết tiếng Việt in từ thời Pháp thuộc của ba tôi đã bị tưới dầu đốt cháy rừng rực giữa sân. Ông đội trưởng Dụ nói như thanh minh: “Đốt sách là một chủ trương nhất quán từ trung ương nên chúng tôi không thể nào làm khác được!”
Những ngày tiếp theo ông nội tôi cứ thế yếu dần mặc dù bác Bắc trai đã săn sóc ông nội rất chu đáo. Và vào khoảng 4 giờ sáng ngày 19 tháng 9 năm Ất Mùi ấy, chúng tôi đang ngủ say giấc thì cô Khương sang tận nhà tôi vừa khóc vừa gọi: “Mẹ con nhà Trung ơi, dậy sang chào ông nội ngay! Ông sắp đi rồi!” Mẹ tôi bế em út cùng anh cả, anh hai và tôi chạy sang thì đã thấy ông nội đang nằm trên một cái chõng tre, hai chân duỗi thẳng, hai tay để lên bụng. Ông không nói được nữa, nhưng hai mắt ông vẫn mở và ứa lệ nhìn tất cả chúng tôi. Đến khi thấy bác Bắc trai lại gần vuốt vào ngực thì mắt ông nội mới từ từ nhắm lại, thở dốc ra lúc đầu rất mạnh nhưng cứ yếu dần, yếu dần. Cái điếu thuốc lá cuộn đã cháy hết còn dính trên môi ông. Có lẽ lúc đó khoảng hơn 5 giờ sáng, nhìn ra sân đã thấy sáng lờ mờ. Lúc đã đông đủ con cháu cả hai gia đình mẹ tôi và gia đình bác Bắc, cô Khương mới từ từ kể lại trong nước mắt:
- Tối qua, ông nội kêu mệt nên đi nằm rất sớm. Mới hơn 8 giờ tối đã nghe ông ngáy “o…o…” Sáng nay khoảng hơn hai giờ sáng đã thấy ông dậy thắp đèn và thái thuốc lá cuộn rồi quấn một điếu thuốc châm lửa hút. Sau đó ông mới gọi tôi dậy bảo, hâm nóng cháo lên cho ông ăn. Trong khi tôi nhóm lửa hâm cháo thì thấy ông lấy quần áo sạch ra thay. Ông ăn hết với một bát cháo, uống một chén nước vối nóng rồi lại quấn thêm một điếu thuốc cuộn nữa vừa châm lửa hút vừa bảo tôi: “Con gọi nhà Bắc, nhà Trung sang đây ngay cho cha!” Nhưng vì phải dò dẫm đường sang cả hai nhà trong đêm tối nên vừa về đến nơi thì ai ngờ ông đã đi nằm rồi!
Lúc đó bà nội tôi mới vừa lau nước mắt vừa lên tiếng:
- Có lẽ ông chờ lâu chưa thấy đứa nào sang nên bà mới nghe ông đã ú ớ gọi ai đó rồi nằm xuống. Mẹ không dậy được mà chỉ nằm đây hỏi ông: “Ông gọi ai thế?” Nhưng không thấy ông trả lời nên mẹ cứ tưởng như mọi khi, ông đã nằm ngủ lại. Bây giờ thì ông đã ra đi thật rồi! Các con, các cháu đừng khóc mà hãy niệm “Nam Mô A Di Đà Phật!” để cho ông nội ra đi được thênh thản nhé!
Tất cả chúng tôi vâng lời bà nội ai cũng niệm “Nam Mô A Di Đà Phật!” lầm rầm rất khẽ để người ngoài không ai nghe thấy. Mãi gần trưa, ông đội trưởng Dụ mới biết tin ông nội tôi đã qua đời. Ông đến một mình thắp một nén nhang vái ông nội tôi rồi bảo: “Anh Bắc cho người đi đào huyệt cho ông đi. Bây giờ phải làm lễ nhập quan cho ông ngay để đêm nay, sau 9 giờ tối sẽ đưa ma. Cả nhà phải nhớ là không ai được khóc đâu nhé!”
Đêm hôm đó trời không mưa. Trăng lên muộn đúng vừa lúc chúng tôi đưa tiễn ông nội ra nghĩa trang thì mọc. Cả nghĩa trang im lìm nghe dàn đồng ca của họ hàng nhà dế cất tiếng đều đều như một dàn kèn đồng tý hon hòa cùng lời niệm rất khẽ “Nam Mô A Di Đà Phật!” của chúng tôi đang đưa tiễn linh hồn ông nội lên cõi Niết Bàn vào đêm 19 tháng 9 năm Ất Mùi thương nhớ ấy!
Đi sau quan tài ông, tôi cứ nguyện cầu ông nội ở cõi Niết Bàn hãy phù hộ để cho bà nội còn sống thêm được vài năm nữa với cháu con! Nhưng vì vừa đói vừa rét, bà nội của tôi cũng đã đi theo ông nội về cõi Phật vào ngày 9 tháng Chạp, năm Ất Mùi ấy. Ông nội hưởng thọ 69 tuổi còn bà vừa chẵn 70. Có lẽ cho đến lúc nhắm mắt xuôi tay, tôi vẫn cứ thầm muốn nói với bà nội một câu: “Bà nội ơi! Hôm ấy vì cháu đã đi ở chăn trâu cho người ta ở xa nên không biết bà nội ra đi để về đưa tiễn bà. Kính mong bà nội ở cõi Niết Bàn hãy tha tội cho cháu! Nam Mô A Di Đà Phật!”
Ghi chú: