Thẩm phán Phạm Đình
Hưng
Sau Thế Chiến 2,
các lãnh tụ có tinh thần quốc gia và dân tộc của hầu hếtcác nước cựu thuộc
địa ở Á châu như Indira Gandhi, Nehru của Ấn độ, Sukarno của
Indonesia, Lý Quang Diệu của Singapore, Lý Thừa Vãn và Phác Chánh Hy của
Nam Hàn, Bảo Đại, Ngô Đình Diệm và Nguyễn văn Thiệu của Việt
Nam đã từ chối đi theo con đường cộng sản của Liên Xô và Trung Quốc. Họ
đã khôn ngoan không lựa chọn con đường đấu tranh giải phóng dân tộc bằng
bạo lực cách mạng để tránh tiêu hao sinh lực của dân tộc và tàn phá đất
nước. Đường lối đấu tranh ôn hòa của các lãnh tụ kể trên đã có kết quả tốt đẹp.
Theo xu hướng của thời đại, tất cả các nước cựu thuộc địa tại Á Châu và
Phi Châu đều lần lượt thu hồi độc lập mà không tốn một giọt máu của người
dân. Dưới áp lực của Liên Hiệp Quốc và Hoa Kỳ, đế quốc Anh đã trao trả
độc lập cho Ấn Độ năm 1947, Hòa Lan chấm dứt thống trị Indonesia năm
1949, Triều Tiên (gồm có Nam Hàn và Bắc Hàn) được độclập năm
1948, Pháp công nhận nền độc lập của Việt
Nam năm 1948 (Hiệp định Vịnh Hạ
Long: Accord du Baie d’Along) và Cao Miên năm 1949.
Riêng nước Việt
Nam độc lập và thống nhất đã được Pháp Quốc long trọng công nhận bằng
Hiệp ước (Treaty) Elysée ký kết ngày 8 tháng 3 năm 1949 giữa Tổng Thống
Pháp Vincent Auriol và Cựu Hoàng Bảo Đại do kết quả
của một đường lối
ngoại giao khôn ngoan cần ứng dụng để giải quyết một cách ôn hòa các
tranh chấp quốc tế. Nếu người Việt cộng sản và người Việt quốc gia lúc bấy
giờ cùng tôn trọng hiệp ước Elysée và bắt tay nhau xây dựng đất nước
trong hòa bình thì dân tộc Việt Nam đã tránh được cuộc hai cuộc chiến tranh
thảm khốc nhận chìm Tổ quốc thân yêu của chúng ta vào tình trạng chậm
tiến và lệ thuộc ngoại bang. Nhưng tiếc thay, Hồ Chí Minh (Hồ Quang) và đảng
Cộng Sản Việt Nam đã xem việc bành trướng chủ nghĩa Mác-Lê nin
là lý tưởng cần phải thực hiện bằng mọi giá và đặt ý thức hệ cộng sản
trên quyền lợi tối thượng của Tổ quốc và dân tộc Việt Nam. Trung thành
tuyệt đối với Đệ Tam Quốc Tế Cộng Sản, phía người Việt cộng sản đã
tiếp tục đẩy mạnh chiến tranh để chiếm đoạt chánh quyền bằng bạo lực
cách mạng và áp đặt cả nước Việt Nam dưới một chế độ độc tài toàn trị do
đảng Cộng Sản nắm độc quyền cai trị trong một thời gian vô Trong số các tân
quốc gia độc lập ở Á châu, Ấn độ (India), Nam Hàn (South Korea),
Singapore (một thành phố cảng trước thuộc Mã Lai Á) và Đài Loan (Taiwan) đã
thành công vượt bực trong công cuộc Tây phương hóa (Westernization)
để phát triển dân tộc. Lựa chọn mô thức phát triển của Hoa Kỳ và Tây Âu,
các nước Á châu nầy đã thành lập một chánh thể dân chủ pháp trị đa
nguyên, điều hành một nền hành chánh hữu hiệu, lành mạnh và trong sáng, áp dụng
kinh tế thị trường đích thực của chủ nghĩa tư bản, tiến hành kỹ nghệ hóa
song song với phát triển nông nghiệp, nâng cao trình độ dân trí, đào tạo
chuyên viên cấp cao trong các ngành khoa học kỹ thuật và quản lý, xây dựng
một xã hội công bằng, đạo đức và tôn trọng nhân quyền. Nhờ sự lãnh đạo
sáng suốt của các lãnh tụ yêu nước như Jawaharial Nehru, Lý Thừa Vãn
(Sygman Rhee), Phác Chánh Hy (Park Chung Hee) và Lý Quang Diệu (Lee
Kwan Yew) và Tưởng Kinh Quốc (Chiang Ching-kuo), các nước Ấn Độ,
Nam Hàn, Singapore và Đài Loan đã thực hiện việc chuyển giao quyền
lãnh đạo đất nước một cách êm đẹp, phát triển trong ổn định về mọi mặt,
xây dựng đất nước phồn vinh và tạo lập một cuộc sống ấm no, hạnh phúc thật
sự cho nhân dân.
Trong vài thập
niên sau khi thu hồi độc lập, Ấn Độ đã trở thành một cường quốc hạt
nhân và không gian, đào tạo một đội ngũ chuyên viên khoa học kỹ thuật
hùng hậu và nhứt là đã thực hiện thành công một cuộc Cách Mạng Xanh
(Green Revolution) để nuôi sống một tỷ người dân, đồng thời cải thiện
sinh thái của nông thôn. Cuộc Cách mạng Xanh của Ấn độ đã tiến hành trong
hòa bình và đem lại kết quả cải thiện đời sống cơ cực lâu đời của nhân dân Ấn
mà không phải hy sinh mạng sống của một người dân ở nông thôn. Cuộc
cách mạng êm đềm nầy của Ấn Độ hoàn toàn khác hẵn hai cuộc Cải Cách Ruộng
Đất của Trung Cộng và Việt Cộng phát động trong những năm đầu của
thập niên 1950 đã giết hại 50 chục triệu người dân ở nông thôn Trung
Quốc và 172.000 người ở nông thôn Bắc Việt dưới hình thức đấu tố và
tòa án nhân dân. Song song với cuộc Cách Mạng Xanh (Green Revolution)
tại nông thôn, Ấn Độ đã âm thầm kỹ nghệ hóa tại các đô thị và đã đạt
đươc tiêu chuẩn quốc tế trong các kỹ thuật cao mà không cần phải thực hiện
một Bước Tiến Nhảy Vọt (Great Leap Forward) theo sáng kiến của
Mao Trạch Đông, lãnh tụ “vĩ đại” của Trung Quốc. Riêng về mặt quản lý
chánh quyền, từ ngày thu hồi độc lập đến nay, Ấn Độ đã duy trì và củng cố chánh
thể dân chủ đại nghị theo mô thức của Anh quốc: không có một cuộc đảo
chánh nào đã xảy ra tại Ấn Độ để giành giựt địa vị và quyền lợi, chánh
quyền đã được chuyển giao một cách êm thắm căn cứ theo kết quả bầu cử
Quốc Hội của nhân dân Ấn. Cùng đi theo con
đường Tây phương hóa theo hoàn cảnh của đất nước, Đại Hàn (South
Korea), Singapore và Đài Loan (Taiwan) cũng đã trở thành ba quốc gia kỹ nghệ
phát triển xứng đáng được gọi là ba tiểu long Á châu đáng kính nễ và sánh
ngang vai với đàn anh Nhựt Bổn. Người viết cần nhấn mạnh Đại Hàn ( South
Korea) và Đài Loan (Taiwan) là hai cựu thuộc địa của Nhựt Bổn trước năm
1945 và tình trạng kinh tế của hai nước nhỏ nầy thua kém xa miền Nam
Việt Nam trước năm 1975; hiến pháp của Đại Hàn gần giống như hiến
pháp 1967 của Việt Nam Cộng Hòa về mặt thể chế. Áp dụng mô thức phát triển
của Hoa Kỳ, Đại Hàn và Đài Loan đã đạt nhiều tiến bộ đáng khen trong
các lãnh vực chánh trị, kinh tế, thương mại, khoa học kỹ thuật và văn hóa
giáo dục. Đại Hàn là một quốc gia Á châu thứ hai (sau Nhựt Bổn) có khả
năng đóng tàu lớn, kể cả hàng không mẫu hạm, và đủ sức cạnh tranh với
Hoa Kỳ về các sáng chế kỹ thuật cao. Riêng Singapore, một thành phố cảng
tách ra từ nước Mã lai Á, đã thành công vượt bực trong công cuộc Tây phương
hóa để phát triển dân tộc theo mẫu mực của Anh quốc vì Lý Quang Diệu
(Lee Kwan Yew), cựu Thủ tướng Singapore, đã tốt nghiệp đại học tại Luân
Đôn.
Để nêu bật thành
quả tốt đẹp của công cuộc Tây phương hóa, tác giả cần viện dẫn bản Chỉ
số Phát triển Thế giới năm 2007 của Ngân hàng Thế giới (World Bank) chỉ
rõ lợi tức đầu người (per capita income) năm 2005 của Việt Nam và một
số quốc gia Đông Nam Á Đông Bắc Á và Nam Á:
Việt Nam: $620.00 USD
Indonesia: $1,280.00 USD
(với dân số 150 triệu người)
Thái Lan: $2,700.00 USD
Malaysia: $5,000.00 USD
Trung Quốc:$1,700.00 USD
(với dân số 1tỷ 300 triệu người)
Đại Hàn và Đài Loan:
$15,000 USD
Hong Kong: $23,000 USD
Singapore: $ 25,000 USD
Theo báo cáo của
World Bank năm 2007, lợi tức đầu người của Việt Nam và một số quốc gia
Đông Nam Á như sau:
Việt Nam: $836.00 USD
Indonesia: $1,918.00
USD
Thái Lan: $ 3,850.00
USD
Singapore: $ 35,163.00
USD
Cũng theo báo
cáo Phát Triển Việt Nam (Vietnam Development Report) của Ngân Hàng Thế Giới
(World Bank) công bố vào cuối năm 2008 về mức độ phát triển kinh
tế, Việt Nam tụt hậu 158 năm so với Singapore và 95 năm so Thái Lan và 51
năm so với Indonesia. Căn cứ vào chỉ số phát triển, các chuyên viên của
World Bank ước tính Việt Nam còn rất lâu mới đuổi kịp các nước Đông Nam Á.
Nói tóm lại,trong
số các quốc gia Á châu kể trên, chỉ có Việt Nam là nước nghèo nhứt mặc dầu
đã nhận được rất nhiều viện trợ của các nước phát triển, các định
chế tài chánh quốc tế, Liên Hiệp Quốc và các tổ chức quốc tế. Sau 30 năm chiến
tranh (1945-1975) và 40 năm hòa bình (1975-2015) dưới quyền toàn trị của
đảng Cộng sản, Việt Nam vẫn không thoát khỏi tình trạng chậm tiến
vì các lý do kể sau:
- Đất nước đã bị 4 cuộc chiến tranh (Chiến
Tranh Đông Dương, Chiến Tranh Việt Nam,
Chiến tranh xâm lược Campuchia, Chiến tranh Việt-Trung ở biên giới
phía Bắc) tàn phá nặng nề;
- Đảng Cộng Sản Việt Nam đã luôn luôn kiên
định đi theo đường lối xã hội chủ nghĩa của
Trung Quốc và Liên Xô;
- Đảng Cộng Sản Việt Nam đã cai trị đất nước
một cách bất lực, bất công, tham ô và
độc đoán, tước đoạt tất cả nhân quyền và dân quyền của dân tộc Việt
Nam, chia rẽ và đào sâu hận thù dân tộc.
- Trí thức và nhân tài của đất nước đã bị
nhà cầm quyền cộng sản giết chết rất nhiều trong thời chiến và bị
trù dập, kỳ thị nặng nề trong thời bình theo chánh sách “hồng hơn chuyên”
và “Thái tử đảng” của đảng Cộng sản Việt Nam học từ Trung Cộng.
Do đó, nước Cộng
Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa dưới quyền lãnh đạo “thiên tài” của đảng Cộng sản
trong 70 năm qua đã bị Thế giới văn minh mĩa mai “khen ngợi” là một đất
nước không muốn phát triển.
Thẩm phán Phạm Đình
Hưng
California, mùa Đông năm 2015