3/11/15

Với anh Đại Hán phải “KÍNH nhi VIỄN chi”, tiếp ông Cận Bình phải hiểu lẽ Cận và Viễn

1. Coi chừng trở thành cánh quân thứ hai của giặc bành trướng
Nhân dân Việt Nam, mà đại biểu là những người yêu nước, tử tế, thức tỉnh và dám nói đã bộc lộ thái độ đối với ông Tập Cận Bình trong chuyến thăm Việt Nam lần này, mà những lời tuyên bố, những bài viết và những tấm hình như dưới đây có thể lấy làm ví dụ.

Nguồn ảnh: Anh Ba Sàm
Ta rất quý những tiếng nói từ lương tâm, từ lòng yêu nước như vậy, nhưng chưa dễ gì đưa xã hội ra khỏi cơn lúng túng như đèn cù, vẫn thấy có dòng hành quân không nghỉ nhưng chỉ lát sau tất cả lại về chỗ cũ. Hôm nay tuy “khách quý” (chữ của ông Trần Công Trục) chưa đến nhưng kết quả chuyến thăm viếng thế nào thiết tưởng đã có thể đoán trước.
Nhất định là chuyến thăm lần này của họ Tập đến Việt Nam (như thăm một nạn nhân của chủ nghĩa Bành trướng Đại Hán) vẫn sẽ đạt được những mục đích mà họ dự định, đạt những ý đồ mà họ mong muốn, mà không gặp trở lực nào từ phía Việt Nam. Đừng ai ngạc nhiên khi thấy “nạn nhân” vẫn hân hoan đón rước anh xâm lược, vẫn cung kính tưng bừng, nạn nhân có giẫy giụa hay phản kháng gì đâu? Vẫn ôm 16 chữ vàng để gìn giữ cái tài sản chung quý giá mà hai bác Mao-Hồ đã dày công vun đắp. Vẫn những thứ cũ, êm ru, có mới chăng là ở chỗ con sói đã nhích chân vào nhà chủ được thêm một bước, nạn nhân bị khóa chặt thêm một mắt xích, và nội bộ người Việt thì càng hiểu rõ lòng dạ của nhau hơn thôi.
Có thể sẽ lại được giải thích về những cố gắng kiên trì khôn ngoan gì đó, thắng lợi to lớn gì đó của nhà cầm quyền Việt Nam. Cứ tạm cho những cái gọi là cố gắng ôn hòa khôn ngoan ấy là thực tâm muốn cho nước nhà tốt đẹp đi chăng nữa, nhưng thử nghĩ mà xem, nếu không có những hoạt động như vậy từ phía ĐCSVN thì một kẻ cao cờ thâm hiểm như Trung quốc đương nhiên sẽ phải rất tốn công phu để tạo dựng cho được một cánh quân thứ hai, phối hợp với cánh quân thứ nhất là đội quân xâm lăng lộ liễu. Cánh quân thứ hai này có chức năng phải chống xâm lược bằng nước bọt để dân nghe cho sướng mà yên lòng, nhưng đồng thời phải dẹp tan những cuộc biểu tình thực sự muốn chống xâm lược, phải ngăn cản sự hỗ trợ quốc tế bằng cách khước từ sự can dự của nước thứ ba và không kiện ra Liên Hiệp Quốc... Tóm lại, cánh quân thứ hai này che chắn cho cánh quân thứ nhất xâm lược được trọn vẹn. Liệu có lúc nào những người “đảng viên nhưng mà tốt” giật mình, thấy mình ủng hộ cấp trên làm những điều như thế là vô tình trở thành cánh quân thứ hai của bọn Tàu xâm lược hay không? Cũng xin thưa thêm rằng kẻ đánh thuê mà không biết mình đánh thuê, cứ tưởng mình chân chính thì kẻ ấy mới càng nguy hiểm. Vẫn có rất nhiều ngụy biện để lừa dối người dân nhưng tôi tin rằng vẫn còn những người không dối nổi lương tâm.
Vì vậy, để hy vọng về một viễn cảnh tốt hơn, họa chăng ra khỏi cái vòng luẩn quẩn như đèn cù, ta thử học người thầy thuốc, muốn chữa bệnh phải tìm được cái gốc đã sinh ra bệnh. Thử đặt câu hỏi: Ông cha ta đã ứng xử thế nào để thoát khỏi bàn tay ghê gớm của con mãnh thú bành trướng, 1000 năm Bắc thuộc chứ ít gì đâu thế mà thoát được? Thoát được rồi, nhưng vì sao đến thế hệ ngày nay, với bao nhiêu thuận lợi hơn ngày xưa mà nguy cơ Bắc thuộc có thể trở lại, trở lại một cách khó gỡ?
Dù biết mình còn nhiều điều nông cạn nhưng cũng mạn phép được góp một nhời bàn về kế sách Thoát Trung của các tiền nhân.
2. Quy luật CẬN và VIỄN trong quan hệ Việt Trung
Với Trung quốc nên gần hay nên xa?
Xin thưa ngay: nên gần, nhưng đừng gần quá, phải giữ khoảng cách, đừng chui vào tay áo người ta.
- Không có nước nào gần gũi và nhiều duyên nợ với Việt Nam hơn nước Trung quốc. 
- Không có người dân nào gần gũi và dễ hòa hợp với dân Việt Nam hơn những người dân “đồng văn đồng chủng” Trung Hoa.
- Không có nền văn hóa nào gần gũi, ảnh hưởng nhiều đến văn hóa Việt Nam hơn văn hóa Trung Hoa, đó là một trong vài nền văn hóa vĩ đại của thế giới.
Với một đối tượng như thế sao lại không nên gần gũi? Gần để học cái Thiện mà theo, để biết cái Ác mà chống (1). Một nhân dân nhiều người tài giỏi thế, một Văn hóa nhiều nét đặc sắc thế chẳng những nên gần mà còn nên kính trọng. Nhưng cũng chính Khổng Tử khi nói về sự kính trọng lại đề xuất một cách ứng xử “Kính nhi viễn chi” (kính nhưng mà phải đứng xa) để đối xử với “Quỷ thần”, bởi “Quỷ thần” không phải là người thường như ta, kính trọng mà gần gũi quá thì sinh vạ. Tổ tiên người Việt đã ứng xử với yếu tố Trung Hoa một cách “Kính nhi viễn” đúng như vậy nên đã thành công.
Số mệnh truyền kiếp nước Việt phải kề môi kề răng với một con mãnh thú khổng lồ, kình địch với nó cũng chết mà co rúm trước nó cũng chết. Vậy mà nước Việt ta trải bốn nghìn năm không chết. “Đinh Lê Lý Trần” vẫn cứ sánh vai cùng “Hán Đường Tống Nguyên” mà “hùng cứ một phương”, là bởi biết tìm ra luật ứng xử “viễn cận”. Bình thường thì gần gũi và nhún nhường, chấp nhận triều cống, kể cả việc xin làm dâu làm rể Thiên triều. Nhưng nếu Thiên triều giở mặt, nhe nanh muốn nuốt chửng ta thì toàn dân ta trên dưới một lòng, đem hết sức bình sinh quyết một phen sống mái, đánh cho đoàn quân Thiên triều tan tác, xác chết đầy sông đầy gò. Nhưng thắng mà không kiêu (như kiểu kiêu của Lê Duẩn sau này), không tận diệt mà mở đường cho địch rút, sau đó lại chủ động hiếu hòa. 
Sách lược lúc gần lúc xa, lúc cương lúc nhu sở dĩ được tiến hành nhịp nhàng thành công như vậy là cốt ở hai điều: một là khi thân thiết vẫn phải giữ khoảng cách, không để cho Tàu chiếm được những nơi huyết mạch, hai là lúc kháng cự phải có sức mạnh tổng lực trên dưới một lòng quyết đánh cho giặc chẳng những phải thua mà còn phải nể sợ đến mức phải từ bỏ dã tâm xâm lược. Lúc Cận lúc Viễn đều có chừng mực như vậy làm cho gã khổng lồ đành phải nuốt hận, để cho nước Việt nhỏ tồn tại, đô hộ tới cả ngàn năm mà đồng hóa không nổi, từng tấc giang sơn của họ vẫn được giữ nguyên.
Bài học “Kính nhi viễn chi” ấy tổ tiên người Việt ta đã phải trả bằng máu xương suốt nghìn năm nô lệ và đã thành công. Rất cẩn trọng nhưng linh hoạt, không được thái quá cũng không bất cập.
Nhưng sự du nhập chủ nghĩa Cộng sản đã phá tan tành cái cẩm nang giữ nước ấy của ta. Bởi bản chất của chủ nghĩa Cộng sản là vừa quá tả lại vừa quá hữu, vừa thái quá lại vừa bất cập. Lẽ Cận -Viễn không thể điều hòa, khi Cận khi Viễn đều thái quá. Quan điểm phân chia giai cấp-địch ta và đấu tranh không khoan nhượng, một mất một còn, tạo ra rất nhiều kẻ thù và hờn oán, đó là mặt quá tả, đối với người khác mình thì đẩy ra xa (Viễn) và quy thành địch. Nhưng lại mơ tưởng một thế giới đại đồng, một thứ hữu ái giai cấp không biên giới, đó là mặt quá hữu khuynh, đã gần (Cận) thì lại gần quá, mất cảnh giác một cách ngây thơ trước bản năng bất thiện vẫn tiềm tàng dù là đồng chí. Cả hai mặt quá đà, quá khích này đều gây tai họa cho dân Việt Nam. Sự lạc quan tếu về tình cảm “vô sản đại đồng” chẳng những làm nhòe ranh giới giữa công dân và người cầm quyền xã hội bằng quan hệ cha con, bác cháu, mà củng làm nhòe ranh giới quốc gia bằng quan hệ “anh cả Liên xô, chị hiền Trung quốc” như một đại gia đình vô sản. Khốn nỗi sự xóa nhòa những ranh giới tự nhiên ấy một mặt ru ngủ những con cừu ngờ nghệch, nhưng mặt khác chẳng những không lòe được những con hổ con sói tinh khôn mà còn đánh thức bản năng tham lam của chúng và tạo cơ hội cho chúng nuốt chửng những “đồng chí” nhỏ yếu hơn, khác nào quan hệ đồng thuận và hợp tác của mãnh thú với con mồi trong cái ảo ảnh của thế giới đại đồng Cộng sản. Chủ nghĩa đại đồng ảo tưởng đã tạo ra những con mồi đầy tính tự nguyện hiến dâng. Phải chăng đó chính là cái “tài sản chung quý giá” mà một nước Việt nhỏ bé với mãnh thú Đại Hán khổng lồ Đại Hán mà hai “Bác” đã dày công vun đắp. Đại Hán cố giữ “khế ước” ấy làm cái gông, cái bẫy, để nước nhỏ bé không cựa được, chứ nước Việt bị thua thiệt đang cần thoát gông thì giữ cái đó làm gì?
Tóm lại là toàn bộ âm mưu đô hộ kiểu mới của Đại Hán đối với Việt Nam được thiết kế trên cái nền Cộng sản. Chừng nào còn đứng chung trên cái mặt bằng Cộng sản chung ý thức hệ ấy thì dân Việt vẫn như bị ngồi trên con tàu đã thiết kế sẵn đường ray. Dân Việt muốn chạy thoát khỏi cơn nô lệ mới chỉ có một cách là từ bỏ cái nền tảng ấy, mặt bằng ấy, con tàu ấy, đường ray ấy. Đó là đáp số duy nhất cho bài toán của Dân tộc chúng ta. Nhưng lối thoát ấy đã vướng một cái khóa do chính quá trình cũ tạo ra. Cái khóa hóc hiểm rất khó mở ấy là: tuy con tàu bị định hướng sai khiến cho hành khách bức xúc và muốn thoát ra nhưng đội ngũ lái tàu và tập đoàn thân hữu kiểm soát trên tàu của họ đã thu được lợi quyền kếch xù nhờ quỹ đạo sai đó, thì họ phải ơn cái quỹ đạo đó đến muôn năm. Nghe hành khách, bỏ đường ray ấy, bỏ con tàu ấy thì lợi quyền vua chúa kia đâu còn như cũ?
Câu chuyện bi hài của dân Việt mình suy cho cùng cũng đơn giản thế thôi. Những anh xu thời được vận may, kiếm chác được ít nhiều thì cũng có thể rộng lòng bỏ qua cho họ, nhưng sẽ không thể chấp nhận nếu họ cúi đầu bán rẻ linh hồn cho quỷ Bắc Kinh, làm nhục cho cả dân tộc, đắc tội trước công lao và xương máu của tổ tiên muôn đời nước Việt. Đảng CSVN đã đi quá đà trong việc gần gũi với Tàu, để quân Tàu gần gũi quá sâu vào nội tình, nội địa của mình mà không biết chính sách “Viễn-Cận” nham hiểm của Tàu là “Viễn giao, Cận công”, tức kết bạn với nước ở xa nhưng phải trừng trị, phải đánh, phải dạy những nước ở gần. Thế thì kẻ núp vào ống tay áo của Tàu hãy coi chừng vì ắt có ngày toi mạng!
Tóm lại, đối với anh Tàu Đại Hán, nước Việt ta phải theo gương tổ tiên mà “Kính nhi viễn chi”, phải làm cho họ hiểu rằng “chúng em rất kính trọng các ông, nhưng xin các ông đứng xa ra một chút, giữ đúng cự ly an toàn cho chúng em nhờ! Nếu không... Bạch Đằng - Đống Đa còn đó! Ý Đảng Cộng sản thế nào? Chứ lòng Dân tôi quyết là như vậy. *
Điều trớ trêu là khi dân đang bảo nhau thực hiện cho được chữ VIỄN để giữ khoảng cách an toàn trước anh Đại Hán thì đại diện đại quốc lại có ông rất CẬN sang chơi là ông CẬN Bình họ Tập. Cái lẽ VIỄN-CẬN lại được một phen thử thách.
Nhớ chữ trong Tam tự kinh, đang muốn “Tập tương VIỄN” là tập xa nhau ra, thì lại tiếp ông Tập CẬN Bình, vậy phải “tập” thế nào đây, “tập” cho gần nhau thêm nữa thì khốn!
Đừng quên cẩm nang Thoát Trung là KÍNH nhi VIỄN! Bởi KínhKính Cận quá e nhìn không thấy kẻ thù.
3-11-2015