Nhìn Ok Tedi nhớ về Hà Tĩnh
Ls Nguyễn Văn Thân (Danlambao) - Trong
 thời gian qua, các vụ cá chết hàng loạt ở mấy tỉnh miền Trung làm sôi 
sục nhiều người Việt trong và ngoài nước. Nhà nước hoàn toàn bất lực 
trước thảm họa môi trường này. Đã hơn một tháng mà vẫn chưa tìm ra được 
nguyên nhân. Thậm chí phải mời chuyên gia ngoại quốc đến giúp. Người dân
 ở Sài Gòn, Hà Nội và các tỉnh xuống đường biểu tình ôn hòa đòi hỏi môi 
trường trong sạch và chính quyền minh bạch thì bị chụp mũ là do tổ chức 
"khủng bố khích động và chi tiền" rồi bị công an trá hình thanh niên 
xung phong đánh tả tơi không chừa cả phụ nữ lẫn trẻ em. Hơn 800 cơ quan 
truyền thông bây giờ đã bị Đảng bịt miệng. Báo nào đăng bài viết về 
những "lời than thở của cá" thì phải "xin tự đình bản". Tự do ngôn luận 
và tự do báo chí ở Việt Nam là một trò hề cười ra nước mắt mà hàng ngàn 
ngư dân miền Trung sẽ không cảm thấy hài hước tí nào.
Thảm họa môi trường không chỉ xảy ra ở Việt Nam. Đa số các nước nghèo và
 tụt hậu đều có một điểm chung là có một thể chế chính trị độc tài, yếu 
kém đẻ ra nạn tham nhũng, bôi trơn và một hệ thống công quyền vô cảm để 
cho các công ty ngoại quốc lợi dụng khai thác. Trước đây đã có trường 
hợp tương tự liên quan tới BHP và mỏ Ok Tedi tại Papua New Guinea (PNG).
 BHP là một trong những công ty khai thác khoáng sản lớn nhất của Úc có 
hơn 30,000 nhân viên làm việc cho công ty khắp mọi nơi trên toàn thế 
giới.
Ok Tedi hay là sông Tedi nằm trong miền núi hướng tây của PNG. Mỏ Ok 
Tedi nằm trên núi Fubilan khoảng 1800 mét trên mặt nước. Trong khu vực 
này, lượng nước mưa hàng năm lên tới 10 mét và nạn đất lỡ và trượt xảy 
ra hàng ngày.
Vào năm 1980, chính quyền PNG cấp giấy phép cho công ty Ok Tedi Mining 
Limited (OTML) tiến hành khai thác mỏ đồng. Công ty này do BHP làm chủ 
nắm quyền kiểm soát với 52% cổ phiếu. Chính quyền PNG có 30% và 18% còn 
lại thuộc về Canada Metal Mining Corporation. Lúc đó có khoảng 74,000 
người đang sống trong khu vực sông Tedi trong số 5 triệu dân PNG thời 
bấy giờ.
Khi tiến hành hoạt động, OTML đã nghiên cứu cho xây một cái đập nước để 
giữ chất thải. Nhưng tới đầu năm 1984 thì một trận lở đất khủng khiếp 
hủy hoại cấu trúc của con đập này trong lúc xây cất. OTML, với sự đồng ý
 của chính quyền và cổ đông PNG, tiếp tục hoạt động và xả thải vào sông 
Tedi. Trong hai thập niên, OTML xả khoảng 30 tới 40 triệu tấn chất độc 
vào sông Tedi tiêu diệt gần 90% số lượng cá và đời sống thực vật trong 
phạm vi 1300 km vuông. Các loại súc vật gồm có heo rừng và bồ câu lần 
lượt biến mất. Người dân cũng không tiếp tục trồng được khoai môn là món
 ăn hàng ngày của họ, buộc nhiều người dân địa phương phải rời bỏ bộ lạc
 tìm nơi khác sinh sống.
Vào cuối năm 1994, Slater & Gordon, công ty luật nổi tiếng chuyên 
đại diện cho những người thấp cổ bé miệng trong các vụ kiện tập thể đại 
diện cho 30,000 cư dân sinh sống chung quanh sông Tedi thuộc 600 bộ lạc 
khác nhau đệ đơn kiện BHP tại Tòa Thượng Thẩm Victoria đòi bồi thường 4 
tỷ Úc kim. Đơn kiện nói rõ là nguyên đơn bị thiệt hại vì OTML xả thải 
chất độc vào sông Tedi. Bị đơn BHP là công ty điều hành mỏ Ok Tedi trực 
tiếp gây ra tổn hại này và do đó phải chịu tránh nhiệm pháp lý. Slater 
& Gordon lập luận rằng nguyên đơn tiến hành đơn kiện tại Victoria để
 cho người Úc thấy chính công ty lớn nhất của họ đang hủy diệt môi 
trường, đất đai và đời sống của người dân PNG thế nào.
BHP không phủ nhận là họ có xả thải vào sông Tedi. Nhưng họ lập luận 
rằng việc làm này có sự chấp thuận của chính quyền PNG và do đó họ không
 phạm pháp. Hơn nữa, sự việc này xảy ra ở một quốc gia khác là PNG và 
Tòa án Úc không có thẩm quyền để xét xử. Bị đơn dựa vào án lệ được thành
 lập trong vụ kiện British South Africa Co v Companhia de Mozambique 
[1893] là tòa án trong hệ thống thông luật không có thẩm quyền xét xử 
các vụ kiện liên quan tới chủ quyền hoặc sở hữu hoặc xâm phạm đất đai 
của một quốc gia khác. Lý do đơn giản là tòa không thể ban hành án lệnh 
có tính ràng buộc về chủ quyền hoặc sở hữu đất đai ở nước ngoài.
Thẩm phán Byrne của Tòa Thượng Thẩm Victoria ghi nhận là tòa sẽ không có
 thẩm quyền nếu đơn kiện dựa trên chủ quyền hoặc sở hữu đất đai. Tuy 
nhiên, tòa sẽ có thẩm quyền nếu đơn kiện dựa vào yếu tố khác ví dụ như 
hoạt động thương mại hoặc kinh tế bị tổn hại vì hành vi của bị đơn. 
Trong trường hợp này, nguyên đơn lập luận rằng họ không làm chủ sông 
Tedi và đất đai chung quanh. Nhưng họ hành nghề đánh cá để sinh sống. Họ
 kiện vì bị đơn tước đi quyền khai thác sông nước thiên nhiên mà họ và 
tổ tiên của họ đã hưởng từ ngàn xưa. Lập luận của nguyên đơn tương tự 
như lập luận của Phi Luật Tân trong vụ kiện "Đường Lưỡi Bò". Có nghĩa là
 Phi Luật Tân không yêu cầu tòa phán xét chủ quyền mà chỉ xin tòa xác 
nhận quyền khai thác kinh tế chính đáng và hợp pháp trong vùng đặc quyền
 kinh tế dựa trên Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển.
Sau khi Thẩm phán Byrne ban hành quyết định là Tòa có thẩm quyền, BHP 
chấp nhận điều đình và bồi thường và trả án phí cho nguyên đơn tổng cộng
 lên tới khoảng 500 triệu Úc kim. Hợp đồng thỏa thuận kết thúc vụ kiện 
giữa hai bên được ký vào năm 1996 gồm có 4 phần. BHP sẽ trả 90 triệu cho
 30,000 cư dân sinh sống dọc theo sông Tedi và 35 triệu cho những người ở
 hạ nguồn bị thiệt hại nặng nề nhất vì chất thải. 10% cổ phiếu trong 
công ty OTML trị giá 350 triệu được trao cho chính quyền PNG giữ giùm 
cho những người dân tỉnh miền tây PNG. Ngoài ra, BHP cũng cam kết tiến 
hành biện pháp lưu trữ chất thải dựa theo yêu cầu của chính quyền PNG.
Năm năm sau tức vào năm 2001, Slater & Gordon một lần nữa lại đại 
diện cho hơn 46,000 cư dân PNG tiến hành đơn kiện tập thể viện dẫn lý do
 là BHP đã không thi hành đúng cam kết của thỏa thuận năm 1996. Tòa ấn 
định ngày xử trong tháng 4 năm 2004 nhưng tới tháng Giêng thì nguyên đơn
 rút lại đơn kiện. Một trong những lý do chính là BHP đã chuyển nhượng 
hết cổ phiếu của họ cho chính quyền PNG để đổi lấy đặc quyền miễn tố vào
 năm 2001.
Mỏ Ok Tedi tạo ra 2,000 việc làm và vào năm 2006 đóng góp 23.6% vào GDP 
của PNG và gần 20% tổng giá trị xuất khẩu. Là một nước nghèo, đây là một
 số tiền quá lớn mà chính quyền PNG sẵn sàng chấp nhận và đánh đổi môi 
trường và đời sống của hàng chục ngàn cư dân của họ cũng như cướp đi môi
 trường sống của nhiều thế hệ mai sau. Nhưng tới tháng Giêng năm 2014 
thì Tòa án Quốc gia PNG ra lệnh OTML phải ngưng xả thải vào sông Tedi 
đồng nghĩa với việc đình chỉ mọi hoạt động của mỏ này. Tòa cũng ra lệnh 
niêm phong trương mục của công ty và sử dụng 19 triệu để điều tra tác 
hại của hành vi xả thải trong nhiều năm qua đối với sông Tedi và các 
nhánh sông lân cận.
Trước đây cũng đã xảy ra vụ ô nhiễm môi trường ở Việt Nam liên quan tới 
công ty Vedan. Vedan là một doanh nghiệp có 100% vốn đầu tư từ nước 
ngoài có trụ sở đặt tại Đồng Nai, thuê mướn khoảng 2,000 công nhân làm 
việc với thu nhập bình quân trên 2 triệu đồng VN hàng tháng. Từ năm 
1994, Vedan đã bắt đầu xả thải vào sông Thị Vải. Mặc dù gây ô nhiễm tai 
hại như vậy nhưng tới 14 năm sau tức là vào tháng 9 năm 2008 thì hành vi
 này mới bị nhà nước phát hiện. Bộ Tài Nguyên & Môi Trường xử phạt 
và truy thu phí môi trường nhưng đùn đẩy trách nhiệm đình chỉ hoạt động 
hoặc rút giấy phép kinh doanh sang cho chính quyền tỉnh Đồng Nai. Nhưng 
cơ quan điều tra không thể khởi tố hình sự vì luật pháp VN chưa quy 
trách nhiệm hình sự của pháp nhân công ty Vedan mà chỉ truy cứu trách 
nhiệm cá nhân lãnh đạo công ty nếu họ đã bị xử phạt hành chính.
Ngoài lợi ích môi trường của chung, hành vi xả thải hủy diệt sông Thị 
Vải của Vedan gây thiệt hại trực tiếp cho 7,000 hộ nông dân của ba tỉnh 
Đồng Nai, Bà Rịa-Vũng Tàu và TP HCM. Khi nông dân đòi bồi thường thì 
phản ứng của chính quyền ba tỉnh là khác nhau. Tại TP HCM, Hội Nông Dân 
đứng ra làm đầu mối tiếp nhận đơn rồi báo cáo với Ban Bí thư Trung Ương 
Đảng. Tại Bà Rịa-Vũng tàu, chính quyền giao trách nhiệm cho Sở Nông 
nghiệp & Phát triển Nông thôn giúp nông dân kê khai và xác định 
thiệt hại. Ngược lại tại Đồng Nai là trụ sở của Vedan thì chính quyền 
địa phương không chủ động hỗ trợ nông dân khởi kiện mà thậm chí còn đứng
 về phía Vedan hạn chế số tiền bồi thường xuống 15 tỷ đồng trong lúc 
nông dân tỉnh này đòi bồi thường 119 tỷ đồng.
Thật ra vấn đề chính của Việt Nam không phải là thảm họa môi trường mà 
là thảm họa thể chế. Thể chế độc tài đảng trị mới sinh ra tham nhũng và 
vô cảm là nguyên nhân hủy diệt không chỉ đời sống kinh tế, môi trường mà
 văn hóa và tinh thần của cả một dân tộc. Việt Nam chưa phát triển mà đã
 bị ô nhiễm thê thảm thế này và càng công nghiệp hóa dưới chủ trương của
 Đảng thì đất Mẹ Thiên nhiên càng tan tành. Chỉ có khi nào có một số 
đông quần chúng cần thiết (critical mass) không chỉ vài trăm hay vài 
ngàn mà là vài trăm ngàn người Việt vượt qua sợ hãi và thờ ơ đứng lên 
đòi quyền làm người gồm có quyền tiếp cận thực phẩm và nguồn nước sạch 
theo tinh thần của Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền và Công Ước Quốc Tế về 
Các Quyền Kinh Tế, Xã Hội và Văn Hóa mà Việt Nam đã gia nhập thì mới 
mong có cơ hội cá có nước sạch và người dân có chính quyền minh bạch. 


 
