Khi những người Mỹ đã chiến đấu trong cuộc chiến, chúng ta thường xuyên được hỏi về bài học của cuộc chiến. Có vài câu trả lời dễ dàng, một phần vì mọi xung đột là có nét đặc thù và vì chúng ta đã học được rằng các cố gắng để áp dụng những bài học trong quá khứ cho các cuộc khủng hoảng mới đôi khi làm hại nhiều hơn lợi. Nhưng một vài điều là rõ ràng.
Bài học đầu tiên không phải là chuyện cá nhân cho chúng ta, nhưng là một nguyên tắc áp dụng cho tất cả những người mặc quân phục: Một lần nữa chúng ta không bao giờ nhầm lẫn giữa một cuộc chiến tranh với các chiến binh. Các cựu chiến binh Mỹ xứng đáng được chúng ta kính cẩn tôn trọng, tri ân và hỗ trợ bất cứ khi nào và bất cứ nơi nào mà họ phục vụ.
Bài học thứ hai là các nhà lãnh đạo của chúng ta cần phải trung thực với Quốc Hội và người dân Mỹ về các kế hoạch, các mục tiêu và chiến lược khi sinh mạng của các nam nữ chiến binh đáng gặp nguy cơ. (Nhiệm vụ của quân chiến đấu Mỹ đầu tiên được triển khai tại Việt Nam được mô tả là “cứu trợ lũ lụt.”)
Bài học thứ ba là thể hiện sự khiêm tốn khi tự cho mình là hiểu biết về văn hoá ngoại quốc. Trong cuộc chiến tranh ở Đông Nam Á, không phải các đồng minh của Mỹ và cũng không phải các đối thủ của chúng ta đã hành động phù hợp với sự mong đợi của chúng ta.
Bài học thứ tư và cuối cùng của các cuộc xung đột Việt Nam đang phơi bày trước mắt chúng ta: sự khác biệt dường như không thể hàn gắn được, nhưng với nỗ lực và ý chí đầy đủ có thể hoà giải được. Thực tế là ông Obama là Tổng thống Mỹ thứ ba liên tiếp đến thăm Việt Nam là bằng chứng cho thấy những kẻ thù cũ có thể trở thành các bạn đối tác mới.
Là các cựu chiến binh, những người đã may mắn phục vụ trong công quyền, chúng tôi rất tự hào về những đóng góp của chúng tôi để nối lại các quan hệ ngoại giao bình thường giữa Hoa Kỳ và Việt Nam. Tiến trình khôi phục các quan hệ là khó khăn và đòi hỏi sự hợp tác đầy đủ của Hà Nội trong việc phát triển thông tin về người Mỹ mất tích từ cuộc xung đột – một nỗ lực còn tiếp tục đến nay.
Nhưng hơn 20 năm sau khi bình thường hoá, chúng ta đã đạt đến cao điểm, khi chương trình nghị sự của chúng ta với Việt Nam là nhìn về phía trước và trên phạm vi rộng. Các cuộc thảo luận của ông Obama với người Việt Nam sẽ bao gồm các vấn đề từ hợp tác an ninh, thương mại và đầu tư đến giáo dục, và từ môi trường đến tự do tôn giáo và nhân quyền.
Chương trình nghị sự rộng lớn hơn này phản ánh những thay đổi trong mối quan hệ đang triển khai tốt. Hai mươi năm trước đây, hàng năm đã có ít hơn 60.000 du khách người Mỹ đến Việt Nam. Ngày nay, có gần nửa triệu. Hai mươi năm trước, thương mại song phương về hàng hoá của chúng ta với Việt Nam chỉ là 450 triệu. Ngày nay, nó gấp 100 lần. Hai mươi năm trước đây, đã có ít hơn 1.000 sinh viên Việt Nam tại Hoa Kỳ. Ngày nay, có gần 19.000.
Đáng kể hơn, trong Bộ Chính trị Việt Nam có hai người đạt được trình độ đại học Mỹ khi họ theo chương trình học bổng Fulbright. Do đó, trong tuần này, một tổ chức mới cho chương trình cao học sẽ mở ra tại thành phố Hồ Chí Minh: Đại học Fulbright Việt Nam, đó là chuyện thích hợp. Một người trong chúng tôi, Thượng nghị sĩ Kerry tự hào phục vụ trong chức vụ là Chủ tịch Hội đồng Quản trị của trường.
Gần nửa thế kỷ trước, khi chúng tôi đã phục vụ ở Việt Nam, chúng tôi sẽ không bao giờ tưởng tượng được rằng đất nước của chúng ta sẽ một ngày nào đó làm việc với chính phủ Hà Nội để giúp họ giữ đồng bằng sông Cửu Long bằng cách tạo ra một sáng kiến để quản lý hệ sinh thái và đối phó với ảnh hưởng của biến đổi khí hậu. Chúng tôi không bao giờ có thể tưởng tượng rằng hai nước chúng ta sẽ là đối tác trong một thỏa thuận về mẩu mã trong thương mại, trong các đối tác Xuyên Thái Bình Dương, với mục đích là nâng cao tiêu chuẩn lao động và môi trường, đồng thời mở rộng sự thịnh vượng ở nước ta và các nước dọc theo vòng cung Thái Bình Dương.
Sẽ khó khăn hơn để tưởng tượng rằng Hoa Kỳ và Việt Nam sẽ hợp tác về các vấn đề an ninh. Hoa Kỳ đã giúp thành lập một trung tâm đào tạo mới cho Quân đội Nhân dân Việt Nam trong các vùng ngoại ô của Hà Nội, nơi những người lính trẻ Việt sẽ chuẩn bị để phục vụ trong nhiệm vụ gìn giữ hòa bình do Liên Hiệp Quốc tài trợ.
Hoa Kỳ và Quân đội Việt Nam đang tiếp xúc thường xuyên, và các nhà ngoại giao của chúng ta tham khảo ý kiến thường xuyên về những tranh cãi xung quanh tranh chấp chủ quyền hàng hải ở Biển Đông. Chính phủ của chúng ta không đứng về phía nào trong cơ sở pháp lý của các yêu sách, nhưng chúng ta tin tưởng mạnh mẽ rằng họ nên được giải quyết một cách hòa bình và phù hợp theo với luật pháp quốc tế và không được đơn phương theo bất kỳ quốc gia nào tìm cách khẳng định quyền bá chủ trên các nước láng giềng.
Dĩ nhiên, Hoa Kỳ và Việt Nam có hệ thống chính trị khác nhau và phương sách khác nhau đối với một số vấn đề. Nhưng nhân quyền là phổ quát, và chúng ta đã làm rõ ràng để các nhà lãnh đạo Hà Nội tin mạnh mẽ là Việt Nam sẽ đạt được đầy đủ tiềm năng chỉ nếu và khi người dân có quyền thể hiện một cách tự do trong phạm vi chính trị, lao động, các phương tiện truyền thông và tôn giáo. Trong cuộc viếng thăm Việt Nam, chúng tôi đã rất ấn tượng bởi sự háo hức của người dân Việt khi họ tận dụng lợi thế của công nghệ và cạnh tranh trong thị trường lao động toàn cầu. Chúng tôi tin rằng chính phủ Việt Nam không có gì để mất, và đạt được nhiều bằng cách tin tưởng người dân Việt.
Nhìn về tương lai, trên hết, chúng ta biết rằng lợi ích hỗ tương sẽ thúc đẩy quan hệ đối tác của chúng ta với Việt Nam. Cũng như vậy, nhưng khi nó được củng cố do tình cảm thu hút tự nhiên giữa các xã hội của chúng ta. Tình cảm này bao gồm các mối quan hệ gia đình, một xu hướng lạc quan, lòng mong muốn mãnh liệt cho tự do và độc lập và khi am hiều một cách khó khăn rằng hòa bình là được yêu chuộng nhiều hơn là chiến tranh.
John Kerry là Ngoại trưởng Hoa Kỳ. John McCain là Thượng Nghị sĩ đảng Cộng hòa bang Arizona, Chủ tịch của Ủy ban Quân vụ Thượng viện. Bob Kerrey là cựu Thượng Nghị sĩ đảng Dân chủ bang Nebraska, Chủ tịch Hội đồng Quản trị của Đại học Fulbright Việt Nam.
____
VOA
Ba nhà lãnh đạo Mỹ suy tư về chiến tranh Việt Nam, hướng về tương lai
24-5-2016
Ngoại
trưởng Hoa Kỳ John Kerry (phải) đến thăm ấp Kiến Vàng nằm bên bờ sông
Mekong, Việt Nam, ngày 15 tháng 12 năm 2013. Ảnh: Reuters
Ba nhân vật nổi tiếng đã và hiện đang
phục vụ trong chính phủ Hoa Kỳ từng chiến đấu trong cuộc chiến tranh
Việt Nam, suy niệm về cuộc xung đột này trong khi khi hướng tầm nhìn vào
hiện tại và tương lai.Trong một bài viết chung trình bày quan điểm đăng trên báo The New York Times hôm thứ Ba, Ngoại trưởng Mỹ John Kerry, Thượng nghị sĩ John McCain và cựu Thượng nghị sĩ Bob Kerrey viết rằng trong khi Mỹ tăng cường quan hệ với Việt Nam, điều quan trọng là phải nhớ những bài học đã học được từ cuộc chiến tranh đã cướp đi sinh mạng của hơn 58.000 người Mỹ và gần một triệu người Việt Nam.
Dù có “ít câu trả lời dễ dàng” cho những câu hỏi về các bài học này, họ nói “chúng ta không bao giờ một lần nữa nhầm lẫn chiến tranh với các chiến sĩ.” Những cựu chiến binh Mỹ “xứng đáng nhận được sự kính trọng, lòng biết ơn và và sự ủng hộ sâu xa nhất của chúng ta vào bất cứ lúc nào và ở bất cứ nơi nào mà họ phục vụ.” Họ nói thêm như thế, rõ ràng ngụ ý ám chỉ sự chế giễu mà những cựu chiến binh Việt Nam phải đối mặt khi họ trở về nhà sau cuộc chiến gây tranh cãi trong những năm 1960 và 1970.
Họ cũng nêu ra rằng các nhà lãnh đạo “cần phải trung thực” với Quốc hội và công chúng Mỹ về những kế hoạch quân sự, một tuyên bố được đưa ra vài chục năm sau khi những binh sĩ tác chiến đầu tiên của Mỹ được điều tới Việt Nam được mô tả là “cứu trợ lũ lụt.”
Thượng nghị sĩ John McCain trong chuyến thăm nhà tù Hỏa Lò, Hà Nội, ngày 8 tháng 4 năm 2009. Ảnh: AP
Thể hiện “sự khiêm tốn trong việc tiếp
nhận kiến thức về những nền văn hóa của nước ngoài” và vượt qua “những
khác biệt dường như không thể thu hẹp được,” những điều hiện rõ trong
tuần này tại Việt Nam, là một trong những bài học khác mà Mỹ đã học được
từ cuộc chiến tranh, kéo dài ở Đông Nam Á từ năm 1955-1975.Ba ông Kerry, McCain và Kerrey tự hào về những đóng góp của họ cho việc nối lại quan hệ ngoại giao bình thường từ 20 năm trước giữa Hoa Kỳ và Việt Nam. Ví dụ, mỗi năm có chưa đầy 60.000 người Mỹ đến thăm Việt Nam cách đây 20 năm, so với gần nửa triệu người hiện nay, và kim ngạch thương mại song phương với Việt Nam tăng gần 100 lần con số 450 triệu đôla của 20 năm trước.
Trong khi Tổng thống Barack Obama thăm Việt Nam tuần này, ba cựu chiến binh mô tả nỗ lực xây dựng mối quan hệ của ông Obama là “rộng khắp,” bao gồm những vấn đề an ninh, thương mại, đầu tư, môi trường và “tự do tôn giáo và nhân quyền.”
Nhìn về phía trước, họ viết, “những lợi ích chung” và “tình cảm thân ái tự nhiên” như quan hệ gia đình và “lòng khát khao tự do mãnh liệt” sẽ giúp tăng cường mối quan hệ giữa hai nước.
Ông John Kerry từng là sĩ quan hải quân ở Việt Nam. Ông John McCain từng là sĩ quan hải quân và là tù binh chiến tranh ở Việt Nam suốt năm năm rưỡi. Ông Bob Kerrey được trao Huân chương Danh dự cho công tác phục vụ của ông với tư cách một biệt kích Hải quân ở Việt Nam.
Posted by adminbasam on 25/05/2016
New York TimesTác giả: John Maccain, John Kerry và Bob Kerry
Dịch giả: Đỗ Kim Thêm
23-5-2016