Bản dịch trọn vẹn của Thục Quyên (Danlambao)
Xin chào. Xin chào Việt Nam! Thank you. Thank you so much.
Xin cám ơn Chính phủ và nhân dân Việt Nam đã dành cho tôi sự chào đón
nồng ấm và cho tôi hưởng lòng hiếu khách của người Việt trong chuyến
thăm này. Và cũng xin cảm ơn các bạn Việt Nam có mặt ở đây ngày hôm nay,
những người đến từ khắp nơi trên đất nước tuyệt vời này, trong đó có
rất nhiều người trẻ đại diện cho sự năng động, tài năng và niềm hy vọng
của Việt Nam.
Trong chuyến thăm này, bản tính thân thiện đặc trưng của người Việt đã
rung động trái tim tôi. Tôi cảm nhận được tình bạn giữa hai dân tộc
chúng ta trong đám đông những người đứng dọc hai bên đường vẫy tay chào
kèm với nụ cười. Đêm hôm qua, tôi đến thăm phố cổ Hà Nội và được thưởng
thức vài món ăn Việt Nam đặc sắc. Tôi có nếm bún chả và uống bia Hà Nội.
Tuy nhiên tôi phải nhận xét một điều về những con đường nhộn nhịp của
thành phố này: chưa bao giờ trong đời tôi, tôi lại thấy nhiều xe máy như
vậy. Tôi chưa thử đi sang đường, nhưng có lẽ sau này khi tôi trở lại
thăm Việt Nam, các bạn sẽ chỉ cho tôi cách qua đường như thế nào.
Tính trong những năm gần đây thì tôi không phải là Tổng thống Mỹ đầu
tiên đến Việt Nam, nhưng tôi là Tổng thống đầu tiên vừa đến tuổi trưởng
thành sau cuộc chiến giữa hai quốc gia chúng ta, như số đông các bạn.
Khi lực lượng quân sự Mỹ cuối cùng rời Việt Nam tôi mới 13 tuổi. Lần đầu
tiên tôi tiếp xúc với thực thể Việt Nam cũng như với người Việt Nam là ở
Hawaii, nơi tôi lớn lên, nơi có một cộng đồng đầy tự tin của người Mỹ
gốc Việt.
Đồng thời hiện nay tại Việt Nam cũng có nhiều người còn trẻ tuổi hơn tôi.
Cũng như hai con gái tôi, số lớn các bạn từ khi sinh ra chỉ biết đến một
điều duy nhất: đó là nền hòa bình và quan hệ đã bình thường hóa giữa
Việt Nam và Hoa Kỳ. Do đó, tuy rất ý thức về quá khứ, ý thức về những
khó khăn trong lịch sử chung, nhưng tôi đến đây với chủ đích hướng về
tương lai, với thịnh vượng, an ninh và nhân phẩm, là những gì chúng ta
có thể cùng góp sức đẩy mạnh.
Tôi cũng đến đây với lòng kính trọng di sản cổ xưa của Việt Nam.
Từ hàng thiên niên kỷ, các nông dân đã trồng cấy trên những mảnh đất
này, mà vết tích còn để lại trên trống đồng Đông Sơn. Hà Nội đã đứng
vững hơn nghìn năm trong vòng ôm của dòng sông [Hồng]. Thế giới đã biết
quý trọng lụa và những bức họa của Việt Nam, và Văn Miếu minh chứng cho
sự trau dồi kiến thức không ngừng của dân tộc Việt. Vậy mà trải qua
nhiều thế kỷ, rất nhiều khi vận mệnh của Việt Nam từng bị người khác
định đoạt. Mảnh đất yêu quý của các bạn không phải lúc nào cũng thuộc về
các bạn. Nhưng như cây tre, tinh thần quật cường của dân tộc Việt đã
được tinh kết trong câu thơ của Lý Thường Kiệt:
Sông núi nước Nam vua Nam ở,
Hôm nay chúng ta cũng nên nhớ lại bề dày lịch sử giữa người Việt và
người Mỹ mà chúng ta thường lãng quên. Hơn 200 năm trước, vị tổ lập quốc
của chúng tôi, Thomas Jefferson, khi tìm kiếm gạo giống cho trang trại
của mình, đã chọn gạo Việt Nam mà ông mô tả là "nổi tiếng vừa trắng, vừa
ngon, mà năng suất lại cao nhất". Không lâu sau đó, những thuyền buôn
của Mỹ đã cập cảng Việt Nam, tìm cơ hội giao thương.
Trong Thế chiến II, người Mỹ đã tới hỗ trợ cuộc kháng chiến của dân tộc
Việt chống lại ách đô hộ. Khi máy bay Mỹ bị bắn rơi, người dân Việt Nam
đã cứu giúp những viên phi công gặp nạn.
Và ngày tuyên bố độc lập của Việt Nam, khi người dân đổ ra khắp đường
phố Hà Nội, ông Hồ Chí Minh đã trích Tuyên ngôn Độc lập của nước Mỹ: "Mọi
người sinh ra đều bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền bất khả xâm
phạm, trong đó có Quyền Sống, Quyền Tự Do, và Quyền Mưu Cầu Hạnh Phúc".
Vào một thời điểm khác, việc chia sẻ với nhau những giá trị nói trên và
liên kết đánh đuổi thực dân có thể đã đưa chúng ta xích lại gần nhau sớm
hơn. Tuy nhiên những kình địch trong Chiến tranh lạnh và nỗi lo sợ Chủ
nghĩa Cộng sản đã dẫn chúng ta đến đối diện với một cuộc chiến. Và giống
như tất cả mọi cuộc giao tranh trong lịch sử nhân loại, kết quả chúng
ta chỉ học được một sự thật chua chát: chiến tranh dù nhắm mục đích nào
cũng chỉ mang lại khổ đau và thảm họa.
Không xa nơi đây là Đài Tưởng niệm Liệt sĩ, cũng như các bàn thờ tại
những gia đình Việt Nam khắp nơi trong nước, vẫn đang tưởng niệm khoảng 3
triệu người, là thường dân và quân sĩ của cả hai bên đã thiệt mạng. Tại
Bức tường Tưởng niệm Chiến tranh ở Washington, chúng tôi có thể chạm
vào tên của 58.315 người Mỹ đã bỏ mình trong cuộc chiến. Trong cả hai
quốc gia của chúng ta, những cựu chiến binh và gia đình những người đã
nằm xuống vẫn còn quay quắt nhớ đến nhiều bè bạn và người thương đã mất.
Người Mỹ chúng tôi đã học bài học, dù khác quan điểm nhau trong cách
nhìn cuộc chiến, chúng ta vẫn luôn phải vinh danh những binh sĩ tham
chiến và phải chào đón họ trở về với sự tôn kính mà họ xứng đáng được
hưởng. Trong tinh thần đó, người Việt và người Mỹ chúng ta hôm nay có
thể cùng nhau nhìn nhận nỗi đau và sự hy sinh cả hai bên đã phải gánh
chịu.
Gần đây hơn, trong hơn hai thập kỷ qua, Việt Nam đã đạt được những tiến
bộ vượt bậc, và ngày nay, thế giới có thể nhìn rõ những thành tựu ngoạn
mục của các bạn. Với những đổi mới kinh tế và hiệp định thương mại tự
do, kể cả với Mỹ, các bạn đã gia nhập kinh tế toàn cầu, bán hàng ra khắp
thế giới. Đầu tư nước ngoài đang vào Việt Nam. Và với một trong những
nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất châu Á, Việt Nam đã vươn lên thành
một quốc gia thu nhập trung bình.
Chúng tôi có thể nhìn thấy sự phát triển của Việt Nam qua những tòa nhà
chọc trời ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, những trung tâm thương mại
và khu đô thị mới. Chúng tôi cũng thấy điều ấy qua những vệ tinh Việt
Nam phóng vào không gian, và qua cả một thế hệ đang nối mạng internet để
khởi nghiệp và thử hướng đi mới. Chúng tôi còn thấy nó thể hiện với
hàng chục triệu người Việt Nam sử dụng Facebook và Instagram, không chỉ
để đăng ảnh selfies [tự chụp], dù tôi có được nghe là các bạn hay chụp
ảnh selfies lắm và cho tới giờ tôi phải nói là vô khối người đã đề nghị
chụp ảnh selfies với tôi. Không chỉ thế, các bạn cũng lên tiếng vì những
điều mình quan tâm, như việc cứu những hàng cây cổ thụ ở Hà Nội.
Tất cả những sự năng động đó đã đem lại tiến bộ thật sự trong cuộc sống
của người dân. Việt Nam đã giảm nghèo một cách đáng kể, tăng thu nhập
gia đình và nâng hàng triệu người nhanh chóng lên tầng lớp trung lưu.
Đói nghèo, bệnh tật, tỷ lệ tử vong đối với bà mẹ và trẻ sơ sinh đều đã
giảm. Số người được tiếp cận điện nước, số trẻ em trai và gái được đi
học, tỉ lệ biết chữ, đều tăng lên. Đó là một tiến bộ phi thường mà các
bạn đã làm được trong một thời gian rất ngắn.
Đi cùng với sự thay đổi của Việt Nam cũng là sự thay đổi trong quan hệ
giữa hai quốc gia của chúng ta. Chúng ta đã nhận được bài học từ Hòa
thượng Thích Nhất Hạnh khi ông dạy: "Đối thoại thực sự là khi cả hai bên đều sẵn sàng thay đổi". Khi đó, chính cuộc chiến từng chia rẽ chúng ta lại trở thành nguồn phát sinh sự hàn gắn.
Nó cho phép chúng ta tìm và đưa những người mất tích trở về nhà, giúp gỡ
bỏ những bom mìn chưa nổ vì không thể để bất cứ đứa trẻ nào phải mất
chân khi đang chơi đùa bên ngoài. Chúng tôi cũng vừa tiếp tục giúp đỡ
người khuyết tật, kể cả trẻ em, vừa giúp khắc phục hậu quả của chất độc
da cam – dioxin – để Việt Nam có thể tái sử dụng thêm nhiều đất. Chúng
ta tự hào về công việc chung ở Đà Nẵng, và chúng tôi sẽ tiếp tục giúp đỡ
các bạn tại Biên Hòa.
Cũng đừng quên quá trình hòa giải giữa hai nước đã được bắt đầu bởi
những cựu chiến binh, những người đã từng đối mặt trong cuộc chiến. Như
Thượng nghị sĩ John McCain, từng là tù nhân chiến tranh nhiều năm, khi
gặp Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã nói: hai nước chúng ta không nên là kẻ
thù mà nên là bạn. Hãy nghĩ tới biết bao cựu chiến binh Việt và Mỹ khác
đã chung tay giúp chúng ta hàn gắn và xây dựng những quan hệ mới. Về mặt
này trong những năm qua, ít ai có thể làm hơn cựu Trung úy hải quân nay
là Ngoại trưởng Mỹ John Kerry, cũng đang có mặt nơi đây. Thay mặt tất
cả, cám ơn John vì những nỗ lực phi thường của ông.
Vì những cựu chiến binh của chúng ta đã chỉ đường, vì những người từng
tham chiến đã can đảm đi tìm hòa bình, nhân dân hai nước đã đến gần nhau
hơn bao giờ hết. Giao thương đã tăng. Sinh viên, học giả hai nước cùng
nhau học tập. Chúng tôi đón nhận sinh viên Việt Nam đến Mỹ học nhiều
nhất trong các nước Đông Nam Á. Và mỗi năm du khách Mỹ đến Việt Nam càng
nhiều hơn, kể cả những người "khách ba lô" Mỹ trẻ, thăm Hà Nội 36 phố
phường và những cửa hàng ở Phố cổ Hội An, thăm Kinh đô Huế.
Chúng ta, Việt và Mỹ, đều có thể đồng cảm với những lời của nhạc sĩ Văn Cao: "Từ đây người biết quê người. Từ đây người biết thương người".
Trên cương vị Tổng thống, tôi đã xây dựng dựa vào những tiến triển đó.
Với mối quan hệ đối tác toàn diện mới, Chính phủ hai nước đang hợp tác
chặt chẽ hơn bao giờ hết. Và với chuyến thăm này, chúng ta đã đặt mối
quan hệ Việt-Mỹ lên một nền tảng vững chắc hơn cho nhiều thập kỷ tới.
Dường như gắn bó lịch sử giữa hai quốc gia, bắt đầu từ Tổng thống Thomas
Jefferson 200 năm trước, đến nay đã trọn một vòng. Chúng ta đã mất
nhiều tháng năm và nỗ lực, nhưng giờ đây chúng ta có thể nói điều mà
trước đây là không tưởng: Việt Nam và Mỹ hôm nay là đối tác của nhau
Kinh nghiệm của chúng ta cũng là bài học cho cả thế giới. Ở một thời
điểm mà biết bao xung đột có vẻ không thể giải quyết và dường như không
bao giờ chấm dứt, chúng ta đã chứng minh là trái tim có thể đem tới thay
đổi, và tương lai sẽ khác đi nếu ta không chấp nhận làm tù nhân cho quá
khứ. Chúng ta đã cho thấy rằng hòa bình tốt đẹp hơn chiến tranh, rằng
tiến bộ và phẩm giá con người được phát huy tốt nhất qua hợp tác chứ
không qua xung đột. Đó là những điều Việt Nam và Mỹ có thể chỉ rõ cho
thế giới.
Sự hợp tác giữa Mỹ và Việt Nam dựa trên những chân lý cơ bản.
Việt Nam là một nước độc lập, có chủ quyền, không nước nào có thể áp đặt
ý muốn hoặc quyết định vận mệnh thay cho các bạn. Điều này là một mối
quan tâm của Mỹ. Chúng tôi quan tâm đến sự thành công của Việt Nam.
Nhưng quan hệ đối tác toàn diện của chúng ta còn ở những giai đoạn đầu.
Và trong thời gian còn lại của nhiệm kỳ, tôi muốn chia sẻ với các bạn
tầm nhìn mà tôi tin là sẽ dẫn lối cho chúng ta trong nhiều thập kỷ tới.
Trước hết, chúng ta hãy cộng tác để đem lại những cơ hội thực thụ và sự
thịnh vượng cho nhân dân hai nước. Chúng ta biết những chất liệu tạo nên
thành công về kinh tế trong thế kỷ 21: Trong nền kinh tế toàn cầu, đầu
tư và thương mại sẽ chuyển đến nơi nào có pháp quyền, vì không ai muốn
phải hối lộ để được kinh doanh. Không ai muốn bán hàng hay đi học mà
không biết mình sẽ được đối xử như thế nào.
Trong nền kinh tế dựa trên tri thức, việc làm chỉ nảy sinh nơi con người
được tư duy độc lập, được trao đổi ý tưởng và sáng tạo. Đối tác kinh tế
thực thụ không chỉ là nước này đến khai thác tài nguyên thiên nhiên của
nước kia, mà là đầu tư vào nguồn tài nguyên lớn nhất của chúng ta, đó
là con người với những kỹ năng và tài năng của họ, dù sống ở thành thị
hay làng quê.
Đó chính là hình thức đối tác Hoa Kỳ đề nghị.
Như tôi đã công bố hôm qua, lần đầu tiên Đoàn Hòa Bình (Peace Corps) sẽ
đến Việt Nam, tập trung vào công tác giảng dạy tiếng Anh. Sau thế hệ
thanh niên Mỹ đến đây tham chiến, sẽ có một thế hệ mới đến để dạy học,
xây dựng và thắt chặt mối quan hệ hữu nghị giữa hai nước. Một số công ty
công nghệ và học viện hàng đầu của Mỹ đang hợp tác với các trường đại
học Việt Nam để tăng cường đào tạo khoa học, công nghệ, kỹ thuật, toán
học và y tế. Vì dù vẫn tiếp tục mở rộng cửa đón sinh viên Việt Nam đến
Mỹ học, chúng tôi tin rằng những người trẻ xứng đáng có cơ hội được đào
tạo theo tiêu chuẩn quốc tế ngay tại đây, tại Việt Nam.
Và đó là một trong những lý do tại sao chúng tôi rất hứng thú khi mùa
thu này Đại học Fulbright sẽ khai trương ở thành phố Hồ Chí Minh. Đây là
trường đại học độc lập phi lợi nhuận đầu tiên tại Việt Nam, với nền học
thuật hoàn toàn tự do, và có học bổng cho những sinh viên trong hoàn
cảnh khó khăn. Sinh viên, học giả, và các nhà nghiên cứu sẽ tập trung
vào chính sách cộng đồng, quản trị, kinh doanh, vào kỹ thuật, tin học,
vào các ngành học khai phóng – văn học nghệ thuật... Tất cả, từ thơ
Nguyễn Du, đến triết lý Phan Châu Trinh đến toán học Ngô Bảo Châu.
Chúng tôi cũng sẽ duy trì hợp tác với lớp người trẻ và doanh nhân, vì
chúng tôi tin rằng khi có thể tiếp cận công nghệ, kỹ năng và nguồn vốn
cần thiết thì không còn gì ngăn trở được các bạn, cả các bạn gái, những
phụ nữ tài giỏi của Việt Nam. Chúng tôi nghĩ bình đẳng giới là một
nguyên tắc quan trọng. Từ thời Hai Bà Trưng tới nay, những người phụ nữ
mạnh mẽ và tự tin đã vẫn góp phần đưa Việt Nam đi tới. Đây là một điều
hiển nhiên, khắp thế giới đi đâu tôi cũng nói điều này, rằng gia đình,
cộng đồng và đất nước sẽ thịnh vượng hơn nếu phụ nữ và các em gái có cơ
hội bình đẳng để thành công trong trường học, sở làm và trong cơ quan
chính quyền. Đúng ở mọi nơi, và cũng đúng ở Việt Nam.
Chúng tôi cũng sẽ nỗ lực phát huy tiềm năng của nền kinh tế Việt Nam qua
Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP). TPP sẽ giúp Việt Nam bán
ra thế giới nhiều sản phẩm hơn, đồng thời thu hút những nguồn đầu tư
mới. Nhưng TPP sẽ đòi hỏi cải cách để bảo vệ người lao động, pháp quyền
và sở hữu trí tuệ. Hoa Kỳ sẵn sàng hỗ trợ Việt Nam thực hiện hiệu quả
những cam kết.
Tôi muốn các bạn biết rằng, là Tổng thống Mỹ, tôi ủng hộ mạnh mẽ TPP
cũng vì các bạn có thể sẽ mua thêm nhiều hàng hóa "Made in America" của
chúng tôi.
Hơn nữa tôi ủng hộ TPP vì những lợi ích chiến lược quan trọng. Việt Nam
sẽ bớt phải phụ thuộc một đối tác kinh tế duy nhất, có thể mở rộng quan
hệ với nhiều đối tác, trong đó có Mỹ. TPP sẽ tăng cường hợp tác khu vực,
giúp đối phó với sự bất bình đẳng về kinh tế, và thúc đẩy nhân quyền
bằng những cải thiện lương bổng cũng như điều kiện làm việc an toàn hơn.
Lần đầu tiên tại Việt Nam, có quyền thành lập công đoàn độc lập, có các
quy định cấm lao động cưỡng bức và lao động trẻ em. Cũng có những
phương thức bảo vệ môi trường và những tiêu chuẩn phòng chống tham nhũng
cao hơn bất cứ hiệp định thương mại nào trong lịch sử. Đó là tương lai
mà TPP đem lại cho tất cả chúng ta, vì tất cả chúng ta – Hoa Kỳ, Việt
Nam và các đối tác khác – sẽ bị ràng buộc bởi những nguyên tắc mà chính
chúng ta đã cùng tạo dựng. Tương lai đang chờ đợi chúng ta. Chúng ta cần
hoàn thành nó để bảo đảm thịnh vượng kinh tế và an ninh quốc gia.
Điều này đưa đến lĩnh vực thứ hai mà chúng ta có để hợp tác, đó là bảo
đảm an ninh cho đôi bên. Trong chuyến thăm này, chúng ta đồng ý đẩy mạnh
thêm hợp tác an ninh và củng cố lòng tin giữa hai quân đội. Chúng tôi
sẽ tiếp tục huấn luyện và cung cấp thiết bị cho lực lượng tuần duyên để
giúp nâng cao năng lực hàng hải Việt Nam. Chúng ta sẽ hợp tác cứu trợ
nhân đạo khi có thiên tai. Với công bố tôi đưa ra hôm qua về việc dỡ bỏ
hoàn toàn cấm vận vũ khí, Việt Nam có cơ hội tiếp cận những thiết bị
quân sự cần thiết để bảo đảm an ninh quốc gia. Và nước Mỹ đang thể hiện
cam kết bình thường hóa hoàn toàn quan hệ với Việt Nam.
Trong phạm vi rộng hơn, thế kỷ 20 đã dạy cho tất cả các quốc gia, trong
đó có Mỹ và Việt Nam, rằng trật tự thế giới mà nền an ninh hỗ tương của
chúng ta phụ thuộc, có nền tảng ở một số chuẩn mực và quy tắc nhất định.
Mọi quốc gia đều có chủ quyền, dù nhỏ hay lớn, chủ quyền của một quốc
gia phải được tôn trọng, và lãnh thổ không thể bị xâm phạm. Nước lớn
không được bắt nạt nước nhỏ, tranh chấp phải được giải quyết trong hòa
bình.
Các cơ chế khu vực như ASEAN, Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á (East Asian
Summit) cần tiếp tục tăng cường. Đó là điều mà tôi tin tưởng. Mà nước Mỹ
tin tưởng. Đó là quan hệ đối tác Mỹ đem lại cho khu vực này. Với lòng
mong muốn phát huy tinh thần tôn trọng và hòa giải, tôi sẽ là Tổng thống
Mỹ đầu tiên đến thăm Lào vào cuối năm nay.
Tại Biển Đông, Mỹ không can dự vào những tranh chấp, nhưng chúng tôi sát
cánh với các đối tác giữ vững những nguyên tắc cốt lõi như tự do hàng
hải, tự do hàng không, giao thương hợp pháp không thể bị ngăn cản, giải
quyết tranh chấp phải bằng biện pháp hòa bình và theo luật pháp quốc tế.
Xúc tiến thêm mối quan hệ đối tác, Hoa Kỳ sẽ tiếp tục vận hành máy bay,
tàu thủy đến hoạt động ở bất cứ nơi nào luật pháp quốc tế cho phép, và
ủng hộ quyền của tất cả các nước được làm như vậy.
Ngay cả khi chúng ta hợp tác chặt chẽ hơn trong những lĩnh vực tôi vừa
miêu tả, quan hệ đối tác của chúng ta còn có thành tố thứ ba – liên quan
tới những bất đồng còn tồn tại giữa hai Chính phủ, trong đó có vấn đề
nhân quyền.
Tôi không ám chỉ riêng Việt Nam. Không quốc gia nào hoàn hảo cả. Qua hai
thế kỷ, nước Mỹ cũng vẫn phải nỗ lực hầu mong đạt được những lý tưởng
chính chúng tôi đã đề ra khi lập quốc. Chúng tôi vẫn đang đối phó với
những hạn chế của mình như, tiền bạc chi phối chính trị, gia tăng bất
bình đẳng kinh tế, phân biệt chủng tộc trong hệ thống tư pháp, phụ nữ
vẫn chưa được hưởng mức lương cao như nam giới.
Chúng tôi vẫn còn nhiều vấn đề, và tôi cam đoan, chúng tôi không miễn
nhiễm với chỉ trích. Tôi vẫn nghe chỉ trích mỗi ngày. Nhưng sự giám sát
đó, tranh luận cởi mở, đối mặt với khiếm khuyết của mình, cho người dân
có tiếng nói, giúp chúng tôi vững mạnh hơn, thịnh vượng hơn, và công
bằng hơn.
Như tôi đã nói, Mỹ sẽ không tìm cách áp đặt mô hình Chính phủ của mình
lên Việt Nam. Những quyền mà tôi nhắc tới [tôi tin rằng] không chỉ của
Mỹ, mà là những giá trị phổ quát, được nêu trong Tuyên ngôn Quốc tế về
Nhân quyền. Những giá trị này cũng được viết trong Hiến pháp của nước
Việt Nam: Người dân có quyền tự do ngôn luận, quyền tự do báo chí, quyền
tiếp cận thông tin, quyền hội họp, quyền lập hội, và quyền biểu tình.
Tất cả những điều này đều nằm trong Hiến pháp của Việt Nam.
Thật vậy, đây là vấn đề liên quan đến tất cả chúng ta, mỗi quốc gia,
phải luôn cố gắng áp dụng những nguyên tắc đó, đảm bảo rằng chúng ta,
những người giữ chức vụ trong chính quyền, đang trung thành với những lý
tưởng đó.
Trong những năm gần đây, Việt nam đã đạt được một số tiến bộ. Việt Nam
đã cam kết sửa đổi luật pháp cho phù hợp với Hiến pháp mới của mình và
với các tiêu chuẩn quốc tế. Theo những luật mới ban hành, Chính phủ sẽ
công khai hóa ngân sách nhiều hơn và người dân có quyền tiếp cận thông
tin nhiều hơn. Như tôi cũng đã nhắc tới, Việt Nam đã cam kết cải cách
kinh tế và lao động theo TPP. Như vậy, tất cả đều là những bước tiến
tích cực.
Cuối cùng thì tương lai của Việt Nam sẽ được quyết định bởi người Việt
Nam. Mỗi quốc gia sẽ vạch ra đường đi của riêng mình, vì hai quốc gia
chúng ta có những truyền thống khác biệt, hệ thống chính trị cũng như
văn hóa khác biệt. Nhưng là một người bạn của Việt Nam, xin cho phép tôi
chia sẻ quan điểm của mình: tại sao tôi tin rằng các quốc gia sẽ thành
công hơn khi những giá trị phổ quát được duy trì.
Khi có tự do biểu đạt và tự do ngôn luận, và khi người dân có thể chia
sẻ ý tưởng cũng như tiếp cận Internet và mạng xã hội mà không bị ngăn
cấm, điều đó sẽ thúc đẩy đổi mới, nhiên liệu cần thiết để nền kinh tế
phát triển mạnh. Đó là môi trường đưa tới sáng tạo. Facebook đã hình
thành như vậy. Một số các công ty lớn của chúng tôi đã bắt đầu như vậy –
Vì một người nào đó có một sáng kiến mới, khác lạ. Và người đó được
quyền chia sẻ nó.
Khi có tự do báo chí, khi các nhà báo và blogger có thể rọi sáng những
bất công, lạm dụng, thì quan chức sẽ phải chịu trách nhiệm và xã hội sẽ
thêm niềm tin vào hệ thống chính trị đang vận hành tốt.
Khi ứng cử viên được tự do tranh cử và vận động, cử tri được chọn lãnh
đạo qua bầu cử tự do và bình đẳng, quốc gia sẽ ổn định hơn khi người dân
biết tiếng nói của mình có tác dụng, và một sự thay đổi ôn hòa là có
thể. Như thế, sẽ có thêm người gia nhập vào hệ thống.
Khi có tự do tôn giáo, không những con người có dịp hoàn toàn biểu lộ
tình thương và lòng từ bi là cốt lõi của mọi tôn giáo lớn, mà những cộng
đồng tôn giáo còn có thể cống hiến nhiều hơn cho xã hội qua những hoạt
động giáo dục và y tế, chăm lo những người nghèo và những người bị thua
thiệt trong xã hội.
Khi có tự do lập hội, khi người dân được tự do thành lập các tổ chức xã
hội dân sự, thì quốc gia có thể đối đầu với nhiều vấn đề mà đôi khi
Chính phủ không thể giải quyết một mình.
Do đó theo quan điểm của tôi, thượng tôn các quyền này không đe dọa mà thật ra củng cố sự ổn định, làm nền tảng cho tiến bộ.
Cuối cùng, chẳng phải các dân tộc, trong đó có Việt Nam, khi đánh đổ chủ
nghĩa thực dân, đều là để đòi các quyền đó sao? Tôi tin rằng nâng cao
các quyền đó chính là thể hiện hoàn hảo nhất sự độc lập mà biết bao
người trân trọng, kể cả ở đây, một đất nước với tuyên ngôn là "của dân,
do dân, vì dân".
Việt Nam sẽ làm khác Mỹ. Và mỗi chúng ta sẽ làm khác các quốc gia trên
thế giới. Nhưng đây là những nguyên tắc cơ bản mà tôi nghĩ chúng ta nên
cố gắng áp dụng và cải thiện.
Vì sắp kết thúc nhiệm kỳ, tôi có lợi thế đã từng suy nghiệm suốt 8 năm
về cách hệ thống của chúng tôi đã vận hành và tương tác với các quốc gia
trên thế giới ra sao, những quốc gia cũng đang không ngừng cố gắng cải
thiện hệ thống của họ.
Sau hết, tôi nghĩ quan hệ đối tác sẽ giúp chúng ta đối phó với những
thách thức toàn cầu mà không nước nào có thể giải quyết một mình. Nếu
chúng ta muốn bảo đảm sức khỏe của người dân và vẻ đẹp của hành tinh
này, thì tăng trưởng phải mang sắc thái ổn định và bền vững. Những kỳ
quan thiên nhiên như vịnh Hạ Long và hang Sơn Đoòng phải được bảo tồn
cho các thế hệ con cháu chúng ta.
Mực nước biển dâng cao đang đe dọa những bờ biển, thủy lộ, nguồn sống
của biết bao người dân Việt. Vì vậy, là đối tác trong cuộc chiến chống
biến đổi khí hậu, chúng ta cần phải tuân thủ những cam kết vừa ký ở
Paris. Chúng ta phải giúp đỡ nông dân, ngư dân và những làng mạc sống
dựa vào nghề chài lưới để họ có thể thích ứng với tình hình, và phải
mang thêm năng lượng sạch đến những nơi như đồng bằng sông Cửu Long –
vựa lúa của thế giới mà chúng ta cần để nuôi sống những thế hệ tương
lai.
Thật là một điều đáng chú ý là hai quốc gia chúng ta đã từng đối địch
với nhau, nay lại sát cánh bên nhau giúp các quốc gia khác tiến đến hòa
bình. Như vậy quan hệ đối tác của chúng ta không những song phương mà
còn cho phép chúng ta định hình môi trường quốc tế theo những cách tích
cực.
Để tầm nhìn như tôi đã trình bày hôm nay hoàn toàn trở thành hiện thực,
mọi chuyện sẽ không xảy ra trong một sớm một chiều, và cũng không phải
chuyện nào cũng là tất yếu. Có thể có những vấp váp, thụt lùi trên các
chặng đường. Sẽ có những lúc hiểu lầm nhau. Cần phải không ngừng cố gắng
và đối thoại thực sự mà cả hai bên đều chấp nhận sẵn sàng thay đổi.
Nhưng nhìn lại lịch sử và tất cả những rào cản mà chúng ta đã vượt qua,
tôi đứng đây trước các bạn ngày hôm nay, với một sự lạc quan rất lớn về
tương lai chung của chúng ta.
Niềm tin của tôi, như thường lệ, có nguồn gốc từ tình bạn và khát vọng chung của hai dân tộc.
Tôi nghĩ tới những người Mỹ và Việt đã vượt trùng dương, có những người
được đoàn tụ với gia đình lần đầu tiên sau nhiều thập kỷ, và họ đang
dang tay, mở rộng trái tim và nhìn thấy cả nhân loại trong nhau, nối
vòng tay lớn, như Trịnh Công Sơn đã viết trong bài hát của mình.
Tôi nghĩ tới những người Mỹ gốc Việt đã thành công trong mọi lĩnh vực,
những bác sĩ, nhà báo, thẩm phán, công chức... Một người trong số họ,
sinh ra ở đây, đã viết cho tôi một lá thư nói rằng "nhờ ơn Chúa, tôi đã
được sống giấc mơ Mỹ. Tôi rất tự hào là một người Mỹ nhưng tôi cũng rất
tự hào là một người Việt Nam". Hôm nay ông ta đang ở đây, trở lại mảnh
đất nơi mình sinh ra, vì ông ta nói "khát vọng của tôi là nâng cao đời
sống của từng người dân Việt".
Tôi nghĩ tới một thế hệ người Việt mới – các bạn, những người trẻ đang
ngồi đây – những người đang sẵn sàng để lại dấu ấn của mình trên thế
giới. Và tôi muốn nói với tất cả những bạn trẻ đang lắng nghe: Với tài
năng, trí thông minh, và những ước mơ của các bạn, Việt Nam đã có sẵn
trong tay tất cả những gì cần thiết để phát triển và thịnh vượng.
Vận mệnh nằm trong tay các bạn. Đây là thời điểm của các bạn.
Và trong khi các bạn theo đuổi tương lai mà các bạn muốn, tôi muốn các
bạn biết rằng nước Mỹ sẽ ở ngay bên cạnh các bạn, như một đối tác, và
một người bạn.
Nhiều năm sau này, khi càng có nhiều người Việt và người Mỹ cùng nhau
học tập, sáng tạo và kinh doanh chung, cùng nhau bảo vệ an ninh, phát
huy quyền con người và chung sức bảo vệ hành tinh của chúng ta, tôi mong
các bạn nhớ về khoảnh khắc này khi tôi chia sẻ tầm nhìn của tôi với các
bạn.
Hay là nói một cách khác, với những câu Kiều mà các bạn quá thân thuộc:
Rằng trăm năm cũng từ đây
Của tin gọi một chút này làm ghi.
Cam on cac ban. Thank you very much. Thank you, Vietnam. Thank you.
Bài bằng tiếng Mỹ do Nhà Trắng công bố
(Tại Trung tâm Hội nghị Quốc gia, Hà Nội, ngày 24-5-2016, lúc 12 giờ 11 phút ICT, giờ Việt Nam)