Bùi Quang Vơm (Danlambao) - Còn
hai ngày nữa, ngày 12/07/2016 Tòa trọng tài thường trực (PCA)
sẽ đưa ra phát xét chính thức cho phiên xử đơn kiện của
Philippines về đường lưỡi bò của Trung Quốc trên biển Đông.
Có thể tin chắc chắn rằng phán quyết của PCA sẽ ủng hộ
Philippines, bác bỏ yêu sách chủ quyền đường chín đoạn hay
đường lưỡi bò mà Trung Quốc đưa ra chỉ dựa trên “chứng cứ lịch
sử”, chiếm hơn 80% diện tích biển Đông Thái Bình Dương, nơi có
lưu lượng luân chuyển chiếm gần 50% tổng lượng hàng hoá toàn
cầu với giá trị gần 5000 tỷ USD.
Trung Quốc bị dồn vào thế bắt buộc phải lựa chọn thái độ
hành xử. Tuỳ theo từng lựa chọn, số phận biển Đông, trật tự
thế giới và an ninh toàn cầu có thể thay đổi.
Tất nhiên, trước một sự kiện, sẽ có ba khả năng xảy ra, ba phương án mà Trung Quốc lựa chọn.
- Phương án thứ nhất, Trung Quốc chấp nhận thua kiện, thừa
nhận tính phi pháp của đường lưỡi bò, muối mặt rút lại “chủ
quyền không thể chối cãi” nhưng không thể chứng minh.
Buộc phải chấp nhận giữ nguyên hiện trạng, huỷ bỏ tuyên bố
chủ quyền đối với toàn bộ biển Đông. Với phương án này, Trung
Quốc buộc phải từ bỏ giấc mơ Trung Hoa, từ bỏ “con đường tơ
lụa trên biển” và giấc mơ chia đôi Thái Bình Dương với Mỹ, quay
lại chiến lược “thao quang dưỡng hối”, hoàn chỉnh các căn cứ
tại Hoàng Sa, âm thầm hoàn thiện vũ trang các thực thể đã
chiếm được tại Trường Sa, chờ đợi giàu có lên cho đến khi bằng
và vượt Mỹ về năng lực quân sự, chờ đợi khủng hoảng của Mỹ,
khủng hoảng của thế giới các cường quốc, mai phục một khủng
khoảng toàn cầu. Trong khi tìm mọi các tăng trưởng nhanh nhất
về kinh tế, Trung Quốc sẽ tận dụng mọi cơ hội để chia rẽ thế
giới siêu cường, kích thích các mâu thuẫn giữa Nga và phương
Tây, nuôi dưỡng và duy trì khủng hoảng trung đông và giữ cho
biển Đông không có chiến tranh nhưng luôn có xung đột cục bộ,
giữ lửa để có thể bùng phát thành chiến tranh bất cứ lúc
nào có cơ hội. Đây là chủ trương của Đặng Tiểu Bình, “chủ
quyền của ta, gác tranh chấp, cùng khai thác”. Khát vọng chiếm
đoạt biển Đông không bao giờ bị từ bỏ, nhưng không được đưa ra
như một mục tiêu có hạn định thời gian.
Kịch bản này tuy vậy, lại rất khó có thể chấp nhận. Vì trên
thực tế, nhà cầm quyền Bắc Kinh, thúc đẩy bởi ảo tưởng siêu
cường sau 40 năm liền tăng trưởng, đã đi quá xa trong việc kích
đ̣ộng chủ nghĩa dân tộc, nhằm tạo ra sự cố kết quốc gia, sẵn
sàng cho một cuộc phiêu lưu. Trung Quốc đã đẩy khát vọng thành
một thứ ma tuý.
Nhưng trong một xã hội có truyền thống rời rã, bất tuân quyền
lực trung ương, lực dính kết bề ngoài, chỉ bằng khát vọng đại
Hán, là con dao hai lưỡi. Chấp nhận thất bại đường lưỡi bò
là thất bại của giấc mơ siêu cường bá chủ, là thất bại của
tính chính danh và uy thế quy tụ, tập trung quyền lực của tập
đoàn cầm quyền, nguy cơ phân rã, nội loạn và tan vỡ có khả
năng quay trở lại. Nếu quyền lực trung ương tan vỡ, “Quảng Đông,
Vân Nam, Tứ Xuyên, Tân Cương, Tây Tạng, thậm chí cả Thượng Hải,
vốn chưa bao giờ trung thành với Trung Nam Hải, có nguy cơ cát
cứ. Trung Quốc trên thực tế sẽ tan thành từng mảnh. Trong hoàn
cảnh quyền lực Trung ương mất hiệu lực, Hồng Kông sẽ xin nhập
trở lại Anh và Đài Loan sẽ tuyên bố độc lập, Tân Cương có thể
tuyên bố ly khai?!”.
Nguy hại hơn, nếu thừa nhận UNCLOS, yêu sách“chủ quyền lịch sử”
bị vô hiệu, các thực thể chiếm đoạt bằng vũ lực, cơi nới,
bồi lấp nhân tạo không được coi là căn cứ tạo ra chủ quyền,
Trung Quốc đối diện với các yêu sách của Philippines đối với
Scarborough, Việt Nam đòi lại Hoàng Sa và Trường Sa. Các vụ
kiện ra Toà quốc tế có thể sẽ chỉ mới bắt đầu và sẽ còn
tiếp tục.
Mặc dù vậy, ít ai chịu nhận rằng, đây là phương án duy nhất
tốt cho Trung Quốc. Không có quyền chủ quyền trên toàn bộ biển
Đông, nhưng bằng hữu nghị hợp tác bình đẳng, từ bỏ tư duy bành
trướng và sôvin đại Hán, thực tâm tôn trọng các quốc gia nhỏ,
đặc biệt là các quốc gia láng giềng gắn liền như Nhật Bản,
Hàn Quốc, Đài Loan, Philippines, và Việt Nam. Với tỷ trọng kinh
tế khổng lồ và sức hút các lợi ích kinh tế, Trung Quốc sẽ
làm chủ việc chia sẻ quyền kiểm soát trên thực tế không chỉ
biển Đông mà cả biển Hoa Đông. Không cần phải đối đầu công khai
với Mỹ, gây xung đột và đe dọa an ninh thế giới, thực tế Trung
Quốc vẫn có thể thực hiện chương trình “một vành đai một con
đường” mà không cần phải có quyền tài phán trên toàn bộ biển
Đông.
- Phương án thứ hai, có lẽ là phương án có "xác suất cao
nhất". TQ không thừa nhận phán quyết của Tòa và tiếp tục tuyên
bố không từ bỏ chủ quyền. Phương án này sẽ dẫn đến tuyên bố
ADIZ. Phớt lờ phán quyết của Toà, tăng cường phương tiện quân
sự đủ để kiểm soát vùng trời và vùng biển trên toàn bộ biển
Đông, bất chấp vùng hải phận quốc tế theo quy chế công ước
UNCLOS.
Cự tuyệt phán quyết của PCA, Trung Quốc sẽ buộc phải rút khỏi
UNCLOS hay trên thực tế không còn được hưởng các quy chế quốc
tế căn cứ trên UNCLOS. Thực tế, Trung Quốc tự đưa mình ra ngoài
vòng pháp luật. Không tuân thủ luật pháp quốc tế, nhưng cũng
sẽ không có tư cách để đòi hỏi được hưởng các quy chế quốc
tế. Tư cách và tiếng nói của Trung Quốc trong các tổ chức,
định chế quốc tế sẽ phải chịu áp lực.
Tuy là phương án mong muốn, vì vẫn giữ nguyên lập trường độc
chiếm biển đông, không phản bội nguyện vọng dân chúng Trung Quốc
vốn bị mê hoặc do chính chính sách tuyên truyền nhiều năm nay
của nhà cầm quyền. Nhưng ADIZ chứa đựng không ít nguy cơ thất
bại. Bằng tuyên bố vùng nhận dạng phòng không, Trung Quốc tạo
áp lực, gây phiền hà cho các hoạt động thương mại, đe dọa an
toàn đối với các phương tiện bay và tàu thuyền đi lại của rất
nhiều quốc gia liên quan.
Trừ các nước có sức mạnh kinh tế độc lập và sức mạnh quân
sự tương ứng như Nhật, Mỹ, Úc, Ấn Độ, các nước nhỏ khác thông
thường chấp nhận khai báo và xin phép Trung Quốc, một hình
thức thừa nhận chủ quyền trên thực tế. Nhưng ngay các nước nhỏ,
dù vẫn trình báo xin phép, nhưng không thừa nhận quyền chủ
quyền của Trung Quốc, và xử sự với Trung Quốc như với một bá
quyền.
Tuy vậy, tuyên bố thì dễ, điều kiện để đảm bảo hiệu lực kiểm
soát đó một cách thường xuyên và các điều kiện duy trì hiệu
lực của nó về lâu dài, một mặt là vấn đề đang vượt quá sức
của Trung Quốc, một mặt khác, đụng độ dân sự có thể sẽ diễn
ra từng ngày, gây căng thẳng cho các lĩnh vực khác trong các
quan hệ quốc gia.
Suy giảm kinh tế và thương mại hai năm vừa qua và khủng hoảng
đang đến những năm sắp tới khoét sâu lỗ hổng thâm hụt. Tham
vọng lũng đọan kinh tế chính trị thế giới bằng đồng tiền vung
tay trên khắp các lục địa, tham vọng mua bán chính trị bằng
những hứa hẹn quá trớn đang biến dự trữ ngoại hối của Trung
Quốc chỉ còn là một cái túi rỗng, thị tường tài chính của
Trung Quốc trở nên không thể bù đắp, đang là một trái hơi và
tất yếu sụp đổ.
ADIZ trên một vùng mênh mông hải không gian hàng triệu km2, suốt
ngày bão gió, xa hậu cần hàng nghìn km, với chi phí tới hàng
trăm tỷ USD một năm, có thể trở thành một vết loét rỉ máu
không có thuốc chữa.
Mặt khác, ADIZ biển Đông là sự áp đặt quyền kiểm soát của
Trung Quốc lên một phần hải phận và không phận quốc tế theo
UNCLOS, vi phạm luật pháp quốc tế và xâm phạm lợi ích quốc gia
của hầu hết các nước lớn. Những cản trở tự do sẽ lôi cuốn
rất nhiều quốc gia khác không trực tiếp với biển Đông vào cùng
một mặt trận phản đối, tạo sức ép không nhỏ trong các quan
hệ với Trung Quốc.
Mỹ sẽ buộc phải tăng cường sức mạnh quân sự. Để vô hiệu ADIZ,
hai hạm đội hàng không mẫu hạm hiện đang có mặt sẽ không đủ.
ADIZ sẽ tạo lý do chính đáng để Quốc hội Mỹ tăng ngân sách
quốc phòng cho khu vực biển Đông, và lực lượng hiện diện
thường trực tại biển Đông sẽ được tăng lên đủ để chế áp một
cuộc chiến với Trung Quốc. Nhưng mật độ phương tiện của Mỹ
họat động trên biển đông, đặc biệt những chuyến tàu tuần tra
trong ngoài ranh giới 12 hải lý các thực thể cơi nới nhân tạo
có trang thiết bị quân sự của Trung Quốc, cũng như các chuyến
bay B52 không chỉ là con số một vài như đối với Hoa Đông trước
đây, có rất nhiều khả năng xảy ra xung đột. Nguy cơ bùng phát
chiến tranh sẽ không thể chỉ coi là khả năng. Thế giới bị đặt
trước một nguy cơ bùng phát chiến tranh toàn cầu.
Liên minh Mỹ, Nhật, Úc sẽ buộc phải thực tiễn và hữu hiệu
hơn. Một mặt trận quốc tế bao gồm cả Ấn Độ, liên minh châu Âu
và NATO sẽ không chỉ thống nhất trên nhận thức và tinh thần...
Có thể hình dung gần như một cuộc cấm vận quốc tế đối với
Trung Quốc về mặt Ngoại giao và Quân sự. Quan hệ thương mại
cũng vì thế mà sẽ trở lại những rào cản bảo hộ mậu dịch,
ảnh hưởng trầm trọng thêm khó khăn xuất khẩu đang ở mức cao
hiện nay của Trung Quốc.
Thực chất, ADIZ chỉ làm cho Trung Quốc thua thiệt thêm về mặt chiến lược.
Tuy nhiên, với tâm lý thua kiện, mọi tức tối sẽ trút hết lên
đầu Philippines, tiếp đến là Việt Nam. Tổng thống mới đắc cử
Rodrigo Duterte dù muốn chuyển sang thương lượng song phương, tuyên
bố “sẵn sàng đàm phán và chia sẻ tài nguyên biển Đông” với
Trung Quốc sau phán quyết cuả PCA. Tờ China Daily phiên bản tiếng
Anh của Trung Quốc hôm 4/7 dẫn nguồn thạo tin giấu tên cho hay Bắc Kinh
sẵn sàng nối lại đàm phán với Philippines, nhưng với tiền đề là Chính
phủ mới của Philippines “phải từ bỏ một cách thực chất kết quả phán
quyết của PCA”.
Vì vậy, mặc dù Trung Quốc luôn kêu gào đàm phán song phương,
nhưng Trung Quốc sẽ không chấp nhận tha thứ. Những ai hiểu văn
hoá Trung Quốc, những ai từng đọc lịch sử thương lượng tay đôi
của Trung Quốc thì phải biết rút ra một bài học bất biến là
Trung Quốc chấp nhận đàm phán song phương không phải nhằm phát
triển hữu nghị mà là lợi dụng tiền bạc và danh nghĩa hữu
nghị để thực hiện âm mưu trả thù, bắt chính phủ và người dân
Philippines phải đền tội theo kiểu trừng phạt vốn có của người
Tàu là sẽ làm cho Philippines khốn khổ tới mức “muốn chết
không được chết”.
Trong kịch bản này, Trung Quốc sẽ tiếp tục cơi nới, bồi lấp
và trang bị các bãi đá, các rạn san hô thành các đảo nhân
tạo. Tiếp tục tăng cường kiến thiết 7 thực thể đã chiếm đọat
thành các cơ sở chủ quyền và căn cứ quân sự. Nhưng cho dù Trung
Quốc có đầu tư bao nhiêu cho Trường Sa và Hoàng Sa, nếu 21 thực
thể Trường Sa còn nằm trong tay Việt Nam, 10 trong tay
Philippines... thì việc độc chiếm biển đông còn là chuyện xa
vời. Khi đường lưỡi bò không có giá trị pháp lý, Trung Quốc
không thể tuỳ tiện “thu hồi” những hòn đảo đá còn lại. ADIZ
chỉ cho Trung Quốc cái cảm giác chủ quyền giả tạo, thực chất
chỉ là sự phiền toái, bỏ thì thương, vương thì tội.
- Phương án thứ ba, chiến tranh.
Ai cũng biết, thực chất của các tranh cãi hiện nay là xung đột
quyền lợi giữa Mỹ và Trung Quốc, đó là mâu thuẫn giữa một
siêu cường đang nắm giữ vai trò kiểm soát trật tự thế giới và
một lực lượng đang vươn lên với tham vọng phá vỡ cái trật tự
đó, chia sẻ quyền kiểm soát toàn cầu với tư cách là siêu
cường thứ hai. Trung Quốc đã không giấu diếm tham vọng đó trong
ngày 7-8/6/2013, tại khu nghỉ dưỡng Sunnylands ở Palm Springs,
California, khi Tập Cận Bình đã nói “Thái Bình Dương đủ rộng
cho cả Mỹ và Trung Quốc”, với gợi ý hình thành câu lạc bộ
siêu cường, nghĩa là thế giới chỉ còn hai quốc gia phải chia
sẻ với nhau là Mỹ và Trung Quốc. Trung Quốc muốn Mỹ hãy chấp
nhận chia đôi thế giới với Trung Quốc.
Bắt đầu từ 1909, đặt mốc chủ quyền trên Hoàng Sa; năm 1947 vẽ
đường "lưỡi bò"; năm 1956 Cộng hoà Nhân Dân Trung Hoa chiếm giữ phần
phía Đông của Hoàng Sa; năm 1958 Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ra tuyên bố
chính thức yêu sách chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa; năm
1974 chiếm nốt phần phía Tây của quần đảo Hoàng Sa; năm 1988 đánh chiếm
Gạc Ma, Côlin trên quần đảo Trường Sa; năm 1995 đánh chiếm thêm Vành
Khăn, phía Nam quần đảo Trường Sa. Tháng 5/2009 chính thức gửi công
hàm tới Liên Hợp Quốc tuyên bố chủ quyền theo đường lưỡi bò,
bắt đầu chiến dịc bồi lấp, cơi nới và lắp đặt thiết bị quân
sự, xây dựng các công trình phục vụ sinh sống dân sự.
Như vậy, ý định và âm mưu chiếm đoạt biển Đông không phải bắt
đầu từ năm 2013 khi có vụ kiện của Philippines, do đó, Trung
Quốc sẽ không vì phán quyết PCA mà thay đổi hay từ bỏ.
Có thể do phán quyết của Toà Thường trực PCA, ý đồ chính danh
đi ra biển thông qua chủ quyền lưỡi bò đã thất bại. Lựa chọn
con đường không chính danh, hay là con đường tước đoạt bằng sức
mạnh đang nằm trên mặt bàn nhà cầm quyền Trung Quốc. Không phải
Trung Quốc thua Philippines hay Việt Nam mà là do có sự hiện
diện quân sự của Mỹ. Trung Quốc đã sai về chiến thuật. Thủ
đoạn cắt lát salami cho phép Trung Quốc lấn chiếm mà tránh được
xung đột với Mỹ. Nhưng chiến thuật này quá chậm và vì vậy
mà không còn yếu tố bất ngờ. Mỹ đã kịp chuyển trục và tăng
cường từng bước năng lực thích ứng. Trung Quốc buộc phải đối
phó với bức tường chắn không thể vượt qua.
Nhưng nếu không chiếm đoạt và kiểm soát biển đông, không tạo ra
con đường thoát ra bên ngoài, thông thương với biển quốc tế, Trung
Quốc chỉ là là một con hổ bị hãm trong cũi sắt. Hai lỗ hổng
có thể chọc thủng, hai mắt xích có thể bẻ gãy là Trường Sa
của Việt Nam và Đài Loan.
Nếu Trung Quốc chớp nhoáng đánh chiếm Trường Sa lớn, Song Tử
Tây và Sinh Tồn, những thực thể có hiện diện của hải quân
Việt Nam ngay từ trước khi Mỹ bỏ cấm vận Việt Nam năm 1995,
hoặc ít nhất cũng trước khi Mỹ tuyên bố xoay trục năm 2010, thì
không cần viện ra đường lưỡi bò, thực chất biển Đông cũng chỉ
có mặt một mình Trung Quốc.
Sai và muộn, nhưng chưa phải là hết. Mỹ vẫn chưa có quyền can
thiệp đương nhiên khi xảy ra xung đột theo hiệp định an ninh tương
hỗ với Philippines, nếu Philippines không bị tấn công trước,
Philippines sẽ không có lý do để cầu cứu Mỹ, và Mỹ sẽ không
có quyền can thiệp. Như vậy, với Scarborough, Trung Quốc chỉ cần
một lực lượng đủ mạnh dàn thành bức tường ngăn, Philippines
sẽ không dám tấn công, và Trung Quốc có thể ung dung bồi lấp
cơi nới và biến nó thành một căn cứ nhân tạo. Mỹ chỉ có thể
đứng nhìn.
Còn với Việt Nam, trong khi Mỹ và Việt Nam còn chưa có một
hiệp định an ninh chung, thì khi Trung Quốc tấn công chớp nhoáng,
xoá sổ nhanh chóng và hoàn toàn sự hiện diện của bất cứ
người Việt nào trên các đảo hay đá có người trên Trường Sa, Mỹ
chỉ có thể ngồi nhìn và chấp nhận việc đã rồi. Việt Nam
không dám đơn phương công bố chiến tranh, trong khi Mỹ không có lý
do nào để tuyên chiến với Trung Quốc.
Nếu không bằng chiến tranh thì buộc Việt Nam, thậm chí cả Mỹ,
lẫn các định chế quốc tế, không làm được gì khác là kêu gọi
đàm phán. Trung Quốc đã biến các rạn san hô nửa chìm, và
những hòn đá không có sự sống thành các hòn đảo nhân tạo,
với đầy đủ trang thiết bị của mộc căn cứ quân sự bằng thủ
đoạn vừa làm vừa đàm, đàm để làm. Đàm phán sẽ chỉ đem lại
lợi thế nhiều hơn cho Trung Quốc. Thực trạng mà Trung Quốc đạt
tới hiện nay là kết quả của nghệ thuật đàm và hãm không cho
xung đột xảy ra. Mỹ biết mà không thể làm gì.
Vì vậy, phương án thứ ba là chiến tranh chớp nhoáng chiếm đoạt
Trường Sa của Việt Nam, trong khi Hà Nội lúng túng như gà mắc
tóc, giằng xé giữa chế độ và chủ quyền, lẫn lộn giữa bạn
và kẻ thù. Chiến tranh sẽ phải nổ ra trước khi Hà Nội tỉnh
ngộ và một hiệp định an ninh chung giữa Mỹ và Việt Nam được
ký kết.
Con đường thứ hai là Đài Loan. Trung Quốc vốn muốn chiếm Đài
Loan bằng chiến thuật bao vây phong toả, buộc Đài Loan không có
lối ra với thế giới, bị trói hoàn toàn vào Trung Quốc lục
địa, và bắt buộc chấp nhận sáp nhập hoà bìng vào Trung Quốc,
thực hiện chiến thuật “không chiến tự nhiên thành”.
Nhưng muốn vậy, Trung Quốc cần kiểm sóat hoàn toàn cả biển
Đông lẫn biển Hoa Đông. Thất bại đường lưỡi bò sẽ kéo dài vô
hạn con đường ra biển về phía Nam của Trung Quốc qua biển Đông,
đặt Trung Quốc trước nước cờ sáp nhập Đài Loan ngay lập tức.
Nhưng Đài Loan với xu hướng bài Trung và ly khai là một trở
ngại bất lợi sau khi đảng Dân Tiến do bà Thái Anh Văn làm chủ
tịch vừa giành ghế tổng thống. Tham vọng biến màu Đài Loan,
chuyển đài Loan thành một thứ khu tự trị, điều khiển chính
thể Đài Loan không cần một tuyên bố sáp nhập, đã thất bại
cùng với thất bại của Quốc Dân đảng. Một trong những sự kiện
điển hình là vụ cá chết tại Vũng Áng của Việt Nam. Tập đoàn
Formosa đã bị ngay chính chính phủ Đài Loan tố cáo và lật
tẩy, trong khi cổ phần cuả Trung Quốc mới chỉ đạt 39%, là một
cú đánh trực diện vào âm mưu ra biển của Trung Quốc. Chậm hơn
chỉ càng bất lợi. Trung Quốc đứng trước một quyết định sáp
nhập Đài Loan trước khi trở thành quá muộn. Mỹ sẽ tăng mạnh
sự hiện diện quân sự trong thời gian tới, và khả năng sáp nhập
Đài Loan sẽ trở nên không thể, đồng thời, xu hướng độc lập
của Đài Loan sẽ chỉ càng phát triển để tiến tới một tuyên bố
độc lập sau trưng cầu dân ý.
Một khả năng xảy ra sẽ là hoặc Việt Nam là trận địa giả, các
khiêu khích tại Trường sa sẽ tung hoả mù, cuốn hút tập trung
của Mỹ và thế giới, nhưng cuộc chiến sẽ xảy ra cấp tập giữa
hai bờ eo biển Đài Loan. Một cuộc đảo chính do Quốc dân Đảng
tổ chức có hỗ trợ từ Đại lục, sẽ lập ra chính phủ mới và
tuyên bố trưng cầu dân ý sáp nhập vào Trung Quốc, trước khi Mỹ
kịp phản ứng. Con đường ra biển sẽ tạo ra từ chỗ này, biển
Đông không còn là một nhu cầu bắt buộc. Sẽ thu hồi dần dần.
Nhưng một khả năng khác có xác suất cao hơn là khả năng sự
kiện sẽ diễn ra theo chiều ngược lại. Nghĩa là Đài Loan sẽ
chơi vai trò trận địa giả. Vũ khí sẽ ồ ạt tập trung phía bờ
biển đối diện với Đài Loan. Tuyên bố chống lại chính phủ Thái
Văn Anh sẽ liên tục với mức căng thẳng khác thường. Các vụ
đụng độ dân sự và quân sự trên biển Đài Loan sẽ có vẻ không
thể dàn xếp. Chiến tranh có thể nổ ra bất cứ thời điểm nào.
Nhưng tiên lửa lại ồ ạt bắn xuống ba hòn đảo có người ở tại
Trường Sa Việt Nam, tàu ngầm bất ngờ nổi lên tại những hòn
đảo này và quân đội Trung Quốc sẽ có mặt để đổi ngôi chủ nhân
của những hò đảo này, và chôn cất các thi thể của hải quân
và dân cư Việt Nam. Hà Nội sẽ kêu gọi “nhân dân bình tĩnh, đảng
và chính phủ sẽ kiên quyết đấu tranh và sẽ lập tức đàm
phán, yêu cầu Trung Quốc trao trả cho Việt Nam. Thiện chí hoà
bình hữu nghị của anh em trong nhà không cần bất kỳ sự can
thiệp nào từ phía thứ ba”. Mỹ khoanh tay ngồi nhìn. Ngược lại,
nếu Mỹ huy động lực lượng vào Trường Sa, Đài Loan có khả năng
bị mất luôn.
Xong cả hai việc này, Trung Quốc sẽ làm mọi việc phục vụ lợi
ích quốc gia Mỹ, sẵn sàng cho Mỹ tất cả những gì Mỹ muốn
nhân danh lợi ích quốc gia, miễn là Mỹ sẽ không tuyên bố chiến
tranh với Trung Quốc.
***
Tóm lại, sau phán quyết PCA, chẳng có gì thay đổi gọi là mới.
Vì âm mưu độc chiếm các lối thoát ra biển của Trung Quốc vẫn
còn nguyên. Nếu có gì mới thì đó là chiến tranh và nếu là
chiến tranh Trường Sa, thì tranh chấp biển đông với Việt Nam sẽ
biến mất hoàn toàn. Sẽ chỉ cò là “quyết tâm trước sau như một
của đảng và nhà nước (cộng sản)” và “nếu thế hệ này không
đòi được, thì con cháu chúng ta sẽ đòi”.
10/07/2016