Hiệp định thương mại tự do Việt Nam-Liên minh Âu châu: Cơ hội cho đảng“ trụ“ hay triển vọng dân chủ hóa đất nước?
Vũ Ngọc Yên (Danlambao)
- Việt Nam dưới chế độ độc đảng tuy đã có 40 năm hòa bình, song hiện
tại vẫn đang đối đầu trước những bế tắc kinh tế và chính trị. Bối cảnh
này thúc ép Việt Nam phải mở rộng hợp tác và hội nhập vào nền kinh tế
toàn cầu. Tham gia ký kết các hiệp định thương mại tự do (FTA) sẽ là cơ
hội cho đất nước phát triển và cải cách kinh tế và chính trị một cách
sâu rộng.
Sau ba năm thương thuyết, Việt Nam và Liên minh Âu châu (EU) đã thống
nhất về mặt nguyên tắc đàm phán Hiệp định thương mại tự do Việt Nam-Liên
minh Châu Âu (Vietnam-EU Free Trade Agreement-EVFTA) vào ngày 4.8.2015.
Sắp tới, hai bên sẽ phải giải quyết nhiều yếu tố kỹ thuật còn tồn đọng,
thông qua thương lượng và thỏa thuận, rà soát, hoàn thiện về mặt pháp lý
để ra được một văn kiện hoàn chỉnh của Hiệp định. Dự kiến hai bên sẽ
chính thức ký kết Hiệp định vào mùa Thu năm nay.
Hiệp định EVFTA được ghi nhận không chỉ tạo bước ngoặt trong quan hệ
song phương giữa Việt Nam - EU mà còn là một dấu mốc quan trọng trong
quan hệ kinh tế giữa EU và khu vực Đông Nam Á. Trong năm 2015 hai bên sẽ
kỷ niệm 25 năm thiết lập bang giao.
Tác động của Hiệp định EVFTA đối với EU và Việt Nam
EU là một liên minh kinh tế và chính trị gồm 28 nước Châu Âu. Với hơn
500 triệu dân, EU chiếm trên một phần tư tổng sản lượng nội địa GDP của
thế giới (khoảng 17.000 tỷ USD), là nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài
lớn nhất trong nền kinh tế thế giới và đạt một phần năm thương mại toàn
cầu. Cùng với Mỹ, Liên minh EU chủ trương xây dựng các khu vực kinh tế
lớn thông qua các Hiệp định thương mại tự do. Đặc biệt tại Á Châu, nơi
đang phát triển, Liên minh muốn sớm đạt được thỏa thuận thương mại với
tất cả các nước của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á - ASEAN. Hiệp định
EVFTA sẽ là một công cụ khai thông cho EU mở rộng ảnh hưởng kinh tế-
chính trị trong khu vực Đông Nam Á châu.
Sau Trung cộng, EU hiện là đối tác thương mại lớn thứ 2 và là một trong
hai thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam. Năm 2014, tổng kim ngạch
hai chiều giữa Việt Nam và EU đạt hơn 36,8 tỷ USD, tăng 9% so với năm
2013. Trong đó, xuất khẩu sang EU đạt gần 28 tỷ USD (chiếm hơn 20% tổng
lượng xuất khẩu của cả nước) và nhập khẩu từ EU đạt gần 9 tỷ USD.
EU xuất cảng qua Việt Nam các sản phẩm công nghệ cao, ô tô và phụ tùng,
máy móc và dược phẩm... Ngược lại nhập khẩu từ Việt Nam các mặt hàng:
giầy dép, cà phê, dệt may, gạo, hải sản và đồ gỗ...
Đối với EU, Việt Nam cũng như toàn bộ khu vực Đông Nam Á là một thị
trường đang phát triển có tiềm năng tiêu thụ sản phẩm và dịch vụ của EU.
Cam kết mở cửa thị trường trong Hiệp định EVFTA sẽ là một cú hích cho
hàng xuất khẩu của cả hai bên. Ngay từ ngày đầu tiên khi Hiệp định được
ký kết, một tỷ trọng lớn khoảng 65% hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam sang
thị trường EU sẽ được miễn giảm thuế. Về đầu tư, các cam kết nhằm đảm
bảo một môi trường đầu tư, kinh doanh cởi mở, thông thoáng hơn trong
Hiệp định EVFTA sẽ giúp thúc đẩy luồng vốn đầu tư chất lượng cao của EU
và cả các đối tác khác vào Việt Nam. Tính đến hết năm 2014, đã có 23/28
nước EU đầu tư vào Việt Nam với hơn 2.000 dự án còn hiệu lực, tổng vốn
đầu tư đăng ký đạt hơn 37 tỷ USD.
Các cam kết liên quan đến đầu tư, tự do hóa thương mại dịch vụ, mua sắm
của Chính phủ, bảo hộ sở hữu trí tuệ,... cũng sẽ mở ra cơ hội cho cả hai
bên tiếp cận thị trường của nhau.
Dự án Hỗ trợ Chính sách Thương mại và Đầu tư của châu Âu (EU-MUTRAP)
được triển khai trong vòng năm năm với mục tiêu giúp các doanh nghiệp
Việt Nam nâng cao khả năng đáp ứng các tiêu chuẩn chung của EU và quốc
tế như các yêu cầu tiếp cận thị trường (các quy định về vệ sinh dịch tễ
(SPS), rào cản kỹ thuật đối với thương mại (TBT)... để có thể đưa sản
phẩm vào thị trường EU được thuận lợi hơn.
Theo các chuyện gia kinh tế, Hiệp định EVFTA không chỉ đưa lại những lợi ích, trái lại nó cũng đặt Việt Nam trước nhiều thách thức.
Việt
Nam có thể bị rơi vào bẫy lương thấp vì chỉ có lợi cạnh tranh ở các
loại hàng hóa kém giá trị nhờ sản xuất dựa trên chi phí nhân công rẻ.
Trong khi EU có ưu điểm cạnh tranh ở các sản phẩm công nghệ giá trị cao.
Một khi Hiệp định thương mại được áp dụng, hàng hóa lưu thông tự do
trên thị trường sẽ dẫn tới hậu quả các doanh nghiệp Việt Nam không thể
cạnh tranh và có nguy cơ phá sản. Các chuyên gia phỏng tính một vài
nghành sản xuất như điện tử, công nghiệp ô tô, máy móc... sẽ sa thải
nhiều nhân công, trong khi các nghành giầy dép, quần áo, dệt may lại
phát triển. Lãnh vực nông nghiệp và biến chế thực phẩm cũng bị thiệt hại
nặng vì cạnh tranh.
Tác động của hội nhập cũng sẽ khác nhau ở các ngành khác nhau. Các ngành
có lợi thế (đặc biệt là dệt, may, da giày, dịch vụ công và xây dựng) sẽ
được hưởng lợi nhiều nhất, trong khi những ngành kém lợi thế hoặc lợi
thế đang suy giảm (như thịt lợn, gà, sữa, lâm nghiệp, sản phẩm gỗ, khai
khoáng, công nghiệp) sẽ bị thua thiệt trong quá trình tự do hóa thương
mại. Mặt khác sự phụ thuộc lớn của Việt Nam vào nhập khẩu và đầu tư nước
ngoài, các ảnh hưởng kéo dài của các khủng hoảng kinh tế thế giới và
những yếu kém nội tại... luôn là những yếu tố đe dọa nền kinh tế.
Ngoài ra một khi Việt Nam thực sự phát triển và trở thành đối tác quan
trọng của Mỹ và Âu châu sẽ cản trở đường lối bá quyền của Tàu Cộng, nên
nước này sẽ tìm đủ cách gia tăng gây rối ở biển Đông và khích động các
cuộc tranh chấp biên giới giữa Việt Nam và các quốc gia láng giềng.
Cơ hội cho đảng trụ hay triển vọng dân chủ hóa đất nước?
Trong thời gian qua dư luận rất kinh ngạc khi thấy giới lãnh đạo đảng và
nhà nước cộng sản Việt Nam tích cực mở rộng hợp tác với Mỹ và Âu châu
trên mọi bình diện. Dư luận đánh giá các hoạt động này chỉ là những tính
toán chiến lược tìm ngõ thoát cho chế độ độc đảng trước những áp lực
nội và ngoại chính hầu có thể tiếp tục trụ được.
Việc tham gia các hiệp định tự do của các quốc gia dân chủ (Mỹ và Liên
minh EU) giúp nền kinh Việt Nam có cơ hội tái cấu trúc, phát huy tiềm
năng. Nhờ tự do hóa thương mại, Việt Nam có thể giảm thiểu mức độ phụ
thuộc trong quan hệ kinh tế và chính trị với Tàu Cộng.
Dựa vào mối bang giao với các nước đối tác trong các hiệp định FTA để phát triển kinh tế, gia tăng GDP và cải thiện dân sinh,
Nói chung, đảng CS hy vọng qua các hiệp định thương mại, sẽ tạo được
niềm tin ở quốc tế và tính chính danh cầm quyền vốn đã không tồn tại từ
nhiều thập niên qua.
Sự tính toán có được toại nguyện hay không sẽ tùy thuộc rất nhiều vào ý
chí cải cách toàn diện và quyết tâm đặt quyền lợi tổ quốc trên quyền lợi
đảng và phe phái của đảng và nhà nước.
Nhân phẩm, quyền tự do, dân chủ, bình đẳng, pháp trị và sự tôn trọng
nhận quyền là các giá trị nồng cốt của các quốc gia dân chủ phương tây.
Vì vậy EU kỳ vọng Hiệp định thương mại tư do sẽ giúp nền kinh tế Việt
Nam khởi sắc, qua đó góp phần giảm nạn nghèo đói, giảm thiểu bất bình
đẳng trong sự phân chia phúc lợi kinh tế.
Nghị viện Âu Châu đã nhiều lần kết án Cộng sản Việt Nam đã lạm dụng luật
pháp như là công cụ hạn chế nhân quyền và các quyền tự do cơ bản của
người dân (tư do tư tưởng, báo chí và tôn giáo). Hiệp định EVFTA chỉ có
hiệu lực khi Nghị Viện Âu Châu thông qua. Hiệp định sẽ được đàm phán
lại, nếu Nghị Viện xác định tình trạng ngược đãi những người bất đồng
chính kiến và nhân quyền ở Việt Nam vẫn tồi tệ.
Ý Kiến:
- lite_breeze • một giờ trước
Tôi nghĩ nếu kinh tế Việt Nam có lên nhờ Âu Châu thì tranh chấp giành quyền lợi càng mạnh. Phe đảng giết nhau càng nhiều.
Phóthườngdân • 2 giờ trước
Nếu hiệp định thương mại giữa VN và Châu Âu được ký kết thì nền kinh tế của VN sẽ khởi sắc và đcs lại có cơ hội để trường tồn và bóc lột dân chúng lâu hơn. Còn chuyện dân chủ hóa thì không cường quốc nào, Mỹ hay Châu Âu gì cũng không tác động được đến việc thay đổi thể chế độc tài đảng trị, mà chỉ có người dân trong nước quyết định có muốn lật đổ chính quyền hay không mà thôi.