16/7/15

Quê hương tôi cứ mãi điêu linh - Kỳ 7, 8 & 9

 

 Quê hương tôi cứ mãi điêu linh (Kỳ 9)

Huỳnh Tâm (Danlambao) - Trung Cộng tiết lộ bí mật sau lưng Hồ Chí Minh.
Trong những ngày gần đây, người ta chất vấn Hồ càng ngày càng nhiều, có những nghi vấn trải rộng từ năm 1927-1969, khi Hồ còn sinh thời đã tuyên giáo quan điểm chính sách đảng và nhà nước cai trị nhân dân bằng bàn tay sắt và kỹ thuật khủng bố.
Trước đây người dân khó có cơ hội tiếp cận tìm hiểu cuộc sống của Hồ Chí Minh, qua những đặc quyền vô luật pháp, Hồ tự tung hoành theo quan điểm chính trị cá nhân đi đêm cướp nước bán cho Trung Cộng. Từ đó Hồ dâng lên cho Mao quá nhiều công trạng chính trị bí mật không ai có quyền biết đến và nghi ngờ đời riêng của Hồ, dù biết Hồ là kẻ hóa thân từ người Hán, tay luồn vào váy đầu cơ mua bán nước nhờ viện trợ sống bám họ Mao. Việt Nam không tránh khỏi nô lệ toàn diện bởi Trung Cộng cung cấp mọi phương tiện chiến tranh. Điều này nó đã nói lên lợi ích chạm vào đời sống đầu câu chuyện Hồ Chí Minh là ai? Sau này chính Mao đưa ra một đề xuất khác có bằng chứng Hồ giám điệp đặc biệt của Mao, những dữ liệu lịch sử cho chúng ta tìm thấy trong "Vừa đi đường vừa kể chuyện" của tác giả T.Lan, và "Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch" tác giả Trần Dân Tiên v.v... nhà xuất bản Sự Thật. Ngày nay Việt Công thay tên đổi họ ("ST" nhà xuất bản Chính trị Quốc gia).
Cùng thời gian Hoa Nam tiết lộ một phần sự thật của Hồ Tập Chương chính danh Hồ Chí Minh, tạo ra một cú xóc trên con đường lịch sử cách mạng ghồ ghề của đảng, đang rung chuyển mạnh, những nhà trí thức Hoa Nam gốc "Lư Sơn" cũng không hiểu thấu tình hình hiện tại, trí thức công nhân nhà nước viết sử đảng và những nhà biên khảo trong ngoài đảng lấy quyết định làm thân tôi cho "Bác" ngậm miệng ăn tiền ngủ yên, cũng vì lý cớ đó giới trí thức "Lư Sơn" tăng bốc. "Bác" đến Việt Nam từ cõi âm, ma quái thần quyền, tạo thành văn hóa miếu đình Việt Cộng.
Ngày 11 tháng 12 năm 1938 nhật báo Nichinichi Đài Loan mô tả một nhân vật bí ẩn sống ở khu vực Quảng Đông. Cò tên Hồ Tập Chương (Huji Zhang-胡集璋) làm việc tại nhà máy của Đài Loan. Chỉ còn lưu lại một ít bức ảnh do gia đình của Hồ Tập Chương (Huji Zhang) cung cấp, theo Đào Trúc Miêu (Taozhu Miao), từ khi Hồ Tập Chương gia nhập Đảng Cộng sản ở Đài Loan, hầu như tất cả các tài liệu lưu trữ của gia đình đều thiêu hủy. Sau đó Đào Trúc Miêu cho loan tải toàn bộ nội dung bài báo viết về Hồ Tập Chương sinh tại thị trấn Tân Trúc (Hsinchu) người Hẹ. Nguồn: Tài liệu Đào Trúc Miêu.
Hồ Chí Minh vẫn chưa được người đời chính thức kiểm chứng con cái nhà ai? Trước nhất người ta thấy Hồ Chí Minh đầy rẫy bí ẩn, điểm đen quá đậm không lộ ra một điểm sáng nào cho thấy sự trung thực của con người này. Ví dụ, trong quá khứ chúng ta đã biết, Hồ Chí Minh từng tuyên bố rằng "vì sự nghiệp giải phóng của nhân dân Việt Nam không bao giờ kết hôn". Nhưng những năm gần đây trong các cuộc thảo luận, tiết lộ những thiên tình sử của Hồ đã từng có vợ con với bà Tăng Tuyết Minh "Zeng Xue Ming", phụ nữ ở Quảng Đông. Tiếp theo đó ông cưới Mao Từ Mẫn, Lâm Y Lan, Nguyễn thị Xuân, Nguyễn Thị Minh Khai, Nông Thị Xuân, Đỗ Thị Lạc, Nông Thị Ngác, Nguyễn Thị Phương Mai, "Huỳnh Thị Thanh Xuân, tố cáo lần gặp Bác Hồ tôi bị mất trinh" v.v... Hồ Chí Minh đã tích tụ được một gia tài lớn cho dân tộc Việt Nam về nền học thuật làm thế nào có nhiều vợ như "Bác", để chứng minh đạo đức cách mạng Cộng sản, và tự hào tư tưởng "Cha già dân tộc". Một học thuyết Hồ Chí Minh tung hoành đã thành công máu "sở khanh" lừa dối đàn bà và nhân dân. Hồ chơi một cú đấm quá mạnh vào mặt văn hóa Việt Nam, vì thế chính Hồ trở thành "thần thánh", ngày nay những tín ngưỡng Việt Nam thờ Hồ trong chùa, lập am tự văn miếu khắp nơi, cho rằng Hồ tận tụy dâng hiến đời mình quên cả hạnh phúc cá nhân, hy sinh cho dân tộc vì ông không lập gia đình, thực chất Hồ xem những người phụ nữ chỉ là món đồ chơi qua đêm, nó chỉ là vật liệu chăn gối ủ ấm cật Hồ. Thế nhưng đảng Cộng sản và nhân dân Việt Nam vẫn tung hô tư tưởng "Bác" muôn năm, để rồi tự hào văn hóa hiện đại của dân tộc Việt Nam! Tôn thờ Hồ không vợ, không con chỉ vì dân tộc! Khiếp đảm thật, Hồ đã lừa đảo được cả dân tộc tự cho mình thông minh, mãi đến nay vẫn chưa chịu mở mắt tìm hiểu Hồ là ai mà ghê thế, vì lẽ nào toàn dân không hay, không biết. Chính tên Hồ Chí Minh dâng hiến cho Trung Cộng đất nước Việt Nam, Hồ Chí Minh đã ký vào hiệp ước "Vạn lịch niên" năm 1956, tại Vịnh Bắc Bộ.
Tháng 11 năm 2008, (Nhà xuất bản Văn hóa Bạch Tượng Đài Loan), cho phát hành cuốn sách "Hồ Chí Minh sinh bình khảo" (Thử nghiệm cuộc sống Hồ Chí Minh), của tác giả Hồ Tuấn Hùng (Hu Jun Xiong). Cuốn sách được chia thành 6 chương: 
1 - Sân khấu hài kịch (Thâu long chuyển phượng đích hý khúc)
2 - Cướp ​​vai trò sống của người khác (Kim thiền thoát xác thực giả nhân sinh)
3 - Đời phiêu bạt làm kẻ cướp (Phiêu lạc lưu lãng đích tuế nguyệt)
4 - Chạy trốn ruồng con bỏ vợ (Hôn nhân luyến tình đích bi ca) 
5 - Đích thực người Hán "Nhật ký trong tù"
6 - Kết thúc một phản xạ (Lạc mạc cảm ngôn).
Chúng tôi đồng tình phát biểu của giáo sư Hồ Tuấn Hùng (Hu Jun Xiong). Nhìn toàn diện chu đáo để sác định sự thật Hồ Tập Chương không phải Nguyễn Ái Quốc (Aiguo) bởi cá tính riêng tư và hành động không cùng một người. Sự thật Hồ Tập Chương (Huji Zhang) là người Đài Loan, vì lý do chính trị người ta dụng biện pháp "gian dối" lập Hồ Tập Chương (Huji Zhang) thay giả chơn tướng Nguyễn Ái Quốc. Hồ Tuấn Hùng cho thấy, Nguyễn Ái Quốc thành viên Đảng Cộng sản từ năm 1929-1932, phục vụ tại Viễn Đông Cục Quốc tế cộng sản ở Thượng Hải. Hồ Chí Minh hay Nguyễn Ái Quốc xuất hiện năm1890-​​1932. Và Hồ Chí Minh là Hồ Tập Chương (Huji Zhang) người Đài Loan xuất hiện vào năm 1933-1969.
Trong cuốn sách, Hồ Tuấn Hùng mạnh dạn thách đố thu thập dữ liệu lịch sử và sử dụng phương pháp giải mã tập tin, nghiên cứu so sánh một số chuyên khảo về Hồ Chí Minh cũng như một số thông tin cá nhân thu được, cố gắng để xác nhận "Nguyễn Ái Quốc người Việt, ông qua đời vào đầu năm 1932, sau khi Hồ Tập Chương xuất hiện vào năm 1933, người dân Đài Loan gốc tộc "miêu lật khách gia" (Miaoli Hakka), Hồ Tập Chương (Huji Zhang) biến hóa giả nhân một cách quá kinh ngạc!
Hiện tượng Hồ Tập Chương trong tín ngưỡng đã có những vấn đề bất chấp không tôn trọng truyền thống Từ Bi, Bác Ái, Công Bình và Dân Tộc, nay đưa thêm vào Đại Ác "Hồ Tập Chương" nguyên thủ lãnh chế độ "đao phủ thủ" được thờ phụng chung một thiên bàn thánh thiện. Tín ngưỡng Việt Nam hình như đã chấp nhận tư tưởng Mao, cho nên Việt Cộng đủ quyền đùa cợt trong lòng tín ngưỡng dân tộc Việt Nam, lạ thay người Việt Nam hời hợt dễ chấp nhận tư tưởng Đại Ác để rồi làm chân lý vượt lên trên thiêng liêng! 
Tượng Hồ Chí Minh trên bàn thờ Đức Mẹ và Thánh Giá ở Hưng Hóa. Nguồn: tài liệu Huỳnh Tâm. 
Tượng Hồ Chí Minh trước bàn thờ Phật trong Đại Nam Quốc Tự - Bình Dương. Nguồn: tài liệu Huỳnh Tâm.
Tại huyện Phổ Yên đã tổ chức Lễ đặt vòng hoa dâng hương Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Đền Mẫu, xóm Vân Dương, xã Hồng Tiến; Đền thờ "Bác Hồ" và các anh hùng liệt sĩ Việt Cộng. Nguồn: tài liệu Huỳnh Tâm.
Bình luận và cảm kích một tác phẩm.
Hồ Tuấn Hùng (Hu Jun Xiong) tuyên bố rằng ông không có ý định vì chính trị hay thương mại. Nhưng cuốn sách của Hồ Tuấn Hùng đã được xuất bản tại Việt Nam, Pháp và Hoa Kỳ gây ra các cộng đồng người Việt Nam ở mức độ phản ứng khác nhau, đã liên hệ với tác giả, riêng cộng đồng Việt Nam tại Hoa Kỳ có mời ông đến truyết trình đề tài "Hồ Chí Minh sinh bình khảo", và thậm chí còn được ủy quyền bồi thường cuốn sách nếu những ai xuất bản lậu bất cứ ngôn ngữ nào.
Hồ Tuấn Hùng (Hu Jun Xiong) còn cho biết rằng, một số người Việt Nam đến với ông qua quan điểm sự hiểu biết của mình không oán giận và còn đa tạ ông, bởi vì ông khám phá Hồ Chí Minh là người Hẹ quê ở Đài Loan có những bất lợi lịch sử của dân tộc Việt Nam, người Việt Nam cần quan tâm đến đất nước nhiều hơn.
Hồ Tuấn Hùng (Hu Jun Xiong) nói rõ ràng là khi ông tuyên bố chính thức về Hồ Tập Chương, chính phủ Việt Nam vẫn chưa trả lời điều này, đồng nghĩa và công nhận sự thật của Hồ Tập Chương. Đối với chính phủ Việt Nam không ý thức được điều này, nói khác hơn, hoặc cảm thông bởi sự thật nó đã bày ra ánh sáng, nếu bác bỏ sự thật nhân dân Việt Nam sẽ đẩy "Bác" ra lề đường, không còn đình miếu tư tưởng của "Bác" vì có nhiều lý do quá bất tiện cho đảng trong lúc này, thôi đảng ta đành chịu "kết cỏ ngậm vành", bỏ oán, biết ơn Hồ Tuấn Hùng (Hu Jun Xiong).
Tuy nhiên, có một vài tiếng nói của dân gian nghi ngờ. Thứ nhất, động lực rất đáng ngờ của tác giả. Theo lời của chính tác giả, ông đã cố gắng để "chứng minh Hồ là ai" bởi động lực hoàn thành do mong muốn của cha mình, "Hồ Tập Chương (Huji Zhang) chính là chú trên danh tính thực sự". Kết luận điển hình đầu tiên, nhìn từ quan điểm của những nghiên cứu học thuật, nó có giá trị tìm ra một nhân vật bị vẽ vời nhào nặn dung thành Hồ Chí Minh, thêm vào huyền thoại, trong khi ấy Hồ quá tầm thường. Ngoài ra, mặc dù tác giả tốt nghiệp khoa Lịch sử của Đại học Đài Loan, nhưng ông đã có công lơn liên quan biên soạn "Sách Thay đổi", "Phong thủy" và "Siêu hình học", nỗ lực nghiên cứu của ông, kết quả để lại một số lớn thuyết phục được độc giả. 
Cuốn sách "Hồ Chí Minh sinh bình khảo" (Thử nghiệm cuộc sống Hồ Chí Minh) gây tranh cãi nhiều nhất một vài điểm. Chúng tôi xin giới thiệu ngắn gọn sau đây.
1 - Năm 1932, Nguyễn Ái Quốc đã thực sự chết chưa?
Đây là một vấn đề trước và sau năm 1932, "Nguyễn Ái Quốc" là một câu hỏi quan trọng không phải là cùng một người.
Trong cuốn sách "Hồ Chí Minh sinh bình khảo", Hồ Tuấn Hùng dựa vào lịch sử có thật của Nguyễn Ái Quốc và khẳng định Nguyễn Ái Quốc "đã có bệnh lao lâu năm", thậm chí Nguyễn thừa nhận sức khoẻ đã yếu đuối từ những năm 1930. Ngoài ra, tác giả cũng trích dẫn một số thông tin đầu tiên (hồ sơ thông tin chính thức của cảnh sát an ninh Pháp, xác định "Nguyễn Ái Quốc đã chết vào năm 1933"), còn những điểm sau đây: Năm 1931, trong tháng sáu (6) Nguyễn Ái Quốc bị bắt ở Hồng Kông. Từ năm 1932, chính quyền phát hiện Nguyễn Ái Quốc từ Hồng Kông đến Singapore, cũng cùng năm 1932, Nguyễn Ái Quốc ở Singapore bị bắt một lần nữa, đưa trở lại Hồng Kông và giam vào ngục tù, sau đó Nguyễn Ái Quốc chết trong nhà lao Hồng Kông.
Phương tiện truyền thông chính thức của Trung Cộng cho loan tải sự bí ẩn Nguyễn Ái Quốc biến mất. Tuy nhiên một số tờ báo của Anh, Pháp, Liên Xô và những tờ báo khác đồng loan tải một thông điệp Nguyễn Ái Quốc đã thực sự chết tại nhà tù Hồng Kông. Sinh viên Việt Nam tại Đại học Phương Đông Moscow, cũng đã tổ chức một đám tang và lễ tưởng niệm Nguyễn Ái Quốc. Bỗng dưng 10 năm sau, Nguyễn Ái Quốc ngày trước đã chết hôm nay sống lại. Cho đến ngày 06 tháng 6 năm 1941, lần đầu tiên Nguyễn Ái Quốc ban hành một sắc lệnh "gửi cho đồng bào dân tộc", do Hồ dẫn dắt cách mạng, nhân dân Việt Nam đấu tranh dành độc lập.
Hồ Tuấn Hùng cho biết: đây là một trong muôn ngàn "gian dối" hàng đầu của Quốc tế cộng sản. Ông tin rằng bằng cách phẫu thuật làm cho một loạt các thông tin Quốc tế cộng sản sai lệch: như mùa xuân năm 1932, Hồ Tập Chương "chạy trốn đến Hạ Môn rồi nửa năm hồi hương". Đầu năm 1933 "Từ Thượng Hải đến Moscow", năm 1933 "Nguyễn Ái Quốc và những người bạn Pháp Paul Vaillant cổ Aguri gặp nhau tại Thượng Hải" và cứ như vậy xào nấu, phẫu thuật thông tin cho đến khi xuất hiện tên Hồ Chí Minh.
Hồ Tuấn Hùng cho biết: theo Hồ Chí Minh đã nói, "vào đầu năm 1933 ông đến Hạ Môn", cho thấy, chính Hồ là nhà sản xuất "thông tin sai lệch" rõ ràng là ông không bị thương thích hay bệnh hoạn. Đối với những năm 1932-1941 và thông tin hiện có về Hồ Chí Minh, bạn đọc cần thu hút vào lòng một kiến thức lịch sử để bổ sung cho những thông tin sau khi kiểm tra lại chân tướng Hồ Tập Chương.
Những quan điểm của mọi người đôi khi đối lập với Hồ Tuấn Hùng, sau đó tôi tin rằng Nguyễn Ái Quốc không còn tồn tại vào năm 1932", vì bị tử hình" dữ liệu và báo cáo khác nhau, bởi vì "điệp viên Nguyễn Ái Quốc trốn sang Pháp" và "cố ý bịa đặt tin tức sai lệch". Nguyễn Ái Quốc trong những năm 1920 và 1930 là một trong những người có ảnh hưởng Cộng sản Mao, và đã tạo ra tin tức sai lệch như vậy không phải là khó khăn, mặc dù không phải là một trong những chi tiết được biết đến bên ngoài, nhưng bây giờ tôi tin rằng tất cả các bên chấp nhận Hồ Tuấn Hùng có khả năng giải phẫu sự "gian dối" của Cộng sản Quốc tế, do đó những lãnh tụ Cộng sản chấp nhận đạo diễn của "Revival" và thông tin không giống nhau, cho nó có được chính danh Nguyễn Ái Quốc, vì vậy ban tuyên giáo (học sinh) Mao, dựa trên phương tiện truyền thông và báo cáo không chính thức, tất cả đều tôn trọng bộ nhớ hồ sơ của Nguyễn Ái Quốc dù sau này có bị sụp đổ tên tuổi nhà cách mạng, hồ sơ đã nấu thành cơm. Ngoài ra, cuộc đời Hồ Chí Minh đã đến nhiều thành phố ở nhiều quốc gia, mặc dù bản thân ông năm sau nhớ lại một số lỗi lầm sự di chuyển, nhưng cũng hoàn thành sứ mạng Quốc tế Cộng sản nhờ báo cáo "gian dối".
Muốn biết ai là Nguyễn Ái Quốc, Lý Thụy, Hồ Quang, Hồ Tập Chương, Hồ Chí Minh hãy tìm hiểu kỹ thuật băng rộng ký lục âm thanh. Nguồn: tài liệu Huỳnh Tâm.
Trung Quốc nhanh chóng đưa thông tin "gian dối" về Hồ Chí Minh.
Giáo sư Uy Liêm viết, "Truyện ký Hồ Chí Minh" (xuất bản năm 2001) và phó giáo sư của Đại học Temple Mỹ Sophie Quinn-Judge viết cuốn sách "Hồ Chí Minh đã biến mất năm 1919-1941" (xuất bản 2003), có đề cập một số năm Hồ Chí Minh bí ẩn biến mất.
Theo Hồ Tuấn Hùng, phân loại những cuốn sách này thấy Hồ Tập Chương hiện nguyên hình người Trung Quốc, và do đó tin rằng năm 1927 Hồ Tập Chương có kỹ năng đọc và viết tiếng Trung Quốc không hạn chế, nếu như năm 1927 Nguyễn Ái Quốc đi lang thang và bị bệnh tật, làm thế nào có thời gian và khả năng để học tiếng Trung Hoa, và viết "Nhật ký trong tù" trên cấp độ cao học của người Trung Quốc và mức độ ngôn ngữ "thư pháp" Trung Quốc của Hồ Chí Minh, không thể tin được những bịa đặt quá nhiều điều thiếu thực tế. Ngoài ra, Hồ Tuấn Hùng nói, "Nhật ký trong tù" của tác giả người Khách Gia (Hakka). Tuy nhiên, đối thủ của tầm nhìn sắc nét như nhau. Đối với khả năng Hồ Tuấn Hùng nghi ngờ Nguyễn Ái Quốc là người Trung Quốc, Hồ Tuấn Hùng nhất định cho rằng luận tập thơ "Nhật ký trong tù" của một người Khách Gia (Hakka), cùng có vấn đề, bởi vì một số tiếng cổ xưa của "Hakka dùng phương ngữ biến thành một nhân vật độc nhất vô nhị", chẳng hạn như "lồng", "rửa" v.v... chuyển hóa phổ biến các ngôn ngữ Việt, bên cạnh "Nhật ký trong tù" Hồ Chí Minh như được phản ánh trong một số trò chơi "sách tự", ám chỉ lịch sử của Trung Quốc cũng như một số nhân vật nổi tiếng làm thơ bí truyền, do đó người dân Trung Quốc hay Hakka trên bình thường không thể viết được thành thạo như "Nhật ký trong tù". Ngoài ra, cuốn sách cũng bao gồm một số tranh cãi về những cảm xúc cá nhân và kinh nghiệm sống di dời. Hồ Chí Minh còn do hạn chế về không gian và thời gian, điều này không ai để ý về sự "gian dối" của "Nhật ký trong tù".
2 - Tác giả của cuốn sách chấp nhận và nắm bắt tranh cãi.
Trong thực tế, Hồ Chí Minh là một nhà Cộng sản, có một số bí ẩn mơ hồ nên được coi là bình thường trong cuộc sống gián điệp của mình. Vào đầu những năm 1990, cuốn sách "Nhật ký trong tù" của Hồ Chí Minh được xuất bản, nhà biên khảo Lê Hữu Mục ở Canada đã cho biết "Nhật ký trong tù" không phải của Hồ Chí Minh. Nhưng Lê Hữu Mục không có bằng chứng mạnh mẽ để chứng minh, do đó, hầu hết mọi người nghĩ rằng Lê Hữu Mục đưa ra tin đồn. Nhưng so với các cuốn sách của Hồ Tuấn Hùng, cần phải nói thêm rằng một bước thứ hai làm sáng tỏ hơn. Tiếp theo cuốn sách cung cấp một số dữ liệu lịch sử, và có được những chứng minh. Từ quan điểm nghiên cứu học thuật, Hồ Tuấn Hùng lập luận có phương pháp mạnh mẽ, đưa cuốn sách ra vấn đề "cha gia dân tộc" dỗm, mà còn cho các nhà nghiên cứu sau này có rất nhiều cảm hứng, góp phần nghiên cứu thêm về Hồ Chí Minh.
Có một số người nghĩ rằng, mặc dù cuốn sách Hồ Tuấn Hùng thiếu một số bằng chứng trực tiếp, và cung cấp rất nhiều bằng chứng gián tiếp. Nhưng khi đọc cuốn sách, hầu hết trong số họ vẫn còn khó khăn để đồng ý rằng Hồ Tập Chương chính quê Đài Loan, thậm chí Hồ Tuấn Hùng đã hoàn toàn nắm bắt đúng nhược điểm của Hồ Tập Chương.
Nói chung, Hồ Chí Minh có nhiều chứng minh trên những sự kiện lịch sử rõ ràng và mổ xẻ về cuộc đời Hồ Chí Minh rất đầy đủ trong bức màn bí ẩn. Chỉ còn phá vỡ những rào cản về thời gian và không gian, với hỗ trợ trong các tài liệu lịch sử, để đưa Hồ Chí Minh trở lại hiện trường tội ác, tất nhiên không phải dễ dàng vì kinh nghiệm Quốc tế Cộng sản dựng lên Hồ Chí Minh bằng huyền thoại. Muốn phá vỡ các nguồn truyền thống của Cộng sản để tìm Hồ Chí Minh phải thông qua Quốc tế Cộng sản, KGB và Hoa Nam. Tuy nhiên tất cả chúng nó cũng phải đầu hàng theo thời gian.
23/07/2015
______________________________________

- Quê hương tôi cứ mãi điêu linh (Kỳ 8)Quê hương tôi cứ mãi điêu linh (Kỳ 8)

Huỳnh Tâm (Danlambao) - Giấc mơ của Việt Cộng bán hết Biển Đông.
(A) Theo tài liệu, Trung Cộng rất cần có trên tay chủ quyền quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa một trong ba quần đảo quan trọng nhất Biển Đông, sau khi có được nó sẽ thuộc một phần của tỉnh đảo Hải Nam nằm ở phía đông Nam. Cách trung tâm đảo Vĩnh Hưng (Yongxing), khoảng 330 km từ thành phố Tam Á Thị Du Lâm Cảng (Sanya Yulin Gang), cách khoảng hơn 330 km đi từ Văn Xương huyện Thanh Lan Cảng (Qinglangang). Quần đảo Hoàng Sa có diện tích hơn 50 triệu km vuông biển, tổng cộng hơn 40 đảo và đá ngầm, tập trung vào hai nhóm: nhóm nhiều đảo nhất là Thiên Đường phương Tây gọi là đảo (Paradise). Ba trong các quần đảo ở Biển Đông, Hoàng Sa lộ thiên đất đai phì nhiêu, liên kết cụ thể với 22 hòn đảo, bảy bãi cát, tổng diện tích đất khoảng 10 km vuông.
Diện tích quần đảo Hoàng Sa, đất đảo được biết đến do ngư dân Việt Nam thường trú đặt tên từng hòn đảo, bãi cát, đá ngầm, đảo san hô, cồn cát, rạn đá ngầm và bãi ngầm:
1 - Quần đảo Hoàng Sa (Paracel Islands) cách lục địa Việt Nam 180 hải lý, cách hải phận Quốc tế 20 hải lý (vùng biển kinh tế của Việt Nam 200 hải lý). Quần đảo Hoàng Sa nằm trong một phạm vi khoảng 15.000 km2, giữa kinh tuyến khoảng 111 độ Đông đến 113 độ Đông, khoảng 95 hải lý, (1 hải lý=1,853 km), từ 17°05’ xuống 15°45’ độ vĩ Bắc, khoảng 90 hải lý; xung quanh là độ sâu hơn 1000m, giữa các đảo có độ sâu thường dưới 100m.
2 - Nhóm đảo An Vĩnh (Amphitrite Group), bao gồm các thực thể địa lý ở phía đông bắc của quần đảo. Nhóm này bao gồm đảo Bắc, đảo Cây (đảo Cù Mộc), đảo Trung (đảo Giữa), đảo Đá, đảo Linh Côn, Đảo Nam, đảo Phú Lâm, đá Bông Bay, cồn cát Bắc, cồn cát Nam, cồn cát Tây, cồn cát Trung, hòn Tháp, đá Trương Nghĩa, bãi Bình Sơn, bãi Châu Nhai, bãi Gò Nổi, bãi Quảng Nghĩa, bãi Thủy Tề,...
Theo Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú, An Vĩnh là tên một xã vào thời chúa Nguyễn (Đàng Trong), thuộc huyện Bình Dương (tức huyện Bình Sơn) phủ Tư Nghĩa trấn Quảng Nam (Tư Nghĩa tức phủ Hòa Nghĩa, đến thời nhà Nguyễn thì trở thành tỉnh Quảng Ngãi). Sách Đại Nam thực lục (tiền biên, quyển 10) ghi chép về xã này như sau:
Ngoài biển xã An Vĩnh, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi có hơn 100 cồn cát... chiều dài kéo dài không biết tới mấy ngàn dặm, tục gọi là Vạn lý Hoàng Sa châu... Hồi quốc sơ đầu triều Nguyễn đặt đội Hoàng Sa gồm 70 người lấy dân xã An Vĩnh sung vào, hàng năm cứ đến tháng ba cưỡi thuyền ra đảo, ba đêm thì tới nơi... Quốc sử quán (triều Nguyễn). Tên quốc tế của nhóm đảo là Amphitrite. Tên này là đặt theo tên một chiếc tàu Pháp trên đường đưa các giáo sĩ Châu Âu sang Viễn Đông, gặp nạn rồi đắm ở vùng Hoàng Sa vào cuối thế kỷ 17 .
Nhóm Lưỡi Liềm
Nhóm đảo Lưỡi Liềm (Crescent Group) quần đảo Vĩnh Lạc bao gồm các thực thể địa lý ở phía tây nam của quần đảo. Nhóm này còn được gọi là nhóm Trăng Khuyết hay nhóm Nguyệt Thiềm. Nhóm Lưỡi Liềm bao gồm đảo Ba Ba, đảo Bạch Quy, đảo Duy Mộng, đảo Hoàng Sa, đảo Hữu Nhật, đảo Lưỡi Liềm, đảo Ốc Hoa, đảo Quang Ảnh, đảo Quang Hòa, đảo Tri Tôn, đá Bắc, đá Chim Én (Yến), đá Hải Sâm, đá Lồi, đá Sơn Kỳ, đá Trà Tây, bãi Đèn Pha, bãi Ngự Bình, bãi Ốc Tai Voi, bãi Xà Cừ...
3 - Nhóm Lưỡi Liềm (Trăng Khuyết/Nguyệt Thiềm) Crescent Group.
5 - Đảo Bạch Quy (Passu Keah) 16°03′23″B 111°45′43″Đ, cồn cát chỉ chiếm diện. tích rất nhỏ so với toàn bộrạn san hô vòng (rạn vòng).
6 - Đảo Bắc, (North Island) tọa độ địa lý 16°57′50″B 112°18′34″Đ, đảo san hô.
7 - Đảo Cây, Tree Island) tọa độ địa lý 16°58′47″B 112°16′16″Đ, đảo san hô.
8 - Đảo Duy Mộng (Drummond Island) tọa độ địa lý 16°27′50″B 111°44′30″Đ, đảo san hô.
9 - Đảo Đá (Rocky Island) tọa độ địa lý 16°50′40″B 112°20′50″Đ, đảo đá.
10 - Đảo Hoàng Sa (Pattle Island) tọa độ địa lý 16°32′5″B 111°36′30″Đ, đảo san hô.
11 - Đảo Hữu Nhật (Robert Island) tọa độ địa lý 16°30′20″B 111°35′10″Đ, đảo san hô.
12 - Đảo Linh Côn (Lincoln Island) tọa độ địa lý 16°40′B 112°44′Đ, đảo san hô.
13 - Đảo Nam (South Island) tọa độ địa lý 16°56′50″B 112°20′5″Đ, đảo san hô.
14 - Đảo Ốc Hoa, tọa độ địa lý 16°34′30″B 111°40′30″Đ, cồn cát/đê cát.
15 - Đảo Phú Lâm (Woody Island) tọa độ địa lý 16°50′B 112°20′Đ, đảo san hô.
16 - Đảo Quang Ảnh (Money Island) tọa độ địa lý 16°26′50″B 111°30′20″Đ, đảo san hô.
17 - Đảo Quang Hoà (ngư dân Việt Nam quen gọi là Đảo Trụ Cẩu) (Duncan Island) tọa độ địa lý 16°27′5″B 111°42′45″Đ, đảo san hô.
18 - Trong đó: Đảo Quang Hoà Tây (Palm Island) tọa độ địa lý16°27′8″B 111°42′3″Đ, cồn cát.
19 - Đảo Tri Tôn (Triton Island) tọa độ địa lý 15°47′0″B 111°12′0″Đ, đảo san hô.
20 - Đảo Trung (Middle Island) tọa độ địa lý 16°57′20″B 112°19′30″Đ, cồn cát.
21 - Cồn cát Bắc (North Sand) tọa độ địa lý 16°56′20″B 112°20′30″Đ;
22 - Cồn cát Nam (South Sand) tọa độ địa lý 16°55′45″B 112°20′45″Đ, cồn cát.
23 - Cồn cát Tây (West Sand) tọa độ địa lý 16°58′40″B 112°12′50″Đ, cồn cát.
24 - Cồn cát Trung (Middle Sand) tọa độ địa lý 16°56′0″B 112°20′40″Đ, cồn cát.
25 - Hòn Tháp (Pyramid Rock) tọa độ địa lý 16°34′13″B 112°38′11″Đ, hòn đá nổi.
26 - Đá Bắc (North Reef) tọa độ địa lý 17°06′B 111°30′Đ, rạn vòng.
27 - Đá Bông Bay (Bombay Reef) tọa độ địa lý 16°02′B 112°32′Đ, rạn vòng.
28 - Đá Chim Én (Vuladdore Reef) tọa độ địa lý 16°20′B 112°01′Đ, rạn vòng.
29 - Đá Hải Sâm (Antelope Reef) tọa độ địa lý 16°27′B 111°35′Đ, rạn vòng. Ở góc đông nam có một cồn cát nhỏ.
30 - Đá Lồi (Discovery Reef) tọa độ địa lý 16°14′B 111°40′Đ, rạn vòng.
31- Bãi Bình Sơn (Iltis Bank) tọa độ địa lý 16°46′B 112°13′Đ, bãi ngầm.
32 - Bãi Châu Nhai (Bremen Bank) tọa độ địa lý 16°20′0″B 112°25′40″Đ, bãi ngầm.
33 - Bãi Gò Nổi (Dido Bank) tọa độ địa lý 16°49′B 112°53′Đ, bãi ngầm.
34 - Bãi Quảng Nghĩa (Jehangire Reefs/Bank) tọa độ địa lý 16°19′40″B 112°41′10″Đ, cụm rạn san hô/bãi ngầm.
35 - Bãi Ốc Tai Voi (Herald Bank) tọa độ địa lý 15°43′B 112°13′Đ, bãi ngầm.
36 - Bãi Thuỷ Tề (Neptuna Bank) tọa độ địa lý 16°32′0″B 112°40′30″Đ, bãi ngầm.
37 - Bãi Xà Cừ (Observation Bank) tọa độ địa lý 16°34′45″B 111°42′15″Đ, rạn san hô, trên đó có một cồn cát nhỏ.
41 - Bãi Đèn Pha tọa độ địa lý 16°32′B 111°36′Đ
43 - Ngân Dự Tử tọa độ địa lý 16°35′B 111°42′Đ.
44 - Hàm Xá dự tọa độ địa lý 16°33′B 111°43′Đ.
45 - Khuông Tử sa châu tọa độ địa lý 16°27′B 111°38′Đ.
46 - Đông Tân sa châu tọa độ địa lý 16°55′B 112°21′Đ.
47 - Tây Tân sa châu tọa độ địa lý 16°55′B 112°21′Đ.
Những nhóm rạn san hô và bãi cát nhỏ:
48 - Đảo Kim Ngân 0.36 km
49 - Đảo Luân, đảo La Bá, đối đầu vòng 0.30 km
50 - Đảo san hô Lão Thố, Hương Hạ Nhân Chí 0,31 km
51 - Khúc Thủ Phong Phú có 0.02 km
52 - Áp Đảo (Vịt Đực) 0,01 km
53 - Trường Đảo Long hố bạc 0.01 km
54 - Đảo Bạc 2000 (mét vuông)
55 - Đảo Chí 3000 (mét vuông)
56 - Đảo Đá 2000 (mét vuông)
57 - Bốn Đảo Kính Tình, Giang Môn, Giang Chi Đảo, Giang Trị Thế 0.21 km
58 - Đảo Chân Máy, Chân Máy Đảo Lớn, 0,28 km
59 - Trí Quang (Zhi Guang) hay đảo vàng chân máy, chân máy nhỏ Đảo 0.06 km
60 - Đảo Đá Cây Trắng (Aberdeen), rạn san hô trắng 0.40 km
61 - Đảo Nửa Chừng, 1.20 km
62 - Đảo Vĩnh Hưng (Yongxing) Đảo Cát 2.10 km
63 - Đảo Tiểu Ba (Isle minibus) Đảo 0.08 km
64 - Đảo Nam Ba 0,17 km
65 - Đảo Hai Hòn 0.13 km
66 - Đảo Trường Trị Bắc (Changzhi North Island), đảo trường Long Island 0.04 km
67 - Đảo Triệu Cây 0.22 km
68 - Đảo Đông Cát 0.60 km
69 - Đá Nhọn, Đôi Cánh Buồm 0.04 km
70 - Giỏ Dải Cát Đối Đầu 0.01 km
71 - Dải Cát Mới 4000 (mét vuông)
72 - Tây Phương Tân 2000 (mét vuông)
73 - Nam Thủy Châu 0.06 km
74 - Bãi Cát 0.05 km
75 - Dải Cát Bắc 0.02 km
76 - Tây Châu Sa 0.04 km
Việt Cộng bác bỏ đề nghị Việt Nam Cộng Hòa lên án vụ Trung Cộng chiếm Hoàng Sa, Hồ Chí Minh phải chịu hoàn toàn trách nhiệm. Nguồn: báo Chính Luận và Đông Phương, tài liệu Huỳnh Tâm.
Ngoài những đảo bãi cát trên mực nước biển Hoàng Sa, có hơn 10 rạn san hô bầy ẩn. Trong các rạn san hô, đảo lớn nhất Vĩnh Hưng 2.10 km vuông, chỉ đứng thứ hai hòn đảo phía đông của 1,60 km vuông, đảo Hải Vệ Nhất 1,20 km vuông, và phần còn lại có 0,4 km vuông hoặc ít hơn; Rạn đảo độ cao cao nhất 13 mét, 9 mét còn lại, thường là 1-5 mét. Tiêm Thạch cao trên mực nước biển là hòn đảo của núi lửa duy nhất.
Quần đảo Hoàng Sa nằm trong vùng nhiệt đới, khí hậu gió mùa trung, nóng và ẩm, nhưng không có nhiệt. Đảo Vĩnh Hưng, nhiệt độ cực cao 34,9°C, nhiệt độ cực thấp 15,3°C, nhiệt độ trung bình hàng năm là 26,5°C. Lượng mưa hàng năm 1505 mm. Quần đảo Hoàng Sa dễ bị tổn thương nhất đối với cơn bão lớn trong khu vực.
Quần đảo Hoàng Sa là một trong những ngư trường nổi tiếng nhất biển Đông và lan rộng dầu khí trong những rạn san hô, có nhiều giống hải sản phong phú quý hiếm, thu hút một số lượng lớn ngư dân Việt Nam sống nhờ ngư trường bạc biển, hoạt động quanh năm bốn mùa theo ngư sản quý hiếm.
Đảo Phú Lâm (Vĩnh Hưng).
Chính quyền Việt Nam Cộng Hòa xem hai quần đảo Hoàng Nam và Trường Sa lớn hơn một đại đồ biển đảo trung tâm chiến lược Biển Đông, một lộ trình hàng hải của Thái Bình Dương cực kỳ quan trọng, tụ điểm phát triển quốc phòng và kinh tế, diện tích 2,10 km vuông, lớn nhất trong các đảo ở Biển Đông. Trên những hòn đảo có thực vật bảo vệ đất, nguồn nước, sinh vật cây hoa, thú vật hoang dã ở khắp mọi nơi, mực nước biển trong xanh, "chim bay cá lặn" viễn tượng cho những thế hệ mai sau một thiên nhiên giàu và đẹp một sức sống hoành tráng nhất của vùng Thái Bình Dương.
Giá trị của đảo Phú Lâm ví như thủ đô của quần đảo Hoàng Sa, quần đảo một cơ quan chính quyền kinh tế Biển Đông. Nơi đồn trú quân bảo vệ trong và ngoài lãnh thổ, lãnh hải của đất nước Việt Nam. Chính quyền địa phương thực hiện bảo vệ chủ quyền, tài phán vùng biển cho hậu thế, đồng thởi cam kết thúc đẩy nền văn hóa đảo và phát triển xã hội kinh tế biển của Việt Nam.
Đảo Phú Lâm tọa lạc phía tây nam của trung tâm giao thông tàu thuyền trong khu vực quần đảo cát. Lịch sử lâu đời nhất của đảo Phú Lâm đã được thành lập trước thế kỷ 17, trung tâm của các đường giao thông trên biển, ngư dân của Việt Nam đã đi thuyền đến khắp quần đảo Hoàng Sa, và quần đảo Trường Sa, quần đảo Trường Sa là nơi quá cảnh của đảo Phú Lâm. Ngoài các đội tàu đánh cá, vận chuyển hàng hải quy mô có khả năng cặp bến trung chuyển tại đảo Phú Lâm cũng là một trung tâm kinh tế trù phú nhất của thiên nhiên. Ngoài các chức năng quản lý kinh tế nhờ có sức mạnh của biển Đông. Nếu Việt Nam có khả năng lớn sẽ phát triển một số lượng lớn các đảo làm nơi chuyển vật liệu phân phối và xây dưng nền kinh tế-xã hội rất nhanh chóng, những đảo đá ngầm trong vùng đã đóng một vai trò chiến lũy tự nhiên, đồng thời có vai trò bức xạ hàng đầu an ninh và kinh tế.
Việt Cộng bán đảo Phú Lâm không khác nào mạch máu rời khỏi thân người để lại một xác thân khô, có ai đau lòng không nhỉ ? Nguồn: tài liệu Huỳnh Tâm.
Không may cho dân tộc Việt Nam, Việt Cộng đã bán đảo Phú Lâm và trọn gói Hoàng Sa cho Trung Cộng, họ nhanh chóng xây dựng đảo Phú Lâm thành thị trấn, phát triển công nghiệp sản xuất hải sản, giao thông vận tải, bưu chính viễn thông, thương mại bán lẻ, cung cấp nguyên liệu và tiếp thị, tài chính và bảo hiểm, dịch vụ nhà ở và rất nhiều ngành công nghiệp khác của nền kinh tế Trung Cộng đã và đang phát triển nhanh chóng; Dịch vụ sức khỏe đảo, phát thanh, điện ảnh và công nghiệp truyền hình, nghiên cứu biển khơi, dự báo khí tượng, phát triển xã hội, văn hóa, du lịch, như vậy họ đã phát triển không ngừng; hòn đảo này đã hoàn thành nhà máy điện, cảng, sân bay, bệnh viện, lọc nước, kho đông lạnh, tòa nhà dịch vụ thương mại, cao ốc văn phòng, xây dựng khu dân cư v.v... tạo thành cơ sở sản xuất phục vụ xã hội có đời sống hoàn hảo theo mô hình Hồng Kông. Ngày nay đảo Phú Lâm không nằm trong giấc mơ của dân tộc Việt Nam, nó đã là trung tâm giao thông hàng hải của Trung Cộng.
Trước khi Việt Cộng bán đảo Phú Lâm cho Trung Cộng cũng đã tuyên bố: "dân tộc Việt Nam không dược quyền hưởng phúc lợi của đảo Phú Lâm". Ngày nay Việt Cộng thấy thế nào, đủ ô nhục chưa? Dân tộc Việt Nam có đau lòng không khi đảo Phú Lâm đã thuộc về Trung Cộng ?

Thời thanh bình của quần đảo Hoàng Sa.
Quần đảo Hoàng Sa ở phía đông có đảo Phú Lâm 60 km, diện tích 1,60 km vuông, các đảo ở Biển Đông nổi tiếng với nhiều loài chim biển, người ta khai thác những "Đảo Yến". đảo Yến Hòn Nội Nha Trang, đảo Yến Hội An, đảo Cù Lao Chàm, đảo Yến Phương Mai Bình Định. Năm 1971 phát hiện "Đảo Điểu" có nhiều cây Ma Phong Tùng bản lớn, lá ngắn cành thưa, phát triển thành một khu rừng, nơi sinh sống chính của Điểu Trắng; xung quanh các hòn đảo có suốt "Thảo Hải Đồng", cây Tóc Bạc và nhiều loại cây khác; cây dừa trồng lâu năm, phi lao v.v... và có những loài hoa tự nhiên sống khắp mọi nơi. Toàn bộ hòn đảo tươi tốt, xanh, đẹp ngoại lệ môi trường đảo nhiệt đới.
Đảo Đông mọc rất nhiều loài động vật trên cạn, dân cư nuôi Trâu bò, đàn dê, hiện có mười bốn nhóm gia súc khoảng 520 con bò, từng đoàn dê, có những con chó, gà lôi, vịt, mèo rừng. Những động vật hay sinh vật này có rất nhiều do ngư dân tạo ra đời sống riêng cho chúng, đảo đã trôi qua nhiều thế kỷ, chỉ cần quan sát, tìm hiểu nghĩa trang mới nhận ra sức sống của người dân trên đảo, đặc biệt họ sản xuất bằng phương pháp cổ truyền "thả giống", tất cả mọi sự sống ở đây không khác đời thường trong lục địa.
Đảo Đông "thiên đường" có hơn 50 loại chim biển, tổng cộng khoảng năm mươi ngàn con (50.000). Trường hợp "Điểu Trắng" có khoảng ba mươi ngàn (30.000). Những con chim kiếm sống nhờ cá biển, thường được di chuyển đến những đảo gần đó, tạo thành những đảo chim trên những rạn san hô phẳng.
Việt Cộng đưa ra biểu đồ bán nước, tất nhiên vô trách nhiệm. Nguồn: tài liệu Huỳnh Tâm.
(B) Quần đảo Trường Sa.
Quần đảo Trường Sa cách quần đảo Hoàng Sa tính đến đảo gần nhất là khoảng 350 hải lý, đảo xa nhất là khoảng 500 hải lý, cách Vũng Tàu 305 và các Cam Ranh 250 hải lý, cách đảo Phú Quốc 240 hải lý, cách Bình Thuận (Phan Thiết) 270 hải lý. Quần đảo trải dài từ 6°2’ vĩ B, 111°28’ vĩ B, từ kinh độ 112°Đ, 115°Đ1.4) trong vùng biển chiếm khoảng 160.000 đến 180.000 km2. Tuy quần đảo Trường Sa bao la nhưng diện tích các đảo, đá, bãi nổi trên mặt nước lại ít, tổng cộng 11km2.
Quần đảo Trường Sa nằm trên vị trí cực Nam-Tây-Bắc tương đối rất gần với Việt Nam, và Philippines trên biển phía Đông Bắc, vùng biển phía Nam có Indonesia, Malaysia, Brunei. Trung tâm của đảo Ba Bình, phía Nam cách quần đảo Phú Lâm Hoàng Sa 750 km. Quần đảo Trường Sa là lãnh hải chủ quyền của Việt Nam đã có từ muôn đời trước, nằm phía Nam Thái Bình Dương, khoảng 1.500 km về phía Nam của đảo Hải Nam, đảo Ngọc Lâm Giang. Quần đảo Trường Sa nằm trong vùng biển rộng lớn, đảo san hô phẳng lớn nhất trong các đảo ở Biển Đông, một quần đảo thiên nhiên phân bố rộng nhất. Đã được tìm thấy trên 200 đảo rạn san hô phẳng, trong đó có 11 đảo được tiếp xúc với vùng biển, 6 bãi cát, tổng diện tích đất của các đảo là khoảng 2 km, bằng phẳng.
Theo thống kê về số lượng đảo của Hải Học Viện Nha Trang thời VNCH, năm 1968 bao gồm 137 đảo, đá, bãi (1.5) không kể 5 bãi cát ngầm thuộc thềm lục địa Việt Nam (bãi Phúc Trần, Huyền Trân, Quế Đường, Phúc Nguyên và Tứ Chính).
Ngư dân Việt Nam thường trú trên đảo tự đặt tên đảo, bãi cát, đá ngầm.
1 - Đảo An Bang (Amboyna Cay) Toạ độ 7°52′10″B 112°54′10″Đ, Là một cồn cát dài 200 m, rộng 20 m và cao 2 m. Điều kiện môi trường tại đây rất khắc nghiệt.
2 - Đảo Nam Yết (Namyit Island) Tọa độ 10°10′54″B 114°21′36″Đ, Là một đảo san hô hình bầu dục, dài 600 m, rộng 125 m với diện tích 0,06 km2 và cách đảo Ba Bình 11 hải lí về phía tây nam. Việt Nam có kế hoạch lập một khu bảo tồn biển tại đây.
3 - Đảo Sinh Tồn (Sin Cowe Island) Tọa độ 9°53′0″B 114°19′0″Đ, Là một đảo san hô dài 390 m, rộng 110 m, đất đai khô cằn, hầu như không trồng được rau xanh nếu không cải tạo đất.
4 - Đảo Sinh Tồn Đông (Grierson Reef/Cay Sin Cowe East Island) Toạ độ 9°54′18″B 114°33′42″Đ, Là một cồn cát nằm cách đảo Sinh Tồn 15 hải lí về phía đông. Cồn này dài 160 m, rộng 60 m, điều kiện khắc nghiệt.
5 - Đảo Sơn Ca (Sand Cay ) Tọa độ 10°22′36″B 114°28′42″Đ, Là một đảo cát nhỏ nằm cách đảo Ba Bình 6,2 hải lí về phía đông. Đảo này dài 450 m và rộng 130 m; đất đai khá màu mỡ nhờ một lớp mùn phân chim nên đảo có nhiều cây xanh
6 - Đảo Trường Sa Biệt danh: Trường Sa Lớn (Spratly Island) Tọa độ 8°38′30″B 111°55′55″Đ, Đảo này có tên gọi chính thức là Trường Sa nhưng nhiều nguồn tin tức và người tại đây thường dùng biệt danh Trường Sa Lớn. Trường Sa là đảo san hô đứng thứ tư về diện tích trong quần đảo (0,15 km2) và là trung tâm của thị trấn Trường Sa. Đảo có nguồn nước lợ, có đường băng, cảng cá, trạm khí tượng, lớp học, trạm xá,...
7 - Đảo Song Tử Tây (Southwest Cay) Tọa độ 11°25′46″B 114°19′54″Đ, Song Tử Tây nằm cách Song Tử Đông 1,5 hải lí về phía tây nam và nhỏ hơn Song Tử Đông một chút. Trên đảo có nhiều cây cối xanh tươi. Đảo có một ngọn đèn biển quan trọng..
8 - Đá Cô Lin (Collins Reef Johnson North Reef) Tọa độ 9°46′13″B 114°15′25″Đ, Là một rạn san hô nằm cách đảo Sinh Tồn 9 hải lí về phía tây nam và cách đá Gạc Ma 1,9 hải lí về phía tây bắc. Đá Cô Lin chìm ngập dưới nước khi thuỷ triều lên. Đây là một trong ba địa điểm diễn ra trận Hải chiến Trường Sa vào tháng 3 năm 1988.
9 - Đá Đông East (London) Reef Tọa độ 8°49′42″B 112°35′48″Đ, Là một rạn san hô vòng có diện tích khoảng 36,4 km2 và nằm cách đá Châu Viên 10 hải lí về phía tây
10 - Đá Lát (Ladd Reef) Tọa độ 8°40′42″B 111°40′12″Đ, Là một rạn san hô vòng có diện tích khoảng 9,9 km2 và nằm cách đảo Trường Sa 14 hải lí về phía tây. Đá chìm ngập dưới nước khi thuỷ triều lên..
11 - Đá Len Đao (Lansdowne Reef) Tọa độ 9°46′48″B 114°22′12″Đ, Là một rạn san hô nằm cách đá Gạc Ma khoảng 5,5 hải lí về phía đông bắc. Đá này chìm ngập dưới nước khi thủy triều lên. Đây là một trong ba địa điểm diễn ra trận Hải chiến Trường Sa vào tháng 3 năm 1988
12 - Đá Lớn (Discovery Great Reef) Tọa độ 10°03′42″B 113°51′6″Đ, Là một rạn san hô vòng nằm cách đảo Nam Yết 28 hải lí về phía tây tây nam.
13 - Đá Nam (South Reef ) Tọa độ 11°23′31″B 114°17′54″Đ, Là một rạn san hô nằm cách đảo Song Tử Tây 3,5 hải lí về phía tây nam.
14 - Đá Núi Thị (Petley Reef) Tọa độ 10°24′42″B 114°34′12″Đ, Là một rạn san hô nằm cách đảo Sơn Ca khoảng 6 hải lí về phía đông đông bắc. Diện tích của thực thể này là 1,72 km2.
15 - Đá Núi Le (Cornwallis South Reef ) Tọa độ 8°42′36″B 114°11′6″Đ, Là một rạn san hô vòng có diện tích 35 km2.
16 - Đảo Phan Vinh (Pearson Reef) Tọa độ 8°58′6″B 113°41′54″Đ, Xét theo khái niệm rộng là một rạn san hô vòng (rạn san hô vòng). Nơi đóng quân chính của hải quân Việt Nam có chiều dài 132 m và chiều rộng 72 m.
17 - Đá Tây (West (London) Reef) Tọa độ 8°51′B 112°11′Đ, Là một rạn san hô vòng nằm cách đảo Trường Sa 20 hải lí về phía đông bắc. Tại đây có khu dịch vụ hậu cần nghề cá và tổ hợp nuôi trồng thủy sản thí điểm.
18 - Đá/Bãi Thuyền Chài Barque Canada Reef Tọa độ 8°10′B 113°18′Đ, Là một rạn san hô vòng lớn có chiều dài 17 hải lí và chiều rộng 3 hải lí. Phá nước dài khoảng 11 km và rộng khoảng 2 km.
19 - Đá Tiên Nữ (Tennent Reef Pigeon Reef) Tọa độ 8°51′18″B 114°39′18″Đ, Là một rạn san hô vòng nằm ở cực đông của các thực thể thuộc Trường Sa đang do Việt Nam kiểm soát. Diện tích của đá khoảng 3,4 km2.
20 - Đá Tốc Tan (Alison Reef) Tọa độ 8°48′42″B 113°59′0″Đ, Là một rạn san hô vòng với chiều dài khoảng 20 km và chiều rộng khoảng 7 km. Diện tích trung bình là 75 km2.
21 - Đảo Trường Sa Đông (Central (London) Reef) Tọa độ 8°56′6″B 112°20′54″Đ, Là một rạn san hô vòng nằm cách đá Tây khoảng 6 hải lí về phía đông bắc và cách đá Đông khoảng 13 hải lí về phía tây bắc.
Những nhóm rạn san hô và bãi cát nhỏ.
22 - bắc tử đảo dòng thái nội la 0.14 km
23 - nam tử đảo nội la tất chí tử 0.134 km
24 - hải đảo trong các ngành công nghiệp sắt chì 0.334 km
25 - đảo đối đầu thứ ba 0.07 km
26 - Hoàng Sơn Ba Bình Machi 0.434 km
27 - Nam Yết Nam B, Nam 0,08 dày đặc km
28 - chánh huyền Đảo Cân móc 0.08 km
29 - Đảo Tây 0,16 km
30 - Đảo Nanshan lỗ Luo lớn, Luo lỗ 0.06 km
31 - Đảo Xin lỗ 0.04 km
32 - Đảo Nam đối với người cao điểm chim 0.15 km
33 - Bắc bên ngoài nội la đối đầu tiếp theo bầy dưới nước
34 - đôi ngầm vàng
35 - chậu đồng Đá An Nhơn, đồng và vàng (8000 mét vuông)
36 - Đảo Gạc Dong 0.09
37- Dải cát xanh 0,12 km
38 - an ba na đối đầu 0.02 km
Trung Cộng cướp đảo của Việt Nam 1988.
1 - Đá Châu Viên (Cuarteron Reef) Tọa độ 8°54′B 112°52′Đ, Là một rạn san hô vòng đa phần chìm ngập dưới nước, nằm về phía đông của đá Đông.
2 - Đá Chữ Thập (Fiery Cross Reef Northwest Investigator Reef) Tọa độ 9°35′B 112°54′Đ, Là một rạn san hô lớn nằm tách biệt khỏi các thực thể khác. Tổng diện tích hơn 110 km2. Đây là trung tâm đồn trú của Trung Quốc tại Trường Sa.
3 - Cụm đá Ga Ven (Gaven Reefs) Tọa độ 10°12′B 114°13′Đ, Cụm này gồm hai rạn san hô là đá Ga Ven và đá Lạc, lần lượt nằm cách đảo Nam Yết 8,5 và 7 hải lí về phía tây.
4 - Đá Gạc Ma (Johnson South Ree) Tọa độ 9°42′B 114°17′Đ, Là một rạn san hô nằm ở đầu mút tây nam của cụm Sinh Tồn và là một trong ba địa điểm diễn ra trận Hải chiến Trường Sa vào tháng 3 năm 1988.
5 - Đá Tư Nghĩa (Hughes Reef) Tọa độ 9°56′B 114°31′Đ, Là một rạn san hô nằm ở phía tây tây bắc của đảo Sinh Tồn Đông. Chỉ nổi lên khỏi mặt nước khi thủy triều xuống.
6 - Đá Vành Khăn (Mischief Reef) Tọa độ 9°55′B 115°32′Đ, Là một rạn san hô vòng đa phần chìm dưới nước, nằm cách đảo Vĩnh Viễn 51 hải lí về phía nam. Đây là nơi từng diễn ra nhiều tranh chấp căng thẳng giữa Philippines và Trung Quốc trong thập niên 1990.
7 - Đá Xu Bi (Subi Reef) Tọa độ 10°56′B 114°05′Đ, Là một rạn san hô vòng nằm cách đảo Thị Tứ 26 km về phía tây nam. Trung Quốc có dự định xây dựng một đường băng tại đây.
Tổng cộng: 7 thực thể địa lí; tất cả đều là rạn san hô.
Tình trạng chiếm đóng quần đảo của các nước Nguồn: tài liệu Huỳnh Tâm.
Phân cụm đảo.
Do sở hữu rất nhiều thực thể địa lý nên quần đảo Trường Sa được các nhà hàng hải quốc tế cũng như một số quốc gia phân chia thành nhiều cụm riêng biệt dựa trên sự gần gũi hoặc tương đồng về mặt địa lý hay đơn thuần chỉ là phân chia tương đối.
Việt Nam được phân chia quần đảo Trường Sa thành tám cụm như cụm Song Tử, cụm Thị Tứ, cụm Loại Ta, cụm Nam Yết, cụm Sinh Tồn, cụm Trường Sa, cụm Thám Hiểm (cụm An Bang) và cụm Bình Nguyên.
Cụm Song Tử
Đá Nam là một rạn san hô (ám tiêu san hô) thuộc cụm Song Tử. Nguồn: tài liệu Huỳnh Tâm.
Cụm Song Tử là một tập hợp các thực thể địa lý nằm ở phần tây bắc của quần đảo Trường Sa. Gọi là Song Tử vì hai đảo Song Tử Đông và Song Tử Tây như một cặp đảo song sinh, vừa nằm gần nhau vừa có kích thước gần như tương đương. Cặp đảo này hợp cùng các rạn đá san hô như đá Nam, đá Bắc ở khu vực lân cận để tạo nên một vòng cung san hô lớn mà tài liệu hàng hải quốc tế gọi là (cụm) rạn Nguy Hiểm Phía Bắc (North Danger Reef (s). Tuy nhiên, Việt Nam còn gộp hai rạn vòng ngầm dưới nước ở phía đông của rạn Nguy Hiểm Phía Bắc vào cụm Song Tử, cụ thể là bãi Đinh Babãi Núi Cầu.
Cụm Thị Tứ
Đá Xu Bi là một rạn san hô vòng thuộc cụm Thị Tứ. Nguồn: tài liệu Huỳnh Tâm.
Cụm Thị Tứ là một tập hợp các thực thể địa lý nằm ở phía nam của cụm Song Tử và phía bắc của cụm Loại Ta. Cụm này chỉ có một đảo san hô là Thị Tứ (đứng thứ hai về diện tích trong quần đảo), còn lại đều là các rạn đá như đá Hoài Ân, đá Vĩnh Hảo, đá Xu Bi... Đá Xu Bi là trường hợp cá biệt do tách biệt hẳn về phía tây nam so với tất cả các thực thể còn lại. Trừ đá Xu Bi thì đảo Thị Tứ và các rạn đá lân cận cùng nhau tạo thành cụm rạn Thị Tứ (Thitu Reefs) theo tài liệu hàng hải quốc tế.
Cụm Loại Ta
Cụm Loại Ta là một tập hợp các thực thể địa lý nằm ở phía nam của cụm Thị Tứ và phía bắc của cụm Nam Yết. Cụm này có hai đảo lớn là Loại Ta và Bến Lạc. Đảo Loại Ta là trung tâm của bãi san hô Loại Ta (Loaita Bank) theo cách gọi của tài liệu hàng hải quốc tế; về hai phía đông-tây của đảo là các cồn cát và rạn san hô như bãi An Nhơn, bãi An Nhơn Bắc, bãi Loại Ta... Về phía đông bắc của bãi san hô Loại Ta là một rạn đá ngầm lớn có tên là bãi Đường; tại đầu mút phía bắc của bãi này là một rạn đá ngầm với tên gọi đá An Lão. Trong khi đó, đảo Bến Lạc (đứng thứ ba về diện tích trong quần đảo) và đá Cá Nhám lại nằm tách biệt hẳn về phía đông của các thực thể trên.
Đảo Sinh Tồn Đông là một cồn cát thuộc cụm Sinh Tồn. Nguồn: tài liệu Huỳnh Tâm.
Cụm Nam Yết
Cụm Nam Yết là một tập hợp các thực thể địa lý nằm ở phía nam cụm Loại Ta và phía bắc của cụm Sinh Tồn, gồm hàng loạt thực thể nổi bật như đảo Ba Bình (lớn nhất quần đảo), đảo Nam Yết, đảo Sơn Ca, đá Én Đất, đá Ga Ven... Đa số các thực thể địa lí thuộc cụm này hợp thành một bãi san hô dạng vòng có tên gọi bãi san hô Tizard (Tizard Bank); theo tài liệu hàng hải quốc tế. Ngoài ra, về phía tây của bãi san hô Tizard còn có một số thực thể nằm riêng biệt như đá Lớn, đá Chữ Thập...
Đảo Trường Sa là một đảo san hô thuộc cụm Trường Sa. Trong ảnh: cầu tàu và một phần đảo Trường Sa. Nguồn: tài liệu Huỳnh Tâm.

Cụm Sinh Tồn
Cụm Sinh Tồn là một tập hợp các thực thể địa lí nằm ở phía nam cụm Nam Yết. Khái niệm "cụm Sinh Tồn" hầu như đồng nhất với khái niệm bãi san hô Liên Minh hay cụm rạn Liên Minh (Union Bank/Reefs); của tài liệu hàng hải quốc tế. Cụm này chỉ có một đảo san hôđảo Sinh Tồn, một cồn cátđảo Sinh Tồn Đông, còn lại là rất nhiều rạn đá như đá Cô Lin, đá Gạc Ma, đá Len Đao,... Trong số này, đá Ba Đầu là rạn đá lớn nhất.
Cụm Trường Sa
Bãi Trăng Khuyết là một rạn san hô vòng thuộc cụm Thám Hiểm/An Bang. Nguồn: tài liệu Huỳnh Tâm.
Cụm Trường Sa là một tập hợp các thực thể địa lý nằm dàn trải theo chiều ngang từ tây sang đông ở phía nam của các cụm Nam Yết, Sinh Tồn và phía bắc của cụm Thám Hiểm, chủ yếu giữa hai vĩ tuyến 8° Bắc và 9° Bắc. Cụm này chỉ có một đảo san hôđảo Trường Sa (biệt danh: Trường Sa Lớn), còn lại đều là rạn thường nói chung và rạn vòng nói riêng như đá Tây, đá Tiên Nữ, đảo Phan Vinh, đảo Trường Sa Đông... Bốn thực thể theo thứ tự từ tây sang đông gồm đá Tây, đảo Trường Sa Đông, đá Đông và đá Châu Viên cấu thành khái niệm cụm rạn Luân Đôn (London Reefs); theo tài liệu hàng hải quốc tế.
Cụm Thám Hiểm
Cụm Thám Hiểm hay cụm An Bang là một tập hợp các thực thể địa lí ở phía nam của quần đảo Trường Sa. Cụm này không có đảo san hô nào ngoài một cồn cát nổi bật là An Bang (quen gọi là đảo An Bang). Nhìn chung phần lớn thực thể của cụm này tạo thành một vòng cung lớn với phần lõm hướng về phía đông nam, trải dài từ đá Sác Lốt, qua đá Công Đo đến bãi Trăng Khuyết gần sát với Philippines. Một máng biển ngăn cách vòng cung này với thềm lục địa của đảo Borneo.
Cụm Bình Nguyên
Cụm Bình Nguyên là một tập hợp các thực thể địa lý hợp thành từ phần phía đông của quần đảo Trường Sa, trong khu vực gần với đảo Palawan. Tuy cụm này có nhiều thực thể địa lí nhất so với các cụm còn lại nhưng số này lại phân tán rải rác trên một vùng biển rộng lớn. Vĩnh ViễnBình Nguyên là hai đảo duy nhất của cụm, trong đó đảo Bình Nguyên đang chịu tác động của hiện tượng xói mòn. Số thực thể còn lại đều là những dạng rạn đá (ví dụ rạn vòng) và các bãi cát ngầm/bãi cạn cùng bãi ngầm.
Trung Quốc phân chia
Ngày 25 tháng 4 năm 1983, Nhật báo Nhân dân của Trung Quốc đã công bố danh sách cướp biển trên 287 địa danh thuộc Biển Đông, trong đó có tổng cộng 193 địa danh liên quan đến quần đảo Trường Sa. Về mặt tên gọi, Trung Quốc tự áp đặt địa danh tên mới trên mỗi hòn đảo theo ngôn ngữ Hán, loại bỏ ngôn ngữ Việt Nam, qua nhất trí giữa đàm phán bí mật về Biển Đông giữa Việt Cộng-Trung Cộng bí mật đàm phán chính thức bán Biển Đông cho Trung Cộng, như đảo, cồn cát (sa châu), rạn đá ngầm (ám tiêu), bãi cát ngầm/bãi cạn (ám sa), bãi ngầm (ám than) và cả các luồng lạch (môn, thủy đạo) cho phép tàu thuyền ra vào những đảo do Việt Nam kiểm soát. Trung Cộng hiện nghiên cứu đăng tải trên mạng Hải Nam "sử chí" Trung Quốc phân biệt cả các loại hình rạn đá khác nhau như rạn mặt bàn (đài tiêu) hay rạn vòng (hoàn tiêu) để làm cơ sở phân loại chi tiết hơn. Theo cách hiểu của Trung Quốc về quần đảo Trường Sa khác xa so với cách hiểu hiện thời của bản đồ hành chính Việt Nam về quần đảo Trường Sa.
Dưới đây là danh sách nhóm và phân nhóm của khái niệm Trường Sa theo Trung Quốc loan tải trên báo "Hải Nam sử chí":
Đảo Nam Yết.
Vuông độ cao hơn 6 mét trên mực nước biển.
Quần đảo Trường Sa nằm ở vĩ độ thấp, gần hơn về phía nam từ đường xích đạo, khí hậu nhiệt độ quanh năm, mùa là mùa hè. Ví dụ, Ba Bình, nhiệt độ trung bình hàng năm 27,9°C. Thay đổi nhiệt độ năm là nhỏ, tháng tư và tháng nóng nhất là 29,0°C, lạnh nhất tháng giêng là 26,8°C. Lượng mưa hàng năm 1842 mm, mùa mưa lên đến bảy tháng. So với một số đảo khác, quần đảo Nam Sa Typhoon nhỏ hơn. Bởi vì các cơn bão Tây Thái Bình Dương từ phía đông của Philippines và các cơn bão ở vùng biển gần quần đảo Trường Sa, quần đảo Trường Sa được hình thành, ảnh hưởng đến độ bám đường và bởi chuyển động quay của Trái đất bởi luồng không khí nhiệt đới trên biển, thường tây, hướng tây bắc, trung tâm bão ít cuộc xâm lược trực tiếp của quần đảo Trường Sa.
Đảo Ba Bình.
Nằm ở vĩ độ 10°23 ', kinh độ 114°22'. Hơi ở trung tâm của Biển Đông. Một diện tích 0,43 km vuông, là hòn đảo lớn nhất trong quần đảo Trường Sa. Trung-Nhật chiến thắng chiến tranh, chính phủ Trung Quốc đã cử một "hòa bình giải quyết" tàu chiến để phục hồi các quần đảo Trường Sa, trong danh dự của các tàu chiến, tên cổ xưa của các bị cáo, "đối đầu" đổi tên "Đảo Hòa bình", ngư dân của Trung Cộng đã luôn luôn được gọi là đảo "Hoàng Sơn ngựa", hay "Hoàng Sơn Ma Zhi".
Ba Bình đã được phục hồi kể từ khi chiến thắng quân gửi Tỉnh Đài Loan của Trung Quốc, đã theo đuổi cho đến nay, đại lục và ngư dân đảo Hải Nam thường đi du lịch đến hòn đảo này, mỗi người đều đã lịch sự, như một quần eo biển và dân sự.
Môi trường đảo Ba Bình tự nhiên rất lạ. Hòn đảo này có một lớp rất dày tích tụ phân chim, làm cho đất rời, đất đai màu mỡ, đầy ánh nắng, lượng mưa dồi dào, các nhà máy có thể dễ dàng phát triển. Cây thường xanh, các loại rau và một loạt các loại cây nhiệt đới để cây có thể trồng trên đảo.

Đảo Tằng Mẫu Ám Sa (James Shoal).
Nằm ở vĩ độ 3°57.44'-3°59.00', kinh độ 112°16.25'-112°17.10'. Các phía nam quần đảo Trường Sa, nhưng cũng là điểm cực nam của lãnh thổ của Việt Nam. Phần phát triển của thềm lục địa ở Biển Đông, được ẩn trong nước từ một rạn san hô vùng biển nông. Chỉ có 17,5 mét cạn nhất. Một diện tích 2,12 km vuông của rạn gò. Rạn đầu hẹp hơn một chút và thấp rộng lớn, phía bắc và có xu hướng hơi cong. Toàn bộ rạn hình thái rất giống Hải Nam sản xuất xoài, cơ thể giàu ngay cả quy mô vừa phải.
Tằng Mẫu Ám Sa là lãnh thổ thiêng liêng của Việt Nam từ thời cổ đại. Các thế hệ của ngư dân buồm đến các đảo và đá ngầm của tuyến đường là rất quen thuộc với tình hình của các rạn san hô, các nhà khoa học hàng hải tiếp cận dài hạn với các rạn san hô trong nghiên cứu biển, nghiên cứu, các đảo và vùng biển lân cận là một số lượng lớn các thông tin dữ liệu nghiên cứu. Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa đã luôn luôn được coi là một quốc phòng quan trọng ven biển James Shoal, gửi hoặc quân đội tuần tra, chính quyền tỉnh Khánh Hòa đã được sứ sứ mệnh thiện chí của đất nước tuần tra bảy ngày trong tuần và được đặt dưới quyền tài phán của các đài tưởng niệm để đánh dấu địa bàn tỉnh.
Quần đảo Trường Sa.
Quần đảo Trường Sa ở giữa Biển Đông, cách quần đảo Phú Lâm Hoàng Sa khoảng 230 km, hơn 570 km về phía tây bắc từ đảo Du Lâm Cảng, Hải Nam. Hiện có hơn 30 hòn đảo và rạn san hô, ngoại trừ đảo Hoàng Nham, nó gần như hoàn toàn giấu mình trong nước biển không được tiếp xúc với quần đảo này. Quần đảo "Trung Sa" cổ xưa gọi là "Trường Sa". Hầu hết quần đảo Trường Sa ở giữa vùng nhiệt đới. Đây là nơi sinh của các cơn bão biển Nam Trung Quốc.
Quần đảo Trường Sa rạn mặc dù hiếm khi bề lên mặt biển, nhưng ẩn trong các khu vực của dưới nước, rạn san hô, theo thống kê chưa đầy đủ, diện tích rạn san hô sâu dưới 20 mét vuông của 350 Km. Nước biển sạch, nhiệt độ bề mặt nước biển 25-28°C, nhất là phù hợp cho tất cả các loại sinh sản ở biển tăng trưởng. Do đó, quần đảo Trường Sa đã nổi tiếng về sản xuất dưa chuột, biển đánh bắt cá, tôm hùm, nghêu, hải sản quý khác và nổi tiếng năng suất cao, mỗi năm vào ngày 1 tháng 4, khi những con sóng biển ấm dần lên nhiệt độ bề mặt nước biển trong,
thuyền đánh cá ngư dân thi nhau sản xuất, chủ yếu là "bào ngư" giá trị nhất đánh bắt hải sâm, tôm hùm. Mỗi chuyến đi một vài tuần.
Đảo Hoàng Nham.
Còn được gọi là các rạn san hô Dân chủ, đảo rạn cát trên mực nước biển. Nó phát triển trong lưu vực sâu 3500m, giá trị đứng đầu hải đảo san hô lớn dưới nước cân xấp xỉ hình tam giác, diện tích khoảng 130 km vuông (bao gồm đầm phá), được bao quanh bởi một rạn san hô rải rác các khối tiếp xúc với nhau, 0,3-0,5 mét trên mực nước biển, bề mặt của kích thước khối san hô thường là 1-4 mét. Bắc đầu phía nam của rạn san hô sâu nhất, xa nhất phía Bắc, người ta được gọi là Bắc Nham, mũi phía nam được gọi là Nam Nham. Nam Nham được tiếp xúc với một trong các rạn san hô biển lớn, hình dạng của một hòn đá lớn, các khu vực trên của khoảng 30.000 mét vuông, 1,8 mét trên mực nước biển.
Trường Sa tài nguyên dồi dào. Bởi vì đông bắc Biển Đông dải khu vực thềm lục địa rộng lớn, ảnh hưởng trực tiếp bởi các dòng chảy ven biển của sông Cửu Long, dòng chảy đem lại năng suất sinh học cao, do đó, các vùng nước quần đảo Trường Sa là một trong những ngư trường quan trọng, đa dạng phong phú có nhiều hải sản quý hiếm, đặc biệt sản xuất rông biển chất lượng cao nổi tiếng nhất. Trường Sa là một ngư trường rộng lớn có một trữ lượng cá phong phú, và một trữ lượng dầu giá trị cao, khí đốt thiên nhiên dưới đáy biển. Quần đảo Trường Sa nhất định phát triển vô hạng, một kho tàng tài nguyên xuất hiện một nền kinh tế hoàn toàn mới và sinh lộ hàng hải giá trị nhất trong vùng Châu Á, ngoài ra còn sức sống quyền lực về chính trị, chiến lược quân sự rất quan trọng biển Đông. Việt Cộng đã thủ tiêu Hoàng Sa, Trường Sa, thử hỏi nhân dân Việt Nam có biết hay không, và bao giờ lên tiếng vì sự sống còn của Tổ Quốc Việt Nam?
16/07/2015

___________________________________________
Giấc mơ của Tập Cận Bình cướp Biển Đông.
Phụ Bản 1.

Đông Dương bao quanh. U- đường chín đoạn thuộc các vùng biển ở Biển Đông nằm bên trong và bên ngoài. Trung Cộng kẻ cướp Biển Đông, tạo ra những phức tạp về hải phận quốc tế, quốc gia chịu thiệt thói nhiều nhất là Việt Nam. Nguồn: tài liệu Huỳnh Tâm.
Phụ Bản 2.
Quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa-chiến lược kinh tế tại Biển Đông, Việt Nam nhật định không còn chỗ từ lúc này (2015). Nguồn: tài liệu Huỳnh Tâm.
Phụ Bản 3.
Trung Quốc cho rằng quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa là một phần lãnh hải không thể tách rời Biển Đông Trung Quốc, theo những cuộc đàm phán song phương Việt Cộng cũng đã công nhật Biển Đông của Trung Quốc. Chiếu theo Hội Nghị bí mật Thành Đô Tư Xuyên năm 1990. Nguồn: tài liệu Huỳnh Tâm.
Phụ Bản 4.

Trung Quốc là một con quái vật cướp Biển Đông của Việt Nam, bất chấp luật biển quốc tế. Trung Quốc, đang nỗ lực cho sự thích hợp nhất xây dựng những hòn đảo nhân tạo ở Hoàng Sa, tại ba nơi đải "Phú Lâm", đảo rạn san hô "Mạt Khắc", sau đó rạn san hô "Vĩnh Thử" mặc dù nhỏ hơn Phú Lâm, nhưng cải tạo tương đối dễ dàng và vị trí chiến lược quan trọng làm chủ Biển Đông. Nguồn: tài liệu Huỳnh Tâm. 

Quê hương tôi cứ mãi điêu linh (Kỳ 7)

Việt Cộng cho Trung Cộng tự lập biểu đồ kiểm soát Biển Đông.
Ngày nay cả dân tộc Việt Nam đang lo ngại về tình hình sớm mất Biển, nhìn vào biểu đồ thấy thực thể Biển Đông sau khi Trung Cộng kiểm soát những vị trí chiến lược hiện tại!
Nhà giàn trên rạn san hô Mỹ Tể (Mischief Reef) quần đảo Trường Sa Biển Đông. Nguồn: Tài liệu Huỳnh Tâm.

Trên thực tế Trung Cộng đã kiểm soát quần đảo Trường Sa của Biển Đông nhiều hơn (37) đảo. [B] đảo Vĩnh Thử (Yongshu), rạn Xích Qua (Red Reef), rạn Đông Môn (Hughes Reef), đảo Nam Huân (Ga Ven), rạn Chử Bích (Subi Reef), đảo Hoa Dương (Huayang), đảo Mỹ Tể (Mischief), đảo Rung Châu (Zhongzhou Reef), đảo Vĩnh Thự (Vụ Yong rạn), rạn Nam Tầm (Ga Ven), đảo đá ngầm Xích Qua (Red Reef), đảo đá ngầm Đông Môn ((Hughes Reef), đảo đá ngầm Chử Bích (Subi Reef), rạn Hoa Dương (Huayang). Rạn đá ngầm Mỹ Tể (Mischief Reef), đảo Nam Thược (Loại Ta), đảo Trường Sa lớn, đảo Tây Nguyệt, Phí Tín, Bắc Tử, đảo Song Hoàng Sa Châu (Đôi dải cát vàng) hay (Loaita Nan), đá An Nhơn (LankiamCay), đá Cô Lin, đá Len Đao. Rạn Tây Môn (Simon rạn), đảo Hạm Trường (Captain), đảo san hô Tả Hồ, đảo Bãi Cỏ Mây, đảo Bồng Bột Ám Sa (Vigorous), đảo Áo Viên Ám Sa, đảo Thái Khang Than (Taikang) hay Tái Chế, đảo Tằng Mẫu Ám Sa (James Shoal), và 7 rạn khác [/B] Đài Loan kiểm soát Ba Bình và hai hòn đảo khác.
Chủ quyền Việt Nam tại quần đảo Trường Sa bị thu hẹp chỉ còn 29 đảo.
Đảo Hồng Hưu (Nam Yết), Nam Uy đảo, (Đảo Nam), Cảnh Hoành đảo, (Sin Cowe Đảo), Nam Tử đảo (Southwest Cay), Đôn Khiêm Sa Châu (Dun Qian bãi cát), An Ba Sa Châu (sa châu), Nhiễm Thanh Sa Châu, Trung Tiều (Amboyna Cay), Tất Sanh Tiều (Sa Châu) (nhuộm bãi cát màu xanh lá cây), Bách Tiều rạn san hô (bãi cát), Tây Tiều (sa châu) rạn san hô Suốt Đời (bãi cát), Vô Lê Tiều (Parker Reef), Nhật Tích Tiều (bãi cát Tây Reef), rạn san hô Nhật Cốt Truyện, Đại Hiện Tiều (rạn san hô lớn bây giờ), Lục Môn Tiều (sáu rạn san hô), Đông Tiều (rạn san hô Đông), Nam Hoa Tiều (Nam rạn san hô), Bạc Lan Tiều (đá ngầm tàu ​​màu xanh), Rạn Nại La Tiều (Nairobi), Quỷ Hảm Tiều (Cô Lin), Quỳnh Tiều (rạn san hô Joan), Nghiễm Nhã Than (bãi biển Quang Á), Bồng Bột Bảo (Fort mạnh mẽ), Vạn An Than (Bãi biển Wanan), Tây Vệ Than (Tây Wei Beach), Nhân Tuấn Than (người Bãi biển Chun), Áo Nam Ám Sa (Ao Nang), Kim Thuẫn Ám Sa (Golden Shield).
Philippines chiếm đóng 8 đảo.
Đảo Trường Sa, loại ta, hải đảo trong ngành công nghiệp, West York Island, Northeast Cay, Fei Đảo Xin, đôi dải cát vàng, huy rạn (bãi cát)

Brunei chiếm một hòn đảo.
Malaysia chiếm đóng của 3 đảo.
1978 Malaysia đã gửi một đội tàu nhỏ đến quần đảo Trường Sa vào phần mũi phía Nam hoạt động và thiết lập "di tích chủ quyền". 1979 Malaysia đã công bố một bản đồ mới, các rạn san hô trên và Trường Sa 270.000 km vuông của vùng biển được phân định lãnh thổ của mình. Năm 1980, chính phủ Malaysia thông báo 200 hải lý vùng đặc quyền kinh tế.
Biểu đồ Biển Đông tại quần đảo Trường Sa, hiện tại Trung Cộng đang phân bố quân sự. Nguồn: Tài liệu Huỳnh Tâm.
Biển Đông với biểu đồ Trung Cộng kiểm soát Trường Sa.
Như chúng ta đều biết, quần đảo Trường Sa trong điều kiện tranh chấp của các quốc gia mỗi lúc khắc nghiệt, Việt Cộng thường xuyên sơ tán bỏ chạy lấy thân cho an toàn, hầu như ít có thường trú nhân ở đây, Việt Cộng kém cỏi quân sự không kiểm soát 24 giờ trên đảo Trường Sa. Mặc dù hiện nay Trung Cộng đang chiếm đóng, kiểm soát một số rạn san hô của các nước, nhưng hầu hết binh lính đồn trú chỉ là tượng trưng. Ngày nay Trường Sa trở thành biểu tượng chính trị, quân sự, kinh tế và dấu khí. 
Ngược lại, các quốc gia có ngư dân hoạt động lâu năm tại Trường Sa là những thành phần phức tạp, không chắc chắn là dân hay lính, cũng có những người lính thật sự thường trú trên quần đảo Trường Sa, chứ không phải các nước láng giềng trong một nghĩa rộng.
Số lượng binh sĩ Trung Cộng tại quần đảo Trường Sa xăm chiếm cướp đảo bằng nhiều lý do khác, họ thực sự kiểm soát các rạn san hô của Việt Nam. Trung Cộng còn có hệ thống thông tin từ đại lục chính thức tiết lộ cho các đơn vị đồn trú trên bảy hòn đảo rạn san hô, hầu hết những tin thời sự không được tiết lộ, các thông tin trực tuyến hoàn toàn kiểm soát quần đảo Trường Sa. Phía Việt Cộng hay người Việt Nam vô tư không ai nghiên cứu cho nghiêm túc về thông tin sinh hoạt của người lính Trung Cộng, đơn giản người tham khảo chỉ ngồi trên bàn phiếm suy giải tài liệu, chưa hề biết đến "điền giả" là gì, bởi thế làm sau biết tình hình Biển Đông đơn thuần sống và chiến đấu. Mặt trái Việt Cộng tuyên truyền láo khoét và không có một hổ trợ nào đối với người dân trên đảo.
Những năm gần đây chúng tôi chú ý nghiên cứu một số thông tin của Philippines, Malaysia và các phương tiện truyền thông phương Tây đối chiếu với quần đảo Trường Sa, ngoài ra hầu hết Việt Nam không có thông tin nào đáng tin cậy hay để chú ý, vì Việt Cộng đóng cửa những thông tin, nhất là các tài liệu của chính phủ không trung thực. Chúng tôi liên tục khai thác những thông tin cần biết nơi binh sĩ thường trú, hy vọng thực hiện một bản tóm tắt có giá trị nhất về biển đảo của Việt Nam. Chúng tôi xin công bố nhưng công khai về sự kiện thực tế Việt Cộng kiểm soát của các rạn san hô và âm thầm bán cho Trung Cộng, sau đây được xem xét bởi các nghiên cứu đầy đủ bằng chứng hổ trợ các thông tin mới nhất về vấn đề Trường Sa, tất nhiên Việt Cộng có cách nói riêng, cũng có những thông tin cấm kỵ theo nghĩa quốc phòng, kinh tế hay tham nhũng.
Biểu đồ 9 đoạn Biển Đông do Trung Cộng đang kiểm soát, bởi sự đồng tình của Việt Cộng. Việt Nam thiệt thòi nhiều nhất nhưng người dân yên lặng không lên tiếng hay đồng tình với đồng đảng. Nguồn: Tài liệu Huỳnh Tâm.
Chúng tôi giải mã chủ quyền quần đảo Trường Sa của Việt Nam đã bị mất 23 đảo quan trọng có tầm vóc chiến lược, quân sự quốc phòng và kinh tế.
1 - Đảo Ba Bình.
Ba Bình điều mà tất cả chúng ta đều biết, chúng tôi không cần phải nói gì thêm. Vấn đề Thái Bình Dương trước mắt nó được kết hợp với các chiến lược, chính trị Đài Loan. Tương lai của Đài Loan sẽ thuộc vào Đại lục, thế thì các đảo Bành Hồ (Penghu), Kim Môn (Kinmen), Mã Tổ (Matsu), và Ba Bình nhất định sáp nhập vào Trung Quốc.
2 - Đảo Rung Châu (Zhongzhou Reef).
Nằm ở vĩ độ 10 độ 23 phút 10 giây kinh độ Đông 114 độ 24 phút 49 giây 10,386, phía tây của hòn đảo Thái Bình Dương khoảng 6 km, trong lúc thủy triều cao, các rạn san hô chìm xuống khoảng 2.000 mét vuông, khi thủy triều thấp, diện tích khoảng 6.000 mét vuông, tính theo đường kính có khoảng 1,3 km rạn tròn.
Năm 1988, Trung Quốc tuyên bố đảo Rung Châu Tiều "Zhongzhou Reef" của quần đảo Trường Sa mới nổi. Ngày 16 tháng 8 năm 2003, các nhà chức trách Đài Loan, "Bộ trưởng Nội vụ" Dư Chánh Hiến (Yu Cheng-hsien) hướng dẫn những Viện Hành Chánh Kinh Kiến Hội "Executive Yuan CEPD" đi trên con thuyền M8, đến cắm cờ "Trung Hoa Dân Quốc" tuyên bố chủ quyền. 28 tháng 3 năm 2004, tuần duyên hải "Coast Guard Administration" của Đài Loan hoàn thành việc xây dựng các kỹ thuật phòng thủ bảo vệ hệ thống quan sát biển, ý nghĩa của nó muốn sớm hình thành luật biển quốc tế, do Đài Loan "Quản lý", họ yêu cầu, và tuyên truyền gián tiếp "chính phủ Trung Hoa Dân Quốc" chủ quyền đảo Rung Châu Tiều.
3 - Đảo Vĩnh Thự (Vụ Yong rạn).
Bắc vĩ độ 9 độ 37 phút, 112 độ 58 phút kinh độ Đông, rạn san hô hình bầu dục dài, toàn bộ rạn 7 km rộng, dài 22 km, có phá nước cạn, sâu 14,6-40 mét, tại rạn san hô thủy triều cao 0,5-1 m sâu hoặc ít hơn, lộ thiên chỉ một rạn san hô nhỏ khi thủy triều thấp.
Tháng 2 năm 1988 đến tháng Tám (8), theo Hội đồng Nhà nước và Ủy ban Quân sự Trung ương của Hải quân quyết định rạn Vĩnh Thử (Yongshu Reef) trong quần đảo Trường Sa xây dựng một trạm quan sát đại dương, và được xây dựng 10 cơ sở bê tông cốt thép ngọn hải đăng trong năm rạn liên đèn, tháp thủy tinh, cao 7 mét, 1,8 mét, đường kính.
Đảo ở Biển Đông tiếp xúc với thực tế biểu đồ kiểm soát hiện đang có hơn 200 binh sĩ đồn trú trên rạn san hô, xây dựng bao gồm radio, radar và cung cấp nhiên liệu, dưỡng đường. Trên tòa nhà bao gồm một sân bay trực thăng, một bến tàu 4.000 tấn, và một nhà kho rau 500 mét vuông.
4 - Rạn Nam Tầm (Ga Ven).
Rạn Nam Tầm nằm ở vĩ độ 10 độ 13 phút kinh độ Đông 114 độ 12 phút, ở mũi phía tây nam rạn trịnh hòa. Là một rạn san hô khổng lồ, có hai trên rạn san hô khi thủy triều tiếp xúc với các rạn san hô thấp. Rạn san hô nhỏ miền Nam, nay có tên là Nam nhỏ hun khói rạn san hô, và cho quân đội để kiểm soát. Trong vòng chưa đầy sáu mét sâu dưới nước. Rạn Vĩnh Hằng thế hệ thứ 3 được xây dựng trên sàn và nạp tiền một nền tảng công thức Nam Tầm.
5 - Đảo đá ngầm Xích Qua (Red Reef).
Xích Qua nằm tại vĩ độ Bắc 9 độ 43 phút, 114 độ 18 phút kinh độ Đông, gần đảo Dưa Đỏ. Toàn bộ Xích Qua là một rạn san hô hình tam giác rất lớn, có nhiều lần trong các rạn san hô vào sự phát triển đầm phá, nó đã hình thành một địa hình đảo san hô nhỏ. Times cát trắng đầm phá đã được lấp đầy, là hình dạng dài và hẹp, có những khoảng trống ở phía đông bắc ngoài khơi bờ biển đá núi lửa 1,3 mét so với mực nước biển trên các rạn san hô.
Ngày 13 tháng 3 năm 1988, Trung Cộng thành lập Bưu chính quốc phòng Hải quân trên đảo Xích Qua, sau 10 năm, từ thế hệ đầu tiên xây dựng tam những "túp lều", qua thế hệ thứ hai xây dựng "sắt thép", và sau đó là thế hệ thứ ba của kết cấu bê tông cốt thép, với phương tiện truyền thông, truyền hình, vệ tinh và một ngọn hải đăng đầu nối nguồn vận chuyển, bảo vệ rất tốt. Sau khi hoàn thành các thế hệ thứ ba xây dựng nhà cao tầng, binh sĩ đồn trú tại Trường Sa như sống trong đất liền, chẳng hạn "đi bộ", "an nghỉ", nơi này rất an toàn.
6 - Đảo đá ngầm Đông Môn ((Hughes Reef).
Đông Môn nằm tại vĩ độ Bắc 9 độ 53 phút, 114 độ 27 phút kinh độ Đông. Đông Môn nằm ở trung tâm phía bắc rạn IX, rạn san hô Tây Môn gần rạn san hô đầm phá Dốc Lắng bao cồn cát, trên bề mặt của các rạn san hô có dải đá ngầm. 1988 Hải quân Trung Cộng đóng quân Đông Môn, họ đã xây dựng lần thứ ba, phong cách nhà cao tầng kiên cố. 4 đơn vị đồn trú không có cư dân, nơi đây quân Trung Cộng trú ẩn và đánh bắt cá bán lại cho thuyền chài. 
7 - Đảo đá ngầm Chử Bích (Subi Reef).
Chử Bích nằm ở vĩ độ 10 độ 54 phút kinh độ Đông 114 độ 06 phút, là một đảo san hô vòng đa giác không đều, khoảng 6,5 km và chiều rộng 3,7 km. Thủy triều cao ngập nước. Trong các rạn san hô sâu đầm phá 10-22m, độ sâu tối đa 24m, có thể chứa bất kỳ mọi trọng tải. Cổng phía Nam rạn san hô nhỏ, chỉ có những chiếc thuyền nhỏ có thể vào đầm phá, thường là tàu dừng lại ở đảo san hô vòng ngoài. Điều này là do sự phát triển đầy đủ của các rạn san hô của. Trong hồ nước sâu có màu xanh lá cây.
Năm 1988 Trung Quốc vào tại rạn Chử Bích xây dựng ngôi nhà cao lớn, và sau đó mở rộng cuối năm 1990 xây dượng tòa nhà lớn hơn. Hòn đảo có bến du thuyền và bãi đáp trực thăng. khu quân sự trong rạn Chử Bích có trạm radar từ xa, được xây dựng và triển khai một trung đội đồn trú giám sát Biển Đông.
8 - Rạn Hoa Dương (Huayang).
Rạn san hô Vĩnh Thử cách 41 hải lý về phía nam, đá ngầm cong, khoảng 5,6 km, hồ nước cạn và nhỏ cần phát triển địa hình đần phá. Phìa Bắc rạn có khoảng hai 1,2-1,6 mét, các mỏm đá ngầm ven biển, thủy triều có khoảng hai mét. Rạn dốc hơn. Năm 1988, Trung Cộng bắt đầu xây dựng phòng thủ cho Hải quân xây lại một đầm phá Hoa Dương, hiện xây thêm ba sàn nổi. Rạn san hô Hoa Dương toàn bộ tòa nhà xây nhà thường, và nhiều ngôi nhà cao tầng. Lưu trữ thực phẩm cho 82 ngày, 5 tấn dầu, và 380 tấn nước, kết nối với hai rạn san hô Thủ Bị và Thủ Bị Đệ
Dữ liệu quân sự của những quốc gia tương quan lực lượng Hải quân kiểm soát ngoài khơi quần đảo Trường Sa. Nguồn: Tài liệu Huỳnh Tâm.
9 - Rạn đá ngầm Mỹ Tể (Mischief Reef).
Nằm ở vĩ độ 9 độ 54 phút 00 giây kinh độ Đông 115 độ 32 phút 00 giây, là một đảo san hô hình bầu dục, khoảng 9 km về phía nam khoảng 6 km, với tổng diện tích khoảng 46 km vuông. Xung quanh rạn san hô trên mặt nước khi thủy triều thấp 6 feet, khoảng 1 km từ các rạn ở độ sâu lên đến km hoặc nhiều hơn. Rạn Hoàn có đầm phá của khoảng 36 km vuông, độ sâu từ 20 mét đến 30 mét.
Nam và Tây Nam với ba rạn cửa, 37 mét đường thủy rộng, cửa ngõ phía nam tây, dài 275 mét, 18 mét so với mực nước sâu, tàu lớn có thể nhập vào cổng khi thủy triều lên vùng đầm phá, nó là một bến cảng được che chở tự nhiên. Hiện nay do quản lý của ngành thủy sản Cộng hòa nhân dân Trung Quốc ở Biển Đông, một số lượng lớn các ngư dân Trung Quốc sống ở đây quanh năm đánh và nuôi cá biển.
Vị trí chiến lược của nó là vô cùng quan trọng, đơn vị đồn trú của Trung Quốc từ những điểm kiểm soát toàn bộ xung quanh rạn "Ngag", rạn san hô An Đạt, rạn Tam Giác, rạn Ngũ Phương, rạn Nhân Ái, rạn Tín Nghĩa, rạn Bán Nguyệt, rạn Nga, rạn Tân, rạn Bán Nhật, rạn Bắc Hằng, rạn Khổng Minh và 12 rạn san hô nhỏ khác.
10 - Đảo Nam Thược (Loại Ta).
Nằm ở vĩ độ 10 độ 41 phút kinh độ Đông 114 độ 25 phút, hầu hết các rạn san hô phía Nam Đa Minh. Hòn đảo này tròn, đường kính của đảo khoảng 300 mét, 1,8 mét trên mực nước biển, một phần năm chiều cao của hòn đảo trong ngành công nghiệp dầu khí, là mức thấp nhất trong các đảo Trường Sa. Rạn nhỏ hình tròn, khoảng 1,2 km, đường kính của đảo 200-500 mét cát bãi biển, đảo có một con đê cao khoảng sáu mét. Rận đảo, cao 3-4 mét, trồng dừa, giếng nước và nhà ở, và có một ngôi chùa nhỏ, được xây dựng trong triều đại nhà Nguyễn khoảng năm 1933, quân đội Pháp ở đây, vào năm 1943 Nhật chiếm đóng các hòn đảo trong những năm 1950, quân đội Mỹ ở đây vào năm 1959. Sau năm 1968, Philippines chiếm đóng đảo. Năm 1994, quân đội Philippines ở đảo Nam vùng nước lĩnh vực cuộc xung đột quy mô nhỏ quan trọng, kết quả Philippines hai tàu chiến bị chìm, một số binh sĩ đã thiệt mạng. Một số tòa nhà trên hòn đảo này đã bị phá hủy, trong đó có một tháp canh, sau đó, Philippines bị bỏ rơi trên đảo, sau đó kiểm soát quân đội, hạn chế hiện nay không có sự hiện diện quân sự trực tiếp trên đảo, "các bên trong Tuyên bố về Biển Đông," nhưng có hoạt động quân sự của Trung Quốc.
11 - Đảo Trường Sa lớn.
Ở vĩ độ 10 độ 44 phút kinh độ Đông 115 độ 48 phút. Nằm ở phía bắc của quần đảo Trường Sa. Đảo Cận Trường Viên Hình (suboblong) đông sang phía tây khoảng 360 mét, 270 mét rộng từ Bắc đến Nam, có diện tích khoảng 0,06 km vuông. Các hòn đảo mọc với cỏ dại, không có cây. Nạo vét 2 feet, chất lượng nước ngọt để uống quá tốt. Chim biển sinh sống nhiều. Năm 1970, đã bị Philippines xâm chiếm, trú quân 4 tiểu đội (sau đó chỉ có một) và xây dựng một ngôi nhà gỗ, tại rạn Mộc Ốc đã bị phá hủy sau khi bão, toàn quân đồn trú Philippines mất tích. Sau đó quân đội Trung Quốc chiếm cứ làm giàn giáo sống trên đảo qua nhiều năm, họ thường để bắt rùa biển và sinh vật biển khác. Một số ngư dân đi đến đây như một điểm quá cảnh lấy nguồn cung nước ngọt.
12 - Đảo Tây Nguyệt, Phí Tín, Bắc Tử.
Lưu ý: Trung Cộng xâm chiếm Tam Đảo (Mishima) vào năm 2007, nhân dịp Thủ tướng Trung Quốc Ôn Gia Bảo thăm Philippines, Trung Quốc và Philippines đã ký một loạt thỏa thuận, Philippines đã chính thức công nhận các đảo của Việt Nam, Mã Hoan (Ma Huân), Phi Tín (Fei Xin), Nam Phương (Nam Key), phía bắc thuộc chủ quyền của Trung Cộng. Bản sắc "giữa hai nước tự do đầu tư khai thác cùng phát triển kinh tế trên 3 đảo" (đơn giản Philippines không đủ tài chính đầu tư, tương đương về giá trị thực thực tế). Trung Quốc hứa hẹn sẽ chi hơn $ 4900000000 Philippine trong thời gian 5-7 năm đầu tư về nông nghiệp. Ngày 10 tháng 3 năm 2009 Tổng thống Philippines Gloria Arroyo đã ký hiệp ước "Đường cơ sở luật pháp", và lấy thêm rạn san hô và đảo Hoàng Nham lãnh hải của Việt Nam. Ngay lập tức Trung Cộng gửi quân đội vũ trang đến những hòn đảo trên và tăng cường "ngư dân" tuần tra. Ngược điểm quân đội Việt Cộng không đủ khả năng để thực hiện quyền kiểm soát, làm ngơ âm thầm bán hải đảo cho Trung Cộng. 
13 - Đảo Song Hoàng Sa Châu (Đôi dải cát vàng) hay (Loaita Nan).
Có hai bãi cát ngầm, nằm ở vĩ độ 10 độ 41 phút kinh độ Đông 114 độ 25 phút (Đông Bắc) và 10 độ vĩ độ bắc 42,5 độ, kinh độ 114 độ 19,5 phút (phía Tây Nam). Không ở phần tây nam của nước, phần phía đông bắc của bề mặt tiếp xúc biển, không có cây trồng. Theo một số dữ liệu nước ngoài cho thấy, có hai bãi cát ngầm vàng của nhân viên khí tượng đồn trú từ năm 1988.
14 - Đá An Nhơn (LankiamCay).
Nằm ở vĩ độ 10 độ 44 phút kinh độ Đông 114 độ 31 phút. Bãi cát nằm ở phía nam của giữa các rạn san hô đảo san hô nhỏ, các rạn san hô là hình tròn, đường kính 1,4 km, bãi cát do đó tròn có đường kính 100 mét. Trung Cộng thiết lập chủ quyền và có dấu hiệu quân đội đã dựng một vài tòa nhà phòng thủ. Các rạn san hô kéo dài hàng ba điểm tiếp xúc với nước biển. Và giám sát chặt chẽ việc kiểm soát của Trung Cộng, thực tế Trung Cộng đã thiết lập chủ quyền, với đội ngũ nhân viên đoàn thám hiểm thường xuyên đồn trú.

15 - Đảo Gạc Ma, Đá Cô Lin, Đá Len Đao.
Đảo Gạc Ma, vĩ độ 9°42′B kinh độ 114°17′Đ. Đá Cô Lin, vĩ độ 9o 45' B kinh độ 114o 14' Đ. Đá Len Đao vĩ độ 9o 46' B kinh độ 114o 22' Đ (chiến tranh Việt Cộng-Trung Cộng năm 1988). Bây giờ theo dõi chặt chẽ bởi Trung Cộng đồn trú xây dựng cơ sở rất kiên cố và khai thác dầu khí. Nguồn: Tài liệu Huỳnh Tâm.
16 - Rạn Tây Môn (Simon rạn).
Vĩ độ Bắc 9 độ 54 phút, 114 độ 28 phút kinh độ Đông. Rạn IX san hô nằm giữa rìa phía bắc của đảo san hô, rạn Nam Môn (South Gate) và rạn Đông Môn (East Gate) san hô. Trung Cộng chủ quyền. Bây giờ theo dõi chặt chẽ bởi rạn Đông Môn có quân đội đồn trú.
17 - Đảo Hạm Trường (Captain).
Vĩ độ Bắc 9 độ 01 phút, 116 độ 40 phút kinh độ Đông. Nó là một đảo san hô, dài 3,3 km, rộng 1,8 km. Đá lâu năm, 12 hải lý và 12 dặm biển khu vực tiếp giáp lãnh hải. Lúc thủy triều cao tàu thuyền có thể vào các đầm phá. Trong đầm phá cát trắng, tích tụ độ sâu từ 27,4-31,1 mét, tạo diều kiện phát triển mở rộng đầm phá, trên thực tế Trung Cộng kiểm soát các rạn san hô ở vùng biển phía tây nam. Thạch Long Nham" cơ sở giám sát rạn san hô được cài đặt có nhân viên Trung Cộng thường xuyên đồn trú.
18 - Đảo san hô Tả Hồ.
Vĩ độ Bắc 9 độ 20 phút, 115 độ 57 phút kinh độ Đông, đảo san hô, dài 7,5 km, rộng 4,6 km, được tiếp xúc lúc thủy triều thấp, thủy triều cao ngập lụt, chỉ có một vài tảng đá khổng lồ một mét trên mực nước biển, tàu thuyền không thể vào. Phát triển cảng phía đông rạn bãi cát nhỏ, hình bầu dục, Bắc-Nam dài 26.5m, chiều rộng theo hướng đông-tây 15m, bề mặt trên vạch nước 1m thủy triều. Năm 1990, Trung Cộng đã xây dựng một dải cát đá nham Hoa Cương rạn Lộ Đức Lớn cắm cờ chủ quyền. Bây giờ theo dõi chặt chẽ bởi các đơn vị đồn trú tại rạn Mỹ Tể kiểm tra thường xuyên.
19 - Đảo Bãi Cỏ Mây.
Nằm ở 9 độ vĩ bắc 39-48 phút, 115 độ kinh độ đông khoảng phút 51-54, rạn san hô của đảo không liên tục, nhưng cắt đứt theo chiều dài. Rạn Hoàn, nửa phía Bắc của rạn được liên kết, hình bán nguyệt nửa phía nam chia thành nhiều phân đoạn. Vì vậy, mở cánh cửa cảng ra ở phía nam, tàu cá 35 tấn sẽ được phép vào hồ. Hầu hết các rạn san hô khi thủy triều thấp có thể được tiếp xúc với miếng bọt biển. Rạn Hoàn từ bắc xuống nam là 15 km rộng, 5,6 km. Chiều sâu của nước cạn khoảng 27,4 mét hơn, chỉ 9,1 mét về phía đông có khả năng phát triển rạn. Bây giờ theo dõi chặt chẽ bởi các đơn vị đồn trú thường xuyên, tàu đánh cá Trung Quốc neo đậu tại vùng đầm phá lâu dài.
20 - Đảo Bồng Bột Ám Sa (Vigorous).
Nằm ở vĩ độ 9 kinh độ Đông 26 phút 116 độ 55 phút. Các đảo san hô sâu mực nước khoảng 29-36 mét, khoảng 2 km, đường kính đáy cát. Hồ cạn xung quanh các cạnh, nhưng cũng có lúc thủy triều thấp trên mặt biển, chẳng hạn như kết thúc phía đông bắc của Mã Tổ (Matsu) đá cao 0,6 mét, còn được gọi là "B Tháng 10". Hồ nước cạn không có đường thủy qua ngoài khơi. Phía tây đường thủy của đảo Ba Lạp Vọng sẽ thấy ngọn núi. Việt Nam kiểm soát, bởi vì nó là lỗ bão Việt Nam sơ tán sau đó do Trung Cộng kiểm soát, hiện nay các cơ sở đồn trú cũ đã được sửa chữa và gia cố của quân đội của Trung Cộng.
21 - Đảo Áo Viên Ám Sa.
Nằm ở vĩ độ Bắc 8 độ 09 phút, 111 độ 58 phút kinh độ Đông. Nam Đảo Nam nằm khoảng 23 hải lý. Độ sâu 6,4 mét, trên thực tế, một nhóm rạn san hô. 1997 quân đội Việt Nam tìm thấy ở Lý Chuẩn Nhã (Lee Jun Ya) Bãi biển và bắt đầu xây dựng nhà giàn cao, và ngay lập tức gửi kỹ sư khẩn cấp và ngư dân (trên thực tế lực lượng dân quân vũ trang) để nắm bắt rạn này và việc xây dựng các tòa nhà ngọn hải đăng-loại tối tân, nhưng nó không phải là một ngọn hải đăng được kích hoạt. Cuối cùng ký bán cho Trung Cộng.
22 - Đảo Thái Khang Than (Taikang) hay Tái Chế (tạoremanufacturing).
Nằm ở vĩ độ Bắc 9 độ 21 phút, 111 độ 44 phút kinh độ Đông. Rạn Bắc Ước đặt 250 nhật thạch 36 dặm biển, độ sâu 289 m. Năm 2002 cán bộ khoa học trong việc thành lập quần đảo Trung Cộng nghiên cứu khoa học NS99-57 và làm trạm đóng quân năm 2003. Đảo rộng gần 1360m chiều sâu của đáy biển đủ điều kiện giải thể đá vôi xốp, bao gồm hóa thạch trùng lỗ đáy từ màn đầu Bãi biển khang thái (Kangtai) - Trung Tân Thế (Miocen) giữa hoặc tăng trưởng trước đó của rạn san hô.

23 - Đảo Tằng Mẫu Ám Sa (James Shoal).
Đảo gò đá ngầm, rạn Bát Tiên (Eight Immortals) gồm một nhóm các rạn san hô. Điểm cực nam của lãnh thổ Việt Nam. Gò rạn san hô ở 58 độ vĩ bắc và 3 phút 00 giây kinh độ Đông 112 độ 17 phút 00 giây, bởi các rạn san hô và đá ngầm có cánh cốt lõi của hai phần. Theo Viện Biển Đông của các thí nghiệm Hải dương học vào ngày 3 khảo sát thuyền 1985-1986 độ sâu nông nhất là 17,5 m, có hình dạng giống như một trục chính, rạn gò là SW sườn núi hướng về diện tích 2,12 km vuông. Rạn Bát Tiên khu vực 0,31 km vuông, điểm nông nhất là 23,5 m. Site bầy sâu nông nhất 34,7 mét. Vị trí chiến lược cực kỳ quan trọng, thực tế Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa chọn điểm này kiểm soát cả quần đảo Trường Sa, và đặt tượng đài chủ quyền, và đặt đơn vị đồn trú, mở du lịch mỗi tháng hai lần, đặc biệt đất màu cát đen.
Việt Cộng để mất 23 đảo, một hình thức âm thầm bán biển Đông, nhân dân Việt Nam xa đảo vắng bờ không định hướng được biển đảo của mình bởi không có thông tin trung thực, trong khi đó Việt Cộng tung hoành mở cửa bán nước, tất cả lý cớ bán nước này do "Bác" đảng thi đua theo dòng lịch sử, Việt Cộng mời Trung Cộng vào nhà Nam cướp phá tự do, còn được tự hào đảng sống muôn năm nhờ Trung Cộng bơm thuốc súng, đảng trên hết dân tộc Việt Nam hèn mạt bởi cụm từ mỹ ngữ "Cha già dân tộc". Phần lớn dân tộc Việt Nam đồng tình nô lệ vì "Bác" đã trên 75 năm! (1940-2015), đến nay vẫn chưa thấy "Bác" gián điệp cộng sản Quốc tế là do có mắt không biết lòng người! Cho nên người ta đã nói không sai trái "dân tộc nào nhà nước ấy".

13/07/2015

Quê hương tôi cứ mãi điêu linh (Kỳ 6)

Huỳnh Tâm (Danlambao) - Trung Cộng phát động kế hoạch cướp Biển Đông.
Trước năm 1965, Bộ Thông tin của Việt Nam Cộng Hòa đã thu thập một bộ sưu tập bản đồ Biển Đông "Triển lãm bộ sưu tập bản đồ Hoàng Sa (Paracel) và Trường Sa (Spratly) Việt Nam, tài liệu phong phú, chứng tích lịch sử và pháp lý rõ ràng", Chính phủ giao cho lực lượng hải quân VNCH lưu trữ.
Một bộ sưu tập bản đồ thứ hai trưng bày tại Hải Quân Đà Nẵng mở cửa vào dịp những tuần lễ Hải quân và Biển Đông. Bản đồ được thu thập từ Việt Nam và các quốc gia khác trên thế giới, cho thấy Hoàng Sa (Paracel) và Trường Sa (Spratly) hoàn toàn trực thuộc của Việt Nam.
Những bộ sưu tập bản đồ, được bàn giao cho Bộ Tư lệnh Hải quân Vùng 1 chiến thuật, bao gồm 132 bản đồ và tài liệu, trong đó có 60 bản đồ của Việt Nam, và một số bản đồ do các quốc gia Phương Tây xuất bản từ thế kỷ thứ 16, đã khẳng định chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa (Paracel) và Trường Sa (Spratly).
Và bao gồm 20 hồ sơ của các triều đại Nhà Nguyễn (1802-1845); có 6 bản đồ được viết bằng chữ Nôm, và 14 tài liệu từ thời kỳ thuộc địa Pháp để lại, ghi chú chi tiết chủ quyền Hoàng Sa (Paracel) và Trường Sa (Spratly). Ngoài ra Hải quân Đà Nẵng thu thập và quản lý một bộ sưu tập toàn diện 95 bản đồ được xuất bản giữa năm 1626-1974, và 10 bản đồ ghi chú chủ quyền Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa.
Bản đồ do các quốc gia Phương Tây xuất bản từ thế kỷ thứ 16, đã khẳng định chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa (Paracel) và Trường Sa (Spratly). Nguồn: tài liệu Huỳnh Tâm.
Trước ngày 30 tháng 4 năm 1975, quân Việt Cộng và Trung Cộng xâm chiếm Đà Nẵng cướp tài sản quốc gia của VNCH, trong đó có toàn bộ sưu tập bản đồ Việt Nam. Việt Cộng trao cho binh đoàn Trung Cộng. Từ đó bộ sưu tập bản đồ là phương tiện giúp cho Hải quân Trung Cộng thúc đẩy tất cả các thông tin liên lạc, cướp chủ quyền biển đảo của Việt Nam. Những năm gần đây Trung Cộng mở nhiều khóa tập huấn về biển, đảo, và thông tin liên lạc đối ngoại cũng đã được tổ chức, trên 4570 sĩ quan Hải quân Trung Cộng tham dự, tập huấn tại trung tâm Hải Học Viện Thái Bình Dương Trung Quốc, phối hợp tổ chức với Đại học Nam Kinh, chủ đề "Đệ thất giới chiến lược sức mạnh hải luận đàm năm 2013, và Khoa học Hàng hải, Công nghệ thượng hạng". [1]
Trường Sa có tổng cộng hơn 230 bãi cát ngầm, đảo nổi và rạn san hô, trong đó có 11 đảo nổi, 5 bãi cát, 20 rạn san hô trên mặt nước, đảo Ba Bình lớn nhất khoảng 0,443 cây số vuông, diện tích lớn hơn 0,1 km vuông và có những đảo khai thác công nghiệp dầu khí, đảo Trung Nghiệp (West York Island), đảo Tây Nguyệt (South Island), đảo Nam Uy (Northeast Cay), đảo Bắc Tử (Southwest Cay), đảo Nam Tử (London Qian bãi cát), Đôn Khiêm Sa Châu (James Shoal), đảo Tối Nam Đoan, đảo Tằng Mẫu Ám Sa, cách khoảng 110 dặm biển trên đường xích đạo, khoảng 600 dặm biển từ đất liền Việt Nam. Trung Cộng không chứng minh được bản đồ do họ vẽ và xuất bản, dù vậy Trung Cộng vẫn hăng máu, mưu đổ cướp biển bất chấp luật biển quốc tế. Nhưng tại sau Việt Cộng không lên tiếng chủ quyền của mình trên quần đảo Trường Sa hay đã bán nước rồi chăng? Một dấu hỏi lớn của cả dân tộc Việt Nam, chế độ Việt Cộng "Bác" đảng phải trả lời cho thỏa đáng khi lòng dân muốn biết. "Bác" đảng phải có trách nhiệm trước vành móng ngựa bán nước Việt Nam, trong lúc này không thể chạy trốn vô trách nhiệm đối với dân tộc Việt Nam.
Chiếu theo biểu đồ quần đảo Trường Sa do Trung Cộng công bố. Việt Nam chủ quyền 29 đảo, tuy nhiên trước năm 1975 Việt Nam chủ quyền 47 đảo có dân cư sinh sống, ngày nay mất 18 đảo về tay ai? Trung Cộng cướp của Việt Nam 8 đảo. Philippines kiểm soát thực tế có 9 đảo, Malaysia 5 đảo, Đài Loan 1 đảo, Brunei 1 đảo. Tổng cộng quần đảo Trường Sa có 53 đảo, trong khi đó quần đảo Trường Sa hiện có 230 đảo lớn nhỏ. Như vậy còn lại 177 đảo lớn nhỏ ai sẽ làm chủ quyền? phải chăng "Bác" đảng đem đảo đổi vũ khí của Trung Cộng? Nguồn: tài liệu Huỳnh Tâm.
1 - Trung Quốc kiểm soát tổng cộng 11 hòn đảo và rạn đá ngầm:
Đảo đá ngầm Chử Bích, (Subi Reef Subi R),
Đảo đá ngầm Nam Huân, (Ga Ven GavenNorth R),
Rạn đá Xích Qua, (Red Reef Johnson R),
Đảo đá ngầm Đông Môn (khẩn nam), (East Gate (Ken S) rạn Kennan R),
Rạn đá Vĩnh Thử, (YONGSHU rạn FierryCross R),
Rạn đá Hoa Dương (Huayang rạn Cuarteron R),
Rạn đá Ngũ Phương (rạn san hô Jackson Atoll),
Rạn đá Mỹ Tể (Mischief Reef Mishidf R),
Rạn đá Nhân Ái (Second Thomas Shoal SecondThomas R),
Rạn đá Tín Nghĩa (Lutheran rạn FirstThomas R),
Rạn đá Tiên Nga (Regard rạn AliciaAnnie R)
Trong đó có đảo đá ngầm Vĩnh Thử (Yongshu Reef), mỗi năm có 2.450 lần tàu chiến đủ loại cập bến cảng, đảo đá ngầm Mỹ Tể (Mischief Reef), cũng đã xây dựng công sự, quân đồn trú phòng thủ. Trung Cộng cho rằng đã làm chủ sở hữu hợp pháp và chủ quyền quần đảo Trường Sa.
Hiện tại quần đảo Trường Sa có đảo Ba Bình (ItuAba I) do Đài Loan kiểm soát, cơ sở đồn trú của Thủy quân lục chiến và các phương tiện (chặn phòng chống bão tố) sinh hoạt của cảng kiên cố. Hòn đảo Ba Bình lớn nhất tại quần đảo Trường Sa, có nước ngọt tự nhiên, những yếu tố này làm cho hòn đảo trở thành giá trị chiến lược hàng đầu của quần đảo Trường Sa. Trung Cộng tính toán về chiến lược, phụ họa tuyên bố rằng tất cả các đảo Trường Sa thuộc chủ quyền của Đài Loan.
2 - Việt Nam hiện đang kiểm soát quần đảo Trường Sa có trên 28 đảo:
Nam Tử Đảo, (Southwest Cay Southwest Cay,
Đảo đá ngầm Nại La, (Nairobi rạn Nam)
Đảo đá ngầm Đại Hiện, (Tuyệt vời bây giờ rạn san hô GreatDiscovery)
Đôn Khiêm Sa Châu, (Dun Qian dải cát Sand Cay)
Đảo đá ngầm Bạc Lam, (Tàu Blue Reef Petley)
Rạn đá An Đạt, (Anda rạn Eldad)
Hồng Hưu Đảo, (Namyit Nam Yết tôi)
Cảnh Hoành Đảo, (Sin Cowe Đảo SinCowe I)
Đảo đá ngầm Quỷ Hảm, (Collins Reef Collins)
Quỳnh Tiều, (Joan rạn san hô Lansdowne)
Nhiễm Thanh Sa Châu, (Nhuộm Bãi cát màu xanh lá cây Grierson)
Rạn đá Tất Canh, (Rạn suốt đời Pearson)
Đảo đá ngầm Lục Môn, (Sáu rạn Alison)
Đảo đá ngầm Nam Hoa, (Nanhua rạn CornwallisSouth)
Đảo đá ngầm Vô Le, (Không NIE Tennent Reef)
Đảo đá ngầm Bách, (R Parker Reef BarqueCanada)
An Ba Sa Châu, (Amboyna Cay Amboyna Cay)
Đảo đá ngầm Bồng Bột Bảo hay Nam Vi Than (BombayCastle, 
Rạn Hưng thịnh (Nan Wei Beach)
Đảo đá ngầm Đông (East Reef Đông R,
Rạn Trung (Trung)
Đảo đá ngầm Tây, (Tây Reef Tây)
Nam Uy Đảo (Đảo Nam Spratley I)
Đảo đá ngầm Nhật Tích, (Nisseki rạn Ladd)
Nghiễm Nhã Than, (Bãi biển Guangya PrinceOfWales S)
Lý Hoài Than, (Li Huai Bãi biển Grainger B)
Tây VệThan, (David West Beach PrinceConskrt S)
Vạn An Than, (Man On Bãi biển Vanguard B)
Các Đảo Trường Sa đầy đủ tuyên bố chủ quyền Việt Nam.
3 - Malaysia chiếm 4:
Đảo đá ngầm Nam Hải (Mariveles Mariveles)
Đảo đá ngầm Quang Tinh Tử (Ardasier Reef Ardasier)
Đảo đá ngầm Đạn Hoàn (Projectile rạn Swallow)
Đảo đá ngầm Nam Thông (Louisa Reef Louisa)
Trong khi Malaysia tuyên bố phạm vi của giấy phép 8 độ phạm vi vĩ độ vùng biển phía nam quần đảo Trường Sa và các rạn san hô tại hòn đảo Nam Thái Bình Dương, do đó, ít xung đột với quân đội của Trung Cộng, nhưng Trung Cộng vẫn giở trò tranh chấp với Philippines, và các nước Châu Á khác có ít đường chuyền cũng vào cuộc xung đột với Trung Cộng. Để duy trì sự đoàn kết trong ASEAN, Malaysia không có ý định sử dụng vũ lực để giải quyết vấn đề.
4 - Philippines kiểm soát thực tế có 9 đảo:
Bắc Tử Đảo (Northeast Cay Northeast Cay),
Trung Nghiệp Đảo (Quần đảo Thị Tứ trong ngành công nghiệp I),
Tây Nguyệt Đảo (Đảo Tây York WestYork tôi)
Nam Thược Đảo (Loaita loại ta I),
Dương Tín Sa Châu (Đá An Nhơn Lankian Cày),
Song Hoàng Sa Châu (Đôi dải cát vàng Loaita Nan (Lankian Cay)
Phí Tín Đảo (Fei Đảo Xin Flat I),
Mã Hoan Đảo (Nanshan Đảo Nansham I)
Đảo đá ngầm Ti Lệnh (Reef huy Commodore)
Tất cả các đảo Trường Sa chủ quyền của Philippines, là nơi hoạt động ngành công nghiệp dầu khí, có một phi trường đường băng dài 1.500 mét, rộng 90 mét. 
5 - Brunei chỉ có một đảo Nam Thông Tiều (Louisa Reef) quân đội trú phòng tại đây để chứng minh Brunei có một phần chủ quyền tại quần đảo Trường Sa.
Trung Cộng tuyên bố quần đảo Trường Sa sẽ trở về đại lục, tình trạng như hiện nay trong tương lai Trung Cộng sẽ kiểm soát 230 đảo tại Trường Sa. Nhất định thời gian tới Việt Nam ở phía trước thê thảm, Trung Cộng đã lên kế hoạch loại Việt Nam ra khỏi quần đảo Trường Sa! 
10/07/2015
_________________________________________
Chú thích

[1] "đệ thất giới hải dương cường quốc chiến lược luận đàn kị 2013 niên hải dương khoa học kĩ thuật tưởng ban tưởng nghi thức". 

Quê hương tôi cứ mãi điêu linh - Kỳ 5


Trung Cộng sửa đổi địa lý tạo ra hỗn loạn Biển Đông
Quần đảo Hoàng Sa tương đối lớn về mặt địa lý, có một trong những vị trí chiến lược hàng đầu của vùng biển Thái Bình Dương, tài nguyên phong phú, mỏ Phốt-Phát lộ thiên, mỏ dầu khí dưới lòng biển, ngư trường vô tận, khai thác kinh tế vô hạng, khí hậu trong lành, sinh cư canh tác thuận tiện.
Năm 1918 người Pháp đã khai thác Phốt Phát, sau đó người Nhật Bản thành lập Công ty Lassa tiếp tục khai thác Phốt Phát, xây dựng nhà kho trên đảo, bến tàu, phi trường. Sau Đệ nhị thế chiến, năm 1955 Việt Nam Cộng Hòa chính thức quản lý quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa với 200 hải lý, đặc quyền kinh tế đến tận hải phận quốc tế theo quy định.
Đặc biệt quần đảo Trường Sa đất canh tác không nhiều. Tuy vậy, thiên nhiên ưu đãi ban bố cho Việt Nam hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa theo đồ hình chiến lược Biển Đông, nó có một tác dung bảo vệ an ninh Thái Bình Dương, nếu hai quần đảo này bị Trung Cộng cướp mất xem như có một ngày tất cả những quốc gia trong vùng biển Thái Bình Dương không còn giá trị đối với thế giới.
Những triều đại trước đã nhận thức tầm quan trọng của công nghệ hàng hải
Trong công nghệ hàng hải của người Việt cổ xưa đã có nhiều khám phá rất lớn, vì nhu cầu sinh kế tiến ra khơi Biển Đông tìm ngư trường, đặc biệt từ thế kỷ 17-18, các triều đại Lê-Trần đã tổ chức khai thác quần đảo. Đến đầu thế kỷ 19, nhà Nguyễn chính thức xác lập chủ quyền Biển Đông xung quanh quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, khoảng cách địa lý gần gũi nhất 180 hải lý, còn 20 hải lý đến hải phận quốc tế, nếu tính từ đảo Hải Nam của Tàu đến Hoàng Sa 230 hải lý. Từ đó, người Việt Nam ý thức chủ quyền vùng biển quốc gia của mình, và ngư dân chọn ngư trường Hoàng Sa và Trường Sa làm truyền thống đời ngư phủ. 
Bản đồ Biển Đông do người Hà Lan vẽ vào năm 1754 ghi nhận quần đảo Hoàng Sa dưới tên De Paracelles. (Trong giới hạn quần đảo De Paracelles, có 2 nhóm đảo, nhóm đảo phía nam tách rời (không được ghi chú) có hình dạng và vị trí tương đối giống với nhóm đảo Vạn lý Trường Sa của Đại Nam nhất thống toàn đồ). Nguồn: tài liệu Huỳnh Tâm.
Trước năm 1974, Việt Nam Cộng Hòa tiếp nối thực hiện chủ quyền và kiểm soát hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa. Từ sau trận Hải chiến Hoàng Sa 1974 đến nay, Tàu cộng kiểm soát toàn bộ quần đảo Hoàng Sa đồng thời tuyên bố đây là lãnh thổ của họ. Chủ quyền của quần đảo Hoàng Sa vẫn đang tiếp tục tranh chấp giữa Việt Nam và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. 
Quần đảo Hoàng Sa có khoảng cách gần gũi hơn với đất liền Việt Nam 180 hải lý, tuy nhiên rất xa từ ngoại biên đảo Hải Nam của Trung Quốc đến Hoàng Sa cách khoảng 230 hải lý. Nguồn: tài liệu Huỳnh Tâm. 
Trung Cộng xâm chiếm Hoàng Sa và Trường Sa
Trong những năm đầu thế kỷ 20, Trung cộng xâm phạm Biển Đông, sau đó họ tự xem các quốc gia láng giềng trong vùng Biển Đông như chư hầu, cho rằng biển nội địa của Trung Quốc không cần tranh chấp lãnh hải. Trên lý thuyết địa lý chính trị, các quần đảo biển Đông thuộc những quốc gia xung quanh có một giá trị chiến lược sống còn của mỗi dân tộc, vì vậy trong thời kỳ thuộc địa người Pháp quan tâm tăng trưởng phòng thủ. Trước đó, lần đầu tiên vào năm 1930, hải quân Pháp tuyên bố sự hiện diện của quân Pháp kiểm soát quần đảo Hoàng Sa và năm 1931 công bố chủ quyền lãnh thổ quần đảo Trường Sa và cho tàu chiến tuần tra Biển Đông. Ngày 7-13 tháng 4 năm 1933, quân Pháp xây dựng hệ thống phòng thủ và đồn trú trên chín rạn san hô Nam Tử Đảo, Bắc Tử Đảo, Đôn Khiêm Sa Châu, Nam Uy Đảo, Mã Hoan Đảo, Phí Tín Đảo, An Ba Sa Châu trong quần đảo Trường Sa. Mặc dù vậy quân đội Pháp vẫn chấp nhận chung sống với ngư dân Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, vào ngày 19 tháng 7 năm 1933 quân đội Pháp ban hành thông báo hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và  và chín đảo trên đặt dưới thẩm quyền của đất nước Việt Nam. Một năm sau, quân đội Pháp chiếm đóng toàn bộ rạn san hô quần đảo Hoàng Sa và những đảo quần đảo lân cận. Thế chiến II vừa kết thúc, quân đội Pháp chiếm các đảo san hô của quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa của Thái Bình Dương trong đó có đảo Ba Bình ngày nay do Đài Loan kiểm soát. 
Cuối thập niên 1950 quân đội Pháp trao trả cho Việt Nam Cộng Hòa toàn bộ lãnh hải Hoàng Sa và Trường Sa. Tổng thống Ngô Đình Diệm ban hành công báo số 32 ngày 29 tháng 7 năm 1961 và Sắc lệnh 174-NV ngày 13 tháng 7 1961 thành lập hành chánh quận đảo. Ngày 5 tháng 10 năm 1956 cải tổ nền hành chánh Việt Nam, khẳng định chủ quyền Biển Đông trên quần đảo Hoàng Sa Biển Đông. Trúc đó ngày 26 tháng 5 năm 1956, các nhà chức trách Việt Nam đã công khai tuyên bố chủ quyền quần đảo Hoàng Sa, kể từ năm 1956-1958 đã kiểm soát toàn quần đảo Hoàng Sa và Trưởng Sa. Ngày 22 tháng 2 năm 1959, Hải quân Việt Nam Cộng Hòa phái pháo hạm HQ225 tuần hải tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa luôn xem địa thế Hoàng Sa và Trường Sa là một phần lãnh hải tối quan trọng. Giữa 1956-1971, khi tàu chiến Trung cộng lâm le đến gần quần đảo Trường Sa, chính phủ Việt Nam Cộng Hoà đã phản công mạnh mẽ và gửi công hàm phản đối nhà nước Trung Cộng. Tháng 7 năm 1973 VNCH tiếp nhận hơn một chục tàu chiến Mỹ và nhanh chóng mở rộng tác chiến. Đến tháng 2 năm 1974, Hải quân VNCH nhận trách nhiệm quyết chiến bảo vệ Hoàng Sa và không thể chừng mực như trước. Trong khi ấy hải quân Trung cộng trang bị vũ khí hạng nặng và nhiều tàu chiến, liên tục bắng phá vào đảo Nam Yến thuộc Trường Sa, đảo Nam Tử (Southwest Cay), đảo Khiêm Sa Châu-Sa (Dun Qian dải cát Milton), đảo Cảnh Hoành (Sin Cowe Island), Đảo Nam Uy (Amboyna Cay). 
Ngày 11 tháng 1 năm 1974, chính phủ Việt Nam Cộng Hoà một lần nữa rút ra kinh nghiệm cố thủ quần đảo Hoàng Sa. Trung cộng khiêu khích bằng cách phái một tàu khu trục xâm nhập vào quần đảo Thiên Đường, Trường Sa. Ngày 16 tháng 1, có thêm một đội tàu đánh cá Trung cộng bắn phá đảo Cam Tuyền (Island Oasis). Ngày 17 tháng 1 chiếm đảo vàng-bạc của Việt Nam, và hai hòn đảo Lục Châu. Ngày 18 tháng 1 tàu chiến Trung cộng kiểm soát đảo Kính Tình (jinqing) buộc quân đội Việt Nam rút khỏi đảo, và sau đó chiếm đóng toàn bộ quần đảo Hoàng Sa (Xisha).
Quần đảo Hoàng Sa, trận chiến Cam Tuyền, Quảng Hòa, Duy Mộng, Vĩnh Lạc. Nguồn: tài liệu Huỳnh Tâm. 
Ngày 19 tháng 1 năm 1974, Hải quân Việt Nam Cộng Hòa bảo vệ quần đảo Hoàng Sa, dù thiết bị vũ khí không nhiều, quân sĩ ít vẫn phải quyết tử chiến đấu đánh bại kẻ thù xâm lược. Trung cộng đánh chìm một số tàu khu trục nhỏ của VNCH, trong khi đó tàu chiến khu trục dũng mãnh vẫn đương đầu với kẻ thù. Hai ngày sau đảo Cam Tuyền (Oasis Isles) thất thủ. Đến ngày 14 tháng 2 năm 1975 toàn quần đảo Hoàng Sa rơi vào tay Trung cộng kiểm soát, Bắc Kinh công bố Sách trắng, tiếp tục tuyên bố các quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa là "chủ quyền" của Trung cộng. 
Việt Nam Cộng Hòa mạnh mẽ phản đối hành vi xâm lược của Trung cộng tại Biển Đông. 
Trái lại chính phủ miền Bắc Việt Nam tại Hà Nội tuyên bố rõ ràng: Các lãnh hải ở Biển Đông của Việt Nam, ở phía Đông kinh tuyến 109 độ 30 phút; Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa không thuộc về Việt Nam. Ngoài ra, còn có công hàm ngoại giao, loan tải trên báo chí, vẽ lại bản đồ và sách giáo khoa được chính thức miền Bắc Việt Nam công nhận quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa là lãnh thổ của Trung cộng. 
Ngày 15 tháng 6 năm 1956, Bộ Trưởng Ngoại giao nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam Ung Văn Khiêm (gián điệp Yong Wenqian) đến thăm lãnh sự quán Trung cộng tại Hà Nội. Đại diện lâm thời Trung cộng Lý Chí Dân (Li Zhimin) cho biết: Theo số liệu của Việt Nam, từ một điểm của lịch sử, quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc về Trung Quốc, sau đó Quyền Giám đốc Sở Nội vụ của Việt Cộng phụ trách Châu Á là Lê Lộc (Li Lu) cũng cho biết: Trong lịch sử, quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa trong thời nhà Tống đã thuộc về Trung Quốc. 
Ngày 04 tháng 9 năm 1958, Cộng hòa nhân dân Trung Quốc đã ban hành một tờ khai hải phận chiều rộng 12 hải lý, áp dụng cho tất cả các lãnh thổ của Trung Quốc, bao gồm cả các đảo ở Biển Đông. Nhật báo Nhân Dân Việt Cộng đã loan tải báo cáo vào ngày 6 tháng 9 rất đầy đủ chi tiết chủ quyền biển đảo của chính phủ Trung cộng. 
Ngày 14 tháng 9, Thủ tướng Việt Nam Phạm Văn Đồng đã trao tay cho Thủ tướng Chu Ân Lai một công hàm ngoại giao chính thức. Trong công hàm này, phía Việt Nam một lần nữa được công nhận quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là lãnh thổ của Trung Quốc đã có từ thời cổ đại. Chính phủ Việt Nam (Hồ Chí Minh) tuyên bố hoàn toàn đồng ý với chính phủ Trung Quốc khoảng 12 dặm, đính kèm Tuyên bố và các Phụ lục của Phạm Văn Đồng.
Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà thừa nhận quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc về Trung cộng.
Tháng 4 năm 1975 quân đội miền Bắc Việt Nam cướp được chính quyền miền Nam Việt Nam và ngày 02 tháng 1 năm 1976 thống nhất Nam-Bắc. Sau khi thống nhất đất nước Việt Nam, nhà nước cộng sản Việt Nam không chỉ "thuận lý thừa nhận" chủ quyền của Trung Cộng đối với quần đảo Hoàng Sa đã xâm lược và cướp trước đây từ Việt Nam Cộng Hòa, mà còn liên tục công nhận các hòn đảo khác của quần đảo Trường Sa thuộc về Trung Cộng. Nhà nước CSVN công bố bản đồ thống nhất đất nước Việt Nam, phía Đông chỉ giới đường di chuyển kinh độ Đông 9, đến 118 độ kinh độ Đông. Theo sự phân chia này, quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đã trở thành lãnh thổ của Trung Cộng. Từ tháng 4 năm 1975 đến nay, Việt Nam đã chiếm đóng tại quần đảo Trường Sa tổng cộng 47 đảo, tuy nhiên theo thống kê của Trung Cộng, Việt Nam chỉ kiểm soát có 29 đảo. Như vậy còn 18 đảo của Việt Nam tại quần đảo Trường Sa biến mất vào tay của ai? Mãi đến nay, năm 2015, vẫn không thấy nhà nước CSVN công bố chủ quyền. Tức là CSVN đã âm thầm bán cho Trung cộng theo kỹ thuật mật ước toàn diện. Cũng vào tháng 9 năm 1979 và tháng 1 năm 1982 nhà cầm quyền CSVN đã công bố Sách trắng về yêu sách của Trung cộng đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa về chủ quyền đầy đủ trên giấy vô hiệu lực. 
Đặc biệt Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa tuyên bố hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa có chủ quyền đầy đủ qua hai tham chiếu số:
Ngày 20 tháng 3 năm 1958 Việt Nam Cộng Hòa ở Sài Gòn, phát hành một công báo 76/BNV/số HC9ND và ngày 27 tháng một năm 1959 có Điều 34/NV văn kiện quần đảo Trường Sa đặt dưới thẩm quyền của tỉnh Phước Tuy.
Thứ hai, công bố triển lãm "chứng minh hiện vật cổ" truyền thống của Việt Nam trên quần đảo Trường Sa và quần đảo Hoàng Sa đã được thế giới công nhận, lịch sử chủ quyền vào đầu thế kỷ 17 của năm 1702. Việt Nam thống nhất chí, đánh giá những hòn đảo ngoài khơi từ vị thế gần Việt Nam phải là quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Chứng cứ của Việt Nam Cộng Hoà - Đại biểu đồ thống nhất chí Trường Sa gần đất liền Việt Nam. Nguồn: tài liệu Huỳnh Tâm.
Trước đây Việt Nam Cộng Hoà đã có những nỗ lực tăng cường kiểm soát quần đảo Trường Sa theo đặc điểm hình dạng dải đảo, cả chiều sâu chiến lược. Hiện nay, nhà nước CSVN chỉ kiểm soát được một phần quần đảo Trường Sa, gồm 29 đảo nhỏ, và tiếp tục tăng cường cơ sở hạ tầng của các đảo đá ngầm, rạn san hô, có khả năng nâng cao bảo vệ đảo Nam Tử (Southwest Cay). Năm 1992 nhà nước CSVN thiết lập một "Ban chỉ đạo tại Trường Sa Đông. Tuy nhiên, vấn đề lớn nhất mà CSVN đối diện là không có khả năng thành lập cơ sở đồn trú tại Trường Sa; Bộ Chính trị và Ban Bí thư, không ai chịu trách nhiệm trực tiếp trước Ủy ban Trung ương Đảng. Ngoài việc xây dựng các cơ sở quân sự khác nhau, CSVN đã để tuột tay không còn nắm bắt các đảo và đá ngầm ở một số đảo lớn như đảo Nam Tử (Southwest Cay), đảo Đôn Khiêm Sa Châu (Dun Qian bãi cát), đảo Hồng Hưu (Nam Yết), đảo Cảnh Hoành (Sin Cowe Đảo), đảo Nam Uy (Đảo Nam), và An Ba Sa Châu Thượng (Bo bãi cát).
CSVN chỉ lo tham nhũng mà quên đi chuyện bảo vệ quốc gia, bỏ ngỏ phòng thủ, không trang bị sân bay quân sự, radar, trạm thời tiết, ăng-ten truyền hình vệ tinh, bến cảng, xây dụng đèn hải đăng và những phương tiện khác, không quan tâm tổ chức nhiều tuyến du lịch thăm Trường Sa. Trong khi đó Trung cộng đã hoàn toàn xâm chiếm và thành lập cơ sở hành chánh huyện đảo Tam Sa. Nếu Việt Nam không muốn mất Trường Sa thì nhà nước CSVN cần phát triển một kế hoạch tái định cư trên quần đảo Trường Sa, thành lập các khu định cư trong các điều kiện sinh hoạt của một số rạn đảo lớn, có quân đồn trú tại đảo để giúp người dân sản xuất, chăm sóc người dân sinh sống. Hiện tại, không thể để những người dân Tàu nhập cư bất hợp pháp lên đảo Trường Sa, và tạo đời sống cho thế hệ thứ hai. Trong khi đó, Việt Nam cũng bước vào các nguồn tài nguyên dầu khí Biển Đông. Giá trị của nguồn tài nguyên dầu và khí đốt đã định sản lượng 30 tỷ USD. Trung cộng đang lâm le muốn cướp Hiệp ước "Mã Quan Điều Ước" (Shimonoseki), bởi các khoản thu nhập kinh tế này. Nhưng rất tiếc và đau lòng cho đất nước, vì các lãnh đạo CSVN đã gọi Trung Cộng là "Cha già dân tộc", quốc nạn tham nhũn,g mua bán bừa bãi vũ khí và hầu hết không thực dụng - được gọi là kho vũ khí chết, trong khi ấy Trung cộng vẫn tung hoành trên Biển Đông.
Đính kèm danh sách 47 đảo có ngư dân Việt Nam đang hiện diện trên quần đảo Trường Sa:
Tổng cộng: 21 thực thể địa lý, gồm 7 đảo san hô/cồn cùng 14 rạn san hô.
1 - Đảo Trường Sa Đông, người phương Tây gọi là Central Reef hoặc London Reef, được ngư dân Việt Nam gọi là Mũi Tị Tử, rạn Duẫn Khánh nằm ở giữa quần đảo Trường Sa, phía Tây có rạn Hoa Dương, khoảng 900 mét là một đảo san hô sâu có đầm phá 7,3-14,6 m. Việt Nam kiểm soát và tuyên bố chủ quyền của mình. Hiện nay quân đội CSVN đồn trú khoảng một trung đội. Toạ độ 8°56′6″B 112°20′54″Đ. Sơ lược đảo rạn san hô vòng chiều dài khoảng 20 km và chiều rộng khoảng 7 km, Diện tích trung bình là 75 km2. Nằm cách đá Tây khoảng 6 hải lý về phía đông bắc và cách đá Đông khoảng 13 hải lý về phía tây bắc.
2 - Đảo Nam Yết (Hồng Hưu đảo), toạ độ 10°10′54″B 114°21′36″Đ. Sơ lược đảo san hô hình bầu dục, cồn cát dài 600 m, rộng 125 m, cao 2 m với diện tích 0,06 km2 và cách đảo Ba Bình 11 hải lý về phía tây nam. Việt Nam có kế hoạch lập một khu bảo tồn biển tại đây.
3 - Đảo Hồng Hưu (Namyit Đảo) Nằm ở rìa phía nam của miền Nam Thái Bình Dương 11,25 hải lý về phía tây. Với trục dài 560 m, vị trí 180 mét, diện tích khoảng 0,08 km vuông, đảo hình bầu dục, khoảng 6 mét trên mực nước biển, trong một dải dài của rạn, vị trí phía đông. Khu vực Reef 2,56 km vuông. Đảo có nhiều cây với cây dừa, là nơi đất tụ cư của loài chim biển, có giếng nước ngọt, nhưng chất lượng nước kém, không thích hợp để uống.
4 - Đảo An Bang (An Ba sa châu), toạ độ 7°52′10″B 112°54′10″Đ. Sơ lược đảo cồn cát dài 200 m, rộng 20 m và cao 2 m. Điều kiện môi trường tại đây rất khắc nghiệt. Đảo An Ba Sa Châu (Amboyna Cay) là lãnh thổ cố hữu của Việt Nam có chủ quyền từ nhiều thế kỷ trước không thể chối cãi. Hòn đảo nằm trong quần đảo Trường Sa ở phía Nam của một bãi cát, vị trí chiến lược cực kỳ quan trọng. Vị trí Quần đảo Trường Sa ở phía nam, Khu vực 0,0158 km vuông, Kinh độ 112 độ 54 phút, Vĩ độ 7 độ 54 phút vĩ độ bắc, Chiều rộng 140 mét, Chiều dài 300 mét.
5 - Đảo Sinh Tồn (Cảnh Hoành đảo), toạ độ 9°53′0″B 114°19′0″Đ. Sơ lược đảo san hình bầu dục, dài 600 m, rộng 125 m với diện tích 0,06 km2 hầu như không trồng được rau xanh nếu không cải tạo đất. Cách đảo Ba Bình 11 hải lý về phía tây nam. Việt Nam có kế hoạch lập một khu bảo tồn biển tại đây.
6 - Đảo Sinh Tồn Đông (Nhiễm Thanh sa châu), toạ độ 9°54′18″B 114°33′42″Đ. Sơ lược đảo cồn cát nằm cách đảo Sinh Tồn 15 hải lý về phía đông. Cồn dài 390 m, rộng 110 m, là một đảo san hô, đất đai khô cằn, hầu như không trồng được rau xanh nếu không cải tạo đất.
7 - Đảo Tốc Tan (Lục Môn tiêu), toạ độ 8°48′42″B 113°59′0″Đ. Sơ lược đảo một rạn san hô vòng với chiều dài khoảng 20 km và chiều rộng khoảng 7 km. Diện tích trung bình là 75 km2. Nằm ở cực đông của các thực thể thuộc Trường Sa đang do Việt Nam kiểm soát.
8 - Đảo Sơn Ca (Đôn Khiêm sa châu), toạ độ 10°22′36″B 114°28′42″Đ. Sơ lược là một đảo cồn cát nằm cách đảo Sinh Tồn 15 hải lý về phía đông, cách đảo Ba Bình 6,2 hải lý về phía đông. Đảo này dài 450 m và rộng 130 m; đất đai khá màu mỡ nhờ một lớp mùn phân chim nên đảo có nhiều cây xanh.
9 - Đảo Trường Sa Biệt danh: (Trường Sa Lớn) (Nam Uy đảo), toạ độ 8°38′30″B 111°55′55″Đ. Sơ lược đảo có tên gọi chính thức là Trường Sa nhưng nhiều nguồn tin tức và người tại đây thường dùng biệt danh Trường Sa Lớn. Trường Sa là đảo san hô đứng thứ tư về diện tích trong quần đảo (0,15 km2) và là trung tâm của thị trấn Trường Sa. Đảo có nguồn nước lợ, có đường băng, cảng cá, trạm khí tượng, lớp học, trạm xá, nằm cách đảo Ba Bình 6,2 hải lý về phía đông. Đất đai khá màu mỡ nhờ một lớp mùn phân chim nên đảo có nhiều cây xanh.
10 - Đá Cô Lin (Quỷ Hám tiêu), toạ độ 9°46′13″B 114°15′25″Đ. Sơ lược đảo rạn san hô nằm cách đảo Sinh Tồn 9 hải lý, cách Song Tử Đông 1,5 hải lý, phía tây nam và cách đá Gạc Ma 1,9 hải lý về phía tây bắc. Đá Cô Lin chìm ngập dưới nước khi thuỷ triều lên. Đảo có một ngọn đèn biển quan trọng Đây là một trong ba địa điểm diễn ra trận Hải chiến Trường Sa vào tháng 3 năm 1988.
11 - Đảo Song Tử Tây (Nam Tử đảo), toạ độ 11°25′46″B 114°19′54″Đ. Sơ lược đảo Song Tử Tây nằm cách Song Tử Đông 1,5 hải lý về phía tây nam và nhỏ hơn Song Tử Đông một chút. Trên đảo có nhiều cây cối xanh tươi. Đảo có một ngọn đèn biển quan trọng. Người dân tại đây thường dùng biệt danh Trường Sa Lớn, đảo san hô đứng thứ tư về diện tích trong quần đảo (0,15 km2) và là trung tâm của thị trấn Trường Sa. Đảo có nguồn nước lợ, có đường băng, cảng cá, trạm khí tượng, lớp học, trạm xá,...
12 - Đá Tiên Nữ (Vô Khiết tiêu), toạ độ 8°51′18″B 114°39′18″Đ. Sơ lược đảo là một rạn san hô vòng nằm ở cực đông của các thực thể thuộc Trường Sa đang do Việt Nam kiểm soát. Diện tích của đá khoảng 3,4 km2. chiều dài 17 hải lý và chiều rộng 3 hải lý. Phá nước dài khoảng 11 km và rộng khoảng 2 km.
13 - Đá/Bãi Thuyền Chài (Bách tiêu), toạ độ 8°10′B 113°18′Đ. Sơ lược đảo là một rạn san hô vòng lớn có chiều dài 17 hải lý và chiều rộng 3 hải lý. Phá nước dài khoảng 11 km và rộng khoảng 2 km. Cách đảo Trường Sa 20 hải lỳ về phía đông bắc. Tại đây có khu dịch vụ hậu cần nghề cá và tổ hợp nuôi trồng thuỷ sản thí điểm.
14 - Đá Tây (Tây tiêu), toạ độ 8°51′B 112°11′Đ. Sơ lược đảo là một rạn san hô vòng nằm cách đảo Trường Sa 20 hải lý về phía đông bắc. Tại đây có khu dịch vụ hậu cần nghề cá và tổ hợp nuôi trồng thuỷ sản thí điểm. Nơi đóng quân chính của hải quân Việt Nam có chiều dài 132 m và chiều rộng 72 m.
15 - Đảo Phan Vinh (Tất Sinh tiêu), toạ độ 8°58′6″B 113°41′54″Đ. Sơ lược đảo xét theo khái niệm rộng là một rạn san hô vòng (rạn san hô vòng). Nơi đóng quân chính của hải quân Việt Nam có chiều dài 132 m và chiều rộng 72 m, có diện tích 35 km2.
16 - Đá Núi Le (Nam Hoa tiêu), toạ độ 8°42′36″B 114°11′6″Đ. Sơ lược đảo rạn san hô vòng có diện tích 35 km2. Rạn san hô nằm cách đảo Sơn Ca khoảng 6 hải lỳ về phía đông đông bắc. 
17 - Đá Núi Thị (Bạc Lan tiêu), toạ độ 10°24′42″B 114°34′12″Đ. Sơ lược đảo rạn san hô nằm cách đảo Sơn Ca khoảng 6 hải lý về phía đông đông bắc, cách đảo Song Tử Tây 3,5 hải lý về phía tây nam. Diện tích của thực thể này là 1,72 km2.
18 - Đá Nam (Nại La tiêu), toạ độ 11°23′31″B 114°17′54″Đ. Sơ lược đảo rạn san hô nằm cách đảo Song Tử Tây 3,5 hải lý về phía tây nam. cách đảo Nam Yết 28 hải lý về phía tây tây nam.
19 - Đá Lớn (Đại Hiện tiêu), toạ độ 10°03′42″B 113°51′6″Đ. Sơ lược đảo một rạn san hô vòng nằm cách đảo Nam Yết 28 hải lý về phía tây tây nam. Cách đá Gạc Ma khoảng 5,5 hải lý về phía đông bắc. Đá này chìm ngập dưới nước khi thuỷ triều lên. Đây là một trong ba địa điểm diễn ra trận Hải chiến Trường Sa vào tháng 3 năm 1988.
20 - Đá Len Đao (Quỳnh tiêu), toạ độ 9°46′48″B 114°22′12″Đ. Sơ lược đảo rạn san hô nằm cách đá Gạc Ma khoảng 5,5 hải lý về phía đông bắc. Đá này chìm ngập dưới nước khi thuỷ triều lên. Đây là một trong ba địa điểm diễn ra trận Hải chiến Trường Sa vào tháng 3 năm 1988. Là một rạn san hô vòng có diện tích khoảng 9,9 km2 và nằm cách đảo Trường Sa 14 hải lý về phía tây. 
21 - Đá Lát (Nhật Tích tiêu), toạ độ 8°40′42″B 111°40′12″Đ. Sơ lược đảo là một rạn san hô vòng có diện tích khoảng 36,4 km2 và nằm cách đảo Trường Sa 14 hải lý về phía tây. Đá chìm ngập dưới nước khi thuỷ triều lên. Rạn san hô vòng nằm cách đá Châu Viên 10 hải lý về phía tây.
22 - Đá Đông, (Đông tiêu), toạ độ 8°49′42″B 112°35′48″Đ. Sơ lược đảo rạn san hô vòng có diện tích khoảng 36,4 km2 và nằm cách đá Châu Viên 10 hải lý về phía tây. Là một rạn san hô nằm cách đảo Sinh Tồn 9 hải lý về phía tây nam và cách đá Gạc Ma 1,9 hải lý về phía tây bắc. Đá Cô Lin chìm ngập dưới nước khi thuỷ triều lên. Đây là một trong ba địa điểm diễn ra trận Hải chiến Trường Sa vào tháng 3 năm 1988.
23 - Đảo Cảnh Hoành (Sin Cowe Đảo) Một trong các đảo Trường Sa, và các rạn san hô, nằm ​​ở vĩ độ 9 độ 52 phút kinh độ Đông 114 độ 19 phút bắc-tây, các rạn san IX trung tâm phía bắc của quần đảo Trường Sa. Đảo Nam Yết 17 hải lý. Có chín rạn trên mực nước biển, đảo lớn thứ bảy trong quần đảo Trường Sa. Ngư dân Việt Nam gọi là "Cảnh Hoành". Đảo rộng chỉ 37.700 mét vuông, 3,6 mét trên mực nước biển.
24 - Đảo Nam Tử (Southwest Cay). Nằm ở vĩ độ 11 độ 26 phút kinh độ Đông 114 độ 20 phút. 1,5 dặm biển. Đảo dài hình bầu dục. 3,9 mét trên mực nước biển. 600 mét về phía đông bắc đến Tây Nam, rộng hơn 270 mét. Diện tích khoảng 0,13 km vuông. Là hòn đảo lớn thứ sáu trong quần đảo Trường Sa. khi thủy triều thấp đảo trắng tuần san hô bao quanh cát. Đảo dừa nhiều, chim biển.
25 - Đôn Khiêm Sa Châu (Dun Qian dải cát). Xung quanh các rạn san hô bao quanh. Bãi cát khoảng 500 mét và chiều rộng 300 mét, diện tích khoảng 0,09 km vuông. 2,5-4,6 mét trên mực nước biển, có khoảng 1,3 km giữa đường kính của một rạn san hô tròn, đỉnh điểm khi ngập nước rạn san hô, và đảo Đôn Khiêm Sa Châu có độ sâu khoảng 10-18 mét đường thủy giữa bãi cát. Khoảng 500 mét và chiều rộng 300 mét, diện tích khoảng 0,07 km vuông. 2,5-4,6 mét trên mực nước biển. Có một độ sâu khoảng 10 đến 18 mét đường thủy giữa đảo.
26 - Đảo Nam Uy (Nam Đảo), vĩ độ 8 độ 38 phút 30 giây kinh độ Đông 111 độ 55 phút 55 giây. Nằm ở phía tây rặng dặm 18,5 biển phía tây nam, khoảng 12 hải lý về phía nam của bầy viện trợ Áo. Tây Bắc có Bãi biển khang thái.
27 - Đảo Bách Tiêu (Parker Reef) những rạn san hô ở quần đảo Trường Sa, rạn phẳng lớn nhất. Một số sách tiếng nước ngoài gọi là Barque Canada Reef. Tên Việt Nam Bái Thuyên rạn san hô một trong 29 hòn đảo của Việt Nam trong các đảo ở Biển Đông Bắc kết thúc 1,8 mét trên mặt nước, phía tây nam cao 4,6 mét khối đá lớn, được gọi là "trụ cột duy nhất. Vị trí Quần đảo Trường Sa, khí hậu nhiệt đới gió mùa biển, khu vực 66,4 km vuông, Vĩ độ 8 độ vĩ bắc phút 04-17, Kinh Biên độ 113 độ 15-23 phút, phía bắc vĩ độ 8 độ 04-17 phút, phút 15-23 kinh độ Đông 113 độ dao động.
28 - Đảo Tất Sanh Tiêu (Suốt đời rạn). Rạn suốt đời (Pearson Reef) nằm ở vĩ độ 8 độ 58 phút kinh độ Đông 113 độ 42 phút, bãi cát phía đông bắc, đảo san hô dài 9 km, 1,8 km rộng, độ dốc rạn nhỏ cạn hoàn chỉnh, phía đông bắc có một dải cát nhỏ, hai mét trên mực nước biển. Các rạn san hô với cát cấu trúc đá ngầm, không có thảm thực vật.
29 - Đảo Tây Tiêu (West Reef). Rạn Tây nằm ở vĩ độ 8 độ 52 phút kinh độ Đông 112 độ 14 phút. Rạn Tây là khoảng 9 km, rộng 2,4 km. Lối vào ở phía nam có đường sông sâu nước rộng có nơi nông cạn 11-15 mét, bãi cát trải dài từ đông bắc đến tây nam, dài 460 mét, rộng 24 mét, trên mực nước thủy triều của biển, mỗi khi có cơn bão lớn tràn ngập cát, vì vậy không có nước ngọt lưu trữ.
30 - Đảo Vô Lê Tiêu (Không có gì-san). Việt Nam gọi là đảo cổ tích hay đảo Đá Tiên Nữ, văn học phương Tây gọi là Tennent Reef hay Pigeon Reef. Rạn san hô khoảng 40 hải lý. Việt Nam hiện đang kiểm soát chủ quyền của mình. Nằm trên vĩ độ 8 độ 52 phút kinh độ Đông 114 độ 39 phút.
31 - Đảo Nhật Tích Tiêu (Nisseki rạn) Rạn nhật thạch ở vĩ độ 8 độ 39-40 phút, phút 39-42 kinh độ Đông 111 độ dao động. Tọa lạc tại đảo Tây Nam 12 hải lý. Tiếp xúc lúc thủy triều xuống thấp, nó là một đảo san hô. Nhưng có diện tích 5600 m; 1800 m rộng về phía bắc-nam; đầm phá đáy cát trung ương. Reef cửa phía nam, tấn tàu 20 có thể truy cập vào các đầm phá.
32 - Đại Hiện Tiêu (Đại rạn), Đảo lớn 13 km, có diện tích 24,8 km vuông, trong đó rạn san hô khu vực bằng phẳng 20,7 km vuông không có cửa đá ngầm. Việt Nam gọi là đảo Lớn.
33 - Đảo Đông Tiêu (East Reef) đảo san hô, Diện tích rạn san hô 41,6 km vuông, vĩ độ Bắc, 112 độ 36 phút kinh độ Đông, Sâu Lagoon 7,5-15 m, Khu vực đầm phá 16,5 km vuông, khu vực bằng phẳng, Đó 25,1 km vuông, Nằm tại 8 độ 49 phút vĩ độ bắc. Đảo lớn đến 13 km, rộng bốn cây số có diện tích 24,8 km vuông, trong đó rạn san hô khu vực bằng phẳng 20,7 km vuông, độ sâu nước cạn 7,5 m ở giữa. Chủ quyền của Việt Nam không thể chối cãi.
34 - Đảo Lục Môn Tiêu (Nanhua rạn san hô). Đảo rạn san hô phẳng 13 km, rộng bốn cây số, thuộc quần đảo Trường Sa, một trong những đảo lớn nhất dải san hô, độ sâu nước cạn 7,5 m ở giữa. Cuối phía tây nam của đảo san hô, có thể tiếp nhập những chiếc thuyền đánh cá 50 tấn. Địa thế rất quan trọng. Diện tích rạn san hô 41,6 km vuông, Vĩ độ 8 độ 49 phút vĩ độ Bắc, 112 độ 36 phút kinh độ Đông, Sâu Lagoon 7,5-15 m, Khu vực đầm phá 16,5 km vuông, khu vực bằng phẳng Đó 25,1 km vuông, Nằm tại 8 độ 49 phút vĩ độ bắc.
35 - Đảo Nam Hoa Tiêu (Màu xanh rạn tàu) nằm ở vĩ độ 8 độ 45 phút kinh độ Đông 114 độ 13 phút, sáu cửa rạn san hô khoảng sáu dặm biển phía đông nam. Là một rạn san hô đảo bằng phẳng tiếp xúc lúc thủy triều thấp, giữa các đầm phá, độ sâu nước đầm phá của khoảng 9 mét, với rải rác đá ẩn dưới hồ, rạn Nam Hoa Tiêu từ bắc xuống nam khoảng 10 km, với tổng diện tích 34 km vuông, trong đó diện tích căn bản 22,3 đá ngầm, khu vực giữa 11,7 km vuông đầm phá. Trong cửa rạn đông nam, chiều rộng 370 m, độ sâu khoảng 9 mét, tiếp nhập tàu 20 tấn. 
36 - Đảo Bạc Lan Tiêu (Nhuộm Bãi cát xanh lá cây), vĩ độ 10 độ 25 phút kinh độ Đông 114 độ 35 phút 123- bãi cát nằm phía Đông Bắc, khoảng 5,4 hải lý tại 121. Rạn san hô gần như hình bầu dục có hình dạng, khoảng 1,8 km và chiều rộng 1,3 km. Thủy triều cao ngập nước, triều thấp tiếp xúc.
37 - Đảo Nhiễm Thanh sa châu (Nairobi rạn), Bãi cát lá cây xanh (Ranqing Shazhou) nằm trong quần đảo Trường Sa bãi cát nhỏ diện tích 0,12 km vuông. Bãi cát màu xanh lá cây nhuộm ở vĩ độ 9 độ 54 phút, kinh độ 114 độ 34 phút. Tây Bắc - Đông Nam mở rộng, khoảng 160 mét, rộng 60 mét, được bao quanh bởi một 5-10 mét, từ những bãi biển cát trắng, với tổng diện tích khoảng 0.012 km vuông.
38 - Đảo Nại La Tiêu (Lá chắn bầy). Bãi cát màu xanh lá cây nhuộm ở vĩ độ 9 độ 54 phút, kinh độ 114 độ 34 phút. Tây Bắc - Đông Nam mở rộng, khoảng 160 mét, rộng 60 mét, được bao quanh bởi một 5-10 mét, từ những bãi biển cát trắng, với tổng diện tích khoảng 0.012 km vuông. Bãi cát ngầm xanh nhuộm Đông xanh nhuộm rạn phía đông, phía bắc chủ quyền rạn, rạn san hô dài và rạn phúc, tây Hughes Reef và Simon rạn phía nam của rạn tôm hùm và rạn san phẳng Thượng viện. Đen tip rạn phía Nam tiếp xúc. Khoảng 600 mét về phía đông-đông nam và 700 mét về phía đông nam 6-7 mét chiều sâu mỗi cát đen, màu sắc thay đổi biển, có thể xác định.
39 - Đảo Kim Thuẫn Ám Sa (Collins Reef). Lá chắn bầy (Jindun Ansha), quần đảo Trường Sa là một trong nhiều quần đảo, nằm ​​ở vĩ độ 7 độ 32 phút kinh độ Đông 111 độ 32 phút. Bãi biển ở cuối phía nam của Nan Wei nuôi bầy, độ sâu 10,9 m. 1935 công bố tên của bầy Golden Shield. Một số sách tiếng nước ngoài gọi là Kingston Shoal, năm 1998 là chiếm đóng bất hợp pháp của Việt Nam, bầy của vùng biển nhiệt đới và cận nhiệt đới, từ bề mặt của các nước thành một mảnh của rạn san hô hình thành bởi một hòn đảo gần.
40 - Đảo Quỷ Hảm Tiêu (Joan rạn san hô), quần đảo Trường Sa trong các rạn IX trong một rạn san hô. kinh độ 9 độ 45 phút vĩ độ Bắc, 114 độ 15 phút kinh độ Đông. Rạn IX nằm ở cuối phía tây nam. Đông Nam và Red Reef ngoài bởi chỉ có 1,7 hải lý. Đó là hình vuông, chiều dài Bắc-Nam khoảng 1,8 km. Nước đá ngầm nhiều rạn san hô, bãi cát ngầm, sóng vỗ, lăng xăng, ngư dân Việt Nam công bố đảo Quỷ Hảm Tiêu. Một số sách tiếng nước ngoài có tên Collins Reef. 40 - Đảo Quỳnh Tiêu (Bãi biển Guangya) Đảo ở phía bắc vĩ độ 9 độ 46 phút kinh độ Đông 114 độ 22 phút. IX rạn san hô khoảng 1,6 hải lý về phía tây nam.
41 - Đảo Nghiễm Nhã Than (Hưng thịnh rạn), nằm ở vĩ độ 08 độ 08 phút kinh độ Đông 110 độ 27 phút, bãi biển phía tây bắc, là một đảo san hô hình bầu dục.
42 - Đảo Bồng Bột Bảo Tiêu (Man On Bãi biển), gò rạn san hô ở 58 độ vĩ bắc và 3 phút 00 giây kinh độ Đông 112 độ 17 phút 00 giây, bởi các rạn san hô và đá ngầm chia ra làm hai phần.
43 - Đảo Vạn An Than (Lee Jun bãi biển), quần đảo Trường Sa nằm ​​ở kinh độ 109 ° 36'- 109 ° 57' vĩ độ bắc 7 ° 28'-7 ° 33' độ, là lãnh thổ cố hữu của Việt Nam. Bờ biển thiên nhiên trong thềm lục địa và cơ sở pháp lý của đảo Biển Đông và trên các rạn san hô được xây dựng ba ngôi nhà cao và ngọn hải đăng, xây dựng một nền tảng sản xuất, đồn trú của khoảng 30 người.
44 - Đảo Tây Vệ Than (David West Beach) nằm ở vĩ độ 07 độ 55 phút, kinh độ 109 độ 58 phút, phía tây nam, dài 30 km từ bắc tới nam, đông tây rộng 17 km, với trung bình độ sâu 56-93 mét, phía tây bắc cạnh của các nông nhất là 18,3 m lần tây nông sâu của 21,9-23,8 mét, ở phần cuối của san hô dưới đáy.
45 - Đảo Lý Chuẩn Than (Dân Chun Bãi biển), tại vĩ độ 7 độ 46 phút -50 phút kinh độ Đông 110 độ 26 phút -31 phút. Quần đảo Trường Sa ở phía tây, cách 12 hải lý đảo Quang Á. 9,6 km dài Bắc-Nam, chiều rộng từ đông sang tây 3,7 km, ở độ sâu 18-37 mét. Nước biển trong suốt đáy biển.
46 - Đảo Nhân Tuấn Than (Ao Nang bầy), tại 7 độ vĩ bắc và 58 độ 02 phút 8 được giao điểm, trong phạm vi của kinh độ 110 độ 35-38 phút. Quần đảo Trường Sa ở phía Tây, Tây Bắc bãi biển khoảng 3,5 dặm. Khoảng 9 km về phía nam, chiều rộng từ đông sang tây là 6,5 km. Bãi biển san hô có thể nhìn thấy phía dưới, ở phía đông 5,5 m và 9 m điểm rạn san hô sâu.
47 - Đảo Ao Nang bầy, ở vĩ độ 7 độ 42 phút, kinh độ 111 độ 45 phút. 255 bãi biển phía đông, độ sâu khoảng tám mét. 
Nhà giàn ký hiệu DK16 tại thềm lục địa phía Nam của Việt Nam. Nguồn: tài liệu Huỳnh Tâm.
Chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Trường Sa
Cụm Song Tử: Đảo Song Tử Tây, nằm ở vĩ độ 11°25’54’’N và kinh độ 114°19’48’’E, cách đảo Song Tử Đông (do Philippin đang chiếm giữ) 1,5 hải lý. Về phía Nam cách 2,5 hải lý có đảo Đá Nam. Đảo Song Tử Tây có hình bầu dục diện tích khoảng 0,13km2, lòng đảo trũng xung quanh cao so với mực nước biển từ 4-6m.
Đá Nam Đặc điểm: nằm theo trục đông bắc-tây nam với chiều dài khoảng 2,3 km và chiều rộng khoảng 1,5 km. Có nhiều hòn đá nhô lên khỏi mặt biển khi thủy triều thấp
Quần đảo Trường Sa, Trung Cộng xâm chiếm 7 đảo chiến lược quan trọng có khả năng thông tính miền Nam Việt Nam. Nguồn: tài liệu Huỳnh Tâm.
Trung cộng xâm chiếm quần đảo Trường Sa của Việt Nam, hiện nay kiểm soát tổng cộng 7 rạn san hô. 
1 - Cụm Trường Sa: Đá Châu Viên Tọa độ:8°45'00"N114°11'0" E/8,75°N 114,183333°E/8,75; 114,183333. Quần đảo Trường Sa thuộc Việt Nam. Tỉnh: Khánh Hòa. Toạ độ 8°54′B 112°52′Đ. Đảo rạn san hô vòng đa phần chìm ngập dưới nước, nằm về phía đông của đá Đông. 
2 - Đá Chữ Thập (永暑礁), toạ độ 9°35′B 112°54′Đ. Đảo rạn san hô lớn nằm tách biệt khỏi các thực thể khác. Tổng diện tích hơn 110 km2. Đây là trung tâm đồn trú của Trung Quốc tại Trường Sa. Cụm này gồm hai rạn san hô là đá Ga Ven và đá Lạc, lần lượt nằm cách đảo Nam Yết 8,5 và 7 hải lý về phía tây.
3 - Cụm Nam Yết: Đá Ga Ven (南薰礁), toạ độ 10°12′B 114°13′Đ. Cụm đảo gồm hai rạn san hô là đá Ga Ven và đá Lạc, lần lượt nằm cách đảo Nam Yết 8,5 và 7 hải lý về phía tây. Là một rạn san hô nằm ở đầu mút tây nam của cụm Sinh Tồn và là một trong ba địa điểm diễn ra trận Hải chiến Trường Sa vào tháng 3 năm 1988.
4 - Cụm Sinh Tồn: Đá Gạc Ma (赤瓜礁), toạ độ 9°42′B 114°17′Đ. Đảo rạn san hô nằm ở phía tây bắc của đảo Sinh Tồn Đông. Chỉ nổi lên khỏi mặt nước khi thuỷ triều xuống. Rạn san hô vòng đa phần chìm dưới nước, nằm cách đảo Vĩnh Viễn 51 hải lý về phía nam. Nằm ở đầu mút tây nam của cụm Sinh Tồn và là một trong ba địa điểm diễn ra trận Hải chiến Trường Sa vào tháng 3 năm 1988. 
Gần đây, hình ảnh vệ tinh mới nhất được phổ biến cho thấy trong tháng hai năm 2015 đã có những xây dựng mở rộng các đảo và đá ngầm ở Biển Đông, bao gồm rạn san hô Vĩnh Thử Tiều (Yongshu Reef), Chử Bích Tiều (Subi Reef Mischief Reef), Mỹ Tể Tiều (Red Reef), Xích Qua Tiều (Hughes Reef), Đông Môn Tiều (Ga Ven), rạn san hô Nam Huân Tiều (Huayang), rạn Hoa Dương Tiều (Anderson) An Đạt Tiều. 
5 - Đá Tư Nghĩa (东门礁), toạ độ 9°56′B 114°31′Đ. Đảo rạn san hô nằm ở phía tây tây bắc của đảo Sinh Tồn Đông. Chỉ nổi lên khỏi mặt nước khi thuỷ triều xuống. Là một rạn san hô vòng nằm cách đảo Thị Tứ 26 km về phía tây nam. Trung Quốc có dự định xây dựng một đường băng tại đây.
6 - Cụm Bình Nguyên: Đá Vành Khăn (美济礁), toạ độ 9°55′B 115°32′Đ. Đảo rạn san hô vòng đa phần chìm dưới nước, nằm cách đảo Vĩnh Viễn 51 hải lí về phía nam. Đây là nơi từng diễn ra nhiều tranh chấp căng thẳng giữa Philippines và Trung Quốc trong thập niên 1990. Nằm ở tọa độ 09,55 độ bắc/115,32 độ đông, là một bãi chìm có vài mỏm đá nhô trên mặt nước khi thủy triều xuống. Có một cái đầm. Vào tháng 2 năm 1995, Trung quốc đã từng xây dựng hệ thống trú phòng (a complex) bằng gỗ trên những cột trụ, bắt đầu chính thức việc chiếm đóng đảo này. Năm 1999, Philippines phản đối việc xây dựng ấy và cho rằng đó là một đồn quân sự, đe dọa an ninh và quốc phòng của Philippines, vì nó chỉ cách Palawan 130 dặm (209 cây số). Trung quốc khai rằng nó chỉ là một nơi trú ngụ cho ngư dân. Là một rạn san hô vòng đa phần chìm dưới nước, nằm cách đảo Vĩnh Viễn 51 hải lý về phía nam. 
7 - Cụm Thị Tứ: Đá Xu Bi (渚碧礁), toạ độ 10°56′B 114°05′Đ. Đảo rạn san hô vòng nằm cách đảo Thị Tứ 26 km về phía tây nam. Trung Quốc có dự định xây dựng một đường băng tại đây. Là một rạn san hô vòng nằm cách đảo Thị Tứ 26 km về phía tây nam. Trung Quốc có dự định xây dựng một đường băng tại đây.
Trung Cộng đã có hành vi xâm chiếm 7 đảo trên, tại quần đảo Trường Sa Biển Đông của Việt Nam.
Nhà nước CSVN trong suốt nhiều năm qua đã chủ mưu đồng lõa bán biển Đông cho Trung Cộng. Do đó nhân dân Việt Nam phải có những hành động cụ thể đối phó, bảo vệ không thể để mất chủ quyền của ông cha. Toàn nhân dân hãy đứng lên tạo ra dư luận quốc tế, nếu ngồi chờ đừng nói ngày mai hy vọng!
05.07.2015