Lời mở đầu
Bài này viết để kỷ niệm ngày 30-04-1975, mở đầu cho một thời kỳ ô nhục nhất trong lịch sử cận đại VN.
Trước hết mời các bạn độc giả vào Google tra cứu để biết truyện cổ tích Trọng Thủy-Mỵ Châu ra sao trước khi đi sâu vào bài viết. Câu chuyện cổ tích huyền thoại này được nhắc lại vì ý nghĩa thâm sâu của nó liên quan đến hiện tình đất nước VN chúng ta hiện nay. Đối với những người sinh trưởng từ miền Nam trước 1975, họ thuộc lòng câu chuyện này vì chính thể VNCH đã xây dựng được một nền giáo dục cao thượng nhân bản luôn luôn nhắc nhở lòng yêu nước thương nòi cho thế hệ trẻ. Còn đối với những người đến từ miền Bắc, trên vỹ tuyến 17, họ khó có thể học được những trang sử oai hùng của dân tộc Lạc Hồng dưới chế độ CS hà khắc. Tôi còn nghe nói hiện nay, ở huyện Đông Anh vùng phụ cận Hà Nội, còn giữ lại vết tích đền thờ Trọng Thủy-Mỵ Châu bên cạnh giếng Cổ Loa, nơi mà cặp vợ chồng này gieo mình tự tử (?).
Vài hàng tổng quát về đất nước Việt Nam
Trước khi đi sâu vào vấn đề thiết nghĩ nên tự đặt câu hỏi: “Tại sao dân tộc VN phải liên tục chịu nhiều thảm cảnh đắng cay? Tại sao người dân vẫn muốn tiếp tục bỏ nước ra đi?… Phải chăng đất nước VN khô cằn, nghèo quá, thiên tai kéo dài, khí hậu khắc nghiệt làm cho cuộc sống khó khăn, kinh tế không phát triển được?”
Để trả lời, thiết tưởng cũng nên thử liệt kê vài điểm thuận lợi do thiên nhiên đem lại và do tiền nhân hy sinh xương máu để kiến tạo nên mảnh đất hình chữ S thân thương. Xin phép kể sơ lược vài điểm chính yếu, xem như là sự thật lịch sử:
1)- Trên bản đồ địa lý, đất nước VN nằm ở phía Nam, sát cạnh nước Trung Hoa to lớn đông dân từ khi mở nước, dựng nước, dân tộc VN đã từng chịu đựng cả ngàn năm chinh chiến chống xâm lược từ phương Bắc. Thế nhưng tổ tiên giòng giống Lạc Hồng chưa bao giờ chịu khuất phục, vẫn kiên trì chống trả từ đời này qua đời khác, cho đến ngày hôm nay chúng ta còn giữ được tiếng nói ngôn ngữ Việt, phong tục tập quán Việt, để không bao giờ bị ngoại bang đồng hóa. Khi chúng ta nói chuyện hàng ngày với nhau bằng tiếng Việt, không một người ngoại quốc nào hiểu được, ngay cả người Tàu, Miên hay Ấn Độ. Có phải đó là niềm hãnh diện xứng đáng, nhờ công lao tiền nhân?
2)- Chẳng những kiên trì kháng chiến chống ngoại xâm, tổ tiên chúng ta còn có công lao mở mang bờ cõi, phát triển về phương Nam để ngày hôm nay chúng ta có được một dải đất khá rộng (332,698 km2, đứng hàng thứ 65 trên thế giới, theo Google).
3)- Điều đặc biệt là tiếng Việt chúng ta nói với nhau hàng ngày phổ thông chiếm tỷ lệ 86% (thuộc diện người Kinh, đa số, theo Google), trải đều khắp ba miền Nam Trung Bắc, gần như đồng nhất, chỉ khác biệt vì thổ âm (giọng nói, theo miền) không quan trọng. Chi tiết này quan trọng vì nó tạo cơ sở cho vấn đề truyền bá văn hóa, thông tin, liên lạc, giao tế, giao dịch thương mại, kinh tế chính trị, tránh nhiều được nhiều va chạm nguy hiểm. Thử nhìn qua đất nước TQ to lớn, đông dân, họ khó đồng nhất ý kiến vì vấn đề ngôn ngữ văn hóa phức tạp vô cùng;
4)- Chữ Quốc Ngữ do công lao của nhiều nhà truyền bá Ky Tô Giáo thế kỷ 17, nhất là linh mục Bá Đa Lộc (Alexandre de Rhode) đã giúp toàn dân VN có phương tiện chuyển tải tư tưởng, vay mượn từ chữ La-Tinh (a b c …), khiến cho VN ngày nay đi vào thế giới KHKT Âu Mỹ rất dễ dàng, nhanh chóng. Từ hình học, đại số, số học, thế hệ trẻ học rất nhanh, đi đến sử dụng dàn máy computer, gõ chữ đơn giản trên keyboard, không phức tạp nhiêu khê như người TQ, Nhật hay Đại Hàn, Ả Rập vv…
5)- Đất nước VN may mắn nằm sát cạnh bờ biển Thái Bình Dương, ít chịu thiên tai bão tố, động đất kinh hoàng như nhiều nước khác, khí hậu ôn hòa, mưa thuận gió hòa. Tuy có lũ lụt mỗi năm nhưng có tính cách ưu đãi, mang lại phù sa màu mỡ cho đồng lúa và giúp tẩy rửa chất phèn chua có hại cho đồng ruộng, hoa màu;
6)- Nhờ nằm ở vị trí hạ lưu nên mỗi năm đón nhận biết bao nhiêu phù sa tăng màu mỡ cho nông nghiệp, tôm cá, thủy sản đầy sông, nông nghiệp phát triển tối ưu nhờ hai đồng bằng phì nhiêu rộng lớn (đb sông Hồng và đb sông Cửu Long), coi như là hai vựa lúa chính yếu ở hai đầu đất nước, khối lượng phù sa màu mỡ này vun đắp cho bờ biển phía Nam (Cà Mau) mở rộng thêm, lấn biển, làm tăng diện tích đất đai một cách tự nhiên;
7)- Đất nước VN ta có đến gần 2200km bờ biển sát cạnh Thái Bình Dương, thuận tiện vô cùng cho con đường hàng hải quốc tế giao thông giữa Âu Mỹ và Á Châu cộng nhiều bến cảng như SaiGon, Đà Nẵng, Hải Phòng, Nha Trang. Hơn nữa lại có thêm bến cảng Cam Ranh rộng lớc, nước sâu, bao bọc bởi nhiều hòn đảo núi non chắn bão, nổi tiếng là quân cảng ưu hạng mà nhiều quốc gia khác rất muốn khai thác (TQ, Nhật, Nga, Mỹ);
8)- Người dân miền Nam (VNCH) trước 1975 bản chất hiền hòa, cần cù, chất phát, họ sẵn lòng chia cơm sẻ áo giúp đỡ đùm bọc gần 1 triệu người di cư từ miền Bắc lánh nạn CS vào Nam (1954). Suốt 10 năm định cư (thời tt NĐ Diệm) không hề xảy ra nạn kỳ thị Nam Bắc, không những thế họ tạo cơ hội cho nhiều văn nghệ sĩ, nhạc sĩ, thi sĩ, thương gia đi từ miền Bắc có phương tiện phát triển tài năng, giúp phần nâng cao văn hóa nghệ thuật miền Nam;
10)- Người dân miền Nam VN (VNCH) có tinh thần học hỏi, trung thực, ngay thảng, biết tiếp nhận kiến thức KHKT văn minh nhân loại để mở mang kinh tế, xuát hiện nhiều nhân tài lỗi lạc tầm vóc quốc tế;
11)- Chỉ vì hiền hòa chất phát, ngay thẳng, thiếu kinh nghiệm đấu tranh chính trị, nên người dân miền Nam (VNCH) không đủ kiến thức thâm sâu để nhận thức được “mối đe dọa của CS miền Bắc nhằm thôn tính miền Nam trù phú”. Chính sách giáo dục miền Nam trong 20 năm hiện hữu đã không bao giờ cho phép học sinh, sinh viên hiểu rõ chủ nghĩa CS là gì,
12)- VN sở hữu một kho tàng tài nguyên, từ mỏ Bauxite, mỏ than, mỏ đồng, vàng, sắt thép, cho đến dầu hỏa ngoài Biển Đông, tuy không to lớn như các nước khác, nhưng cũng đủ để trao đổi để tìm ngoại tệ nếu biết khai thác hữu hiệu cho toàn dân hưởng;
Từ những ưu đãi thiên nhiên kể trên, đáng lẽ VN đã biết khai thác tối đa để làm cho “dân giàu, nước mạnh” tiến lên ngang hàng với nhiều quốc gia trong vùng Thái Bình Dương (Nhật, Đại Hàn, Đài Loan, Singapore, vv…) sau 40 năm hòa bình thống nhất đất nước, xã hội chính trị ổn định, tại sao đến giờ phút này vẫn còn lẹt đẹt xuống cấp, thua xa vài nước nhỏ hơn?
Quan sát khách quan cho thấy lý do đất nước VN tụt hậu, xã hội băng hoại, kinh tế sống bám, chính trị bất ổn, và giáo dục xuống cấp là do từ chế độ XHCN áp đặt lên đầu cổ toàn dân kể từ khi ông HCM mang chủ thuyết CS vào VN (1930) mưu đồ cấu kết với khối CS quốc tế. Chỉ cần theo dõi sát tình hình diễn biến của VN qua 41 năm thống nhất hòa bình dưới chế độ XHCN thì ai cũng thấy rõ, nhất là từ một năm qua (2015-2016), xin đưa ra vài luận cứ:
– Tập thể lãnh đạo ĐCS và Nhà Nước VN từ 60 năm qua đã âm thầm đóng vai trò nội gián phục vụ cho âm mưu xâm lược VN của lãnh đạo CS TQ, gọi đó là bè lũ con cháu Trọng Thủy-Mỵ Châu, nói thẳng là “tập đoàn Việt gian bán nước, hại dân”. Bằng khẩu hiêu hô hào nhân dân miền Bắc “Yêu nước là yêu XHCN”, ĐCS đã tiêm vào đầu óc người dân những giáo điều CS mơ hồ, phản khoa học, vừa áp dụng chính sách lừa dân, mỵ dân và ngu dân qua những hình ảnh hy sinh vì lòng yêu nước giả tạo.
Chỉ cần tự đặt một câu hỏi đơn giản: “VN nằm sát cạnh một ông hàng xóm to đầu hung hăng là chuyện không tránh khỏi từ ngàn năm. Chỉ cần xây dựng hàng rào kiên cố dọc biên giới phía Bắc, canh gác biên thùy ngày đêm và trên dưới đồng một lòng đoàn kết chống ngoại xâm thì quân thù làm sao đụng vào bờ cõi chúng ta ? Nếu không có kẻ cung kính lạy lục mời bọn chúng vào để 70 năm qua chúng leo lên bàn thờ tổ tiên quậy phá thì tội lỗi tày đình này do ai gây ra, nếu không phải là tập đoàn lãnh đạo CS miền Bắc”.
ĐCS VN đã sử dụng chủ nghĩa CS để xâm thực, bào mòn dần truyền thống yêu nước chống ngoại xâm của dân tộc VN để đến lúc nào đó họ đành cúi đầu ngoan ngoãn chấp nhận thân phận nô lệ mặc tình để ngoại bang phương Bắc chi phối và sai khiến. Phá tan chướng ngại vật chính yếu này thì năng lực phát triển, tài năng trí tuệ của toàn dân mới có cơ hội vùng lên. Đây là chuyện nội bộ của người dân trong nước, hãy để cho mọi phong trào đấu tranh dân chủ, tự do, nhân quyền trong nước phát triển và lan tỏa khắp mọi tầng lớp xã hội qua hình thức bất bạo động để xử lý với nhà cầm quyền CS;
– Hãy thử quan sát nội tình nước Do Thái, lãnh thổ nhỏ hẹp, đất đai khô cằn, không hội đủ mọi yếu tố thiên nhiên ưu đãi như VN, lại luôn luôn bị các nước Ả Rập xung quanh vây hãm, đe dọa hàng ngày. Thế nhưng tại sao họ vẫn ngang nhiên phát triển nông nghiệp tột bực, đoàn kết một lòng để chung sức chống mọi thế lực thù địch xung quanh? Quốc Hội Do Thái có đến 17 đảng phái hoạt động công khai dưới một chính thể biết tôn trọng tự do, dân chủ, kỷ luật sắt thép. Một điều chắc chắn là họ không bị chủ nghĩa CS tẩy não, họ không chấp nhận đi vào quỹ đạo sai khiến của khối CS quốc tế. Họ đã phát huy tinh thần yêu nước cực độ, nội bộ họ không hề có bóng dáng một tên nội gián làm tay sai cho ngoại bang. Đó là một bài học gương mẫu về “lòng yêu nước chân chính” của một dân tộc suýt bị tiêu diệt ở thế chiến II;
– Hãy nhìn thử vài quốc gia nhỏ bé ở Bắc Âu (Thụy Điển, Phần Lan, Na Uy, Đan Mạch) tiếp cận biên giới với ông CS to đầu Nga Sô. Họ cũng từng gánh chịu biết bao nhiêu áp lực quân sự từ ông láng giềng hung hăng, nhất là hải phận luôn luôn có vần đề xâm phạm . Thế nhưng tại sao họ không tỏ ra yếu đuối quỵ lụy như VN? Tại sao nước Phi Luật Tân nhỏ bé còn dám đưa đơn kiện TQ ra tòa án quốc tế về v/đ Biển Đông mà VN thì đành ngậm miệng nhục nhã?
– Rút tỉa từ kinh nghiệm quý báu của người dân Do Thái, bài viết này nhấn mạnh vai trò mập mờ của một nhóm người hiện diện trong cộng đồng Người Việt ở Canada từ cuối thập niên 60, đó là Hội Việt Kiều Yêu Nước Tại Canada (HVKYNTC), đã đến lúc cần phải vạch mặt chỉ tên trước cộng đồng để tránh ngộ nhận khi tình hình đất nước VN biến động trầm trọng, viễn ảnh chiến tranh không xa.
Chân tướng hội đoàn VKYNTC
Một năm trôi qua kể từ khi ba loạt bài “Lời sám hối muộn màng”, “Tâm sự với bạn bè”, “Yêu nước hay yêu tiền” do tác giả (Lê Quốc Trinh) viết và đăng rộng rãi trên nhiều Trang Mạng hải ngoại, sau đó đến ba loạt bài liên tục “VCLeaks 1, 2 và Kết” do tác giả Trần Giao Thủy viết và đăng trên DCVOnline .net (tháng 5-6, 2015), nhiều sự thật đã được phơi bày cặn kẽ, nhưng “lời kêu gọi hối cải không mang lại kết quả hữu hiệu”, hôm nay 30-04-2016, băt buộc phải đi vào hành động thực tiễn để chứng minh “Kẻ nào gieo Nhân trong quá khứ thì ngày nay phải có trách nhiệm hái Quả”, “Kẻ nào gieo gió thì phải gặt bão”. Tôi Lê Quốc Trinh, xin phép tố giác trước cộng đồng Người Việt tại hải ngoại những điều như sau:
– Rằng HVKYNTC thực chất là một hội đoàn chính trị đăng ký theo luật pháp Canada, do một số thành viên nòng cốt thành lập trong mục đích gieo rắc chủ nghĩa CS, lợi dụng chính thể tự do dân chủ của Canada để lừa gạt hội viên biến Hội thành một tổ chức kinh tài cho Nhà Nước CS VN;
– Rằng toàn thể lãnh đạo Hội, gọi là Ban Thường Vụ, toa rập với vài thành viên nòng cốt tự nguyện làm tay sai cho vài cán bộ cao cấp trong Nhà Nước CS VN (Ban Việt Kiều Trung Ương, Hà Nội) mưu đồ áp đặt sự kiểm soát của Nhà Nước VN lên đầu cổ Hội viên tại Canada;
– Rằng tập thể lãnh đạo HVKYNTC (Ban Thường Vụ) đã ngang nhiên lừa gạt Hội viên qua những hoạt động đi ngược lại tôn chỉ Nội Quy Hội (được thảo luận và thông qua trong nhiều Đại Hội và chính thức nộp cho chính phủ Canada như là văn bản chính thức hoạt động theo pháp luật Canada)
Bằng chứng 1: rõ ràng qua những tài liệu do ông Gilbert Gendront tác giả cuốn sách’ “The VietCong Front in Quebec”. Xem trích dẫn trong ba loạt bài “Lời sám hối muộn màng” và “Yêu nước hay yêu tiền” đăng trên Trang Mạng DCVOline .net (tháng 05-2015).
Bằng chứng 2: cuộn băng cassette TDK90 ghi âm toàn bộ buổi họp giữa vài lãnh đạo Hội (Ban Thường Vụ) và cán bộ cao cấp của Nhà Nước VN tại Hà Nội (tháng 10-1988) bàn vê những tranh cãi kinh doanh của Hội ở Canada. Xem trích dẫn trong ba loạt bài “VCLeaks 1, 2, Kết”.
Bằng chứng 3: văn bản Nội Quy Hội luôn luôn nhấn mạnh nguyên tắc tự nguyện tự giác của Hội viên và nhấn mạnh Hội là một tập thể hoạt động vô vị lợi (but sans lucratifs).
Mời các độc giả vào DCVOnline.net để truy tìm những bài viết và tài liệu trích dẫn. Đây không phải là những lời vu khống chụp mũ chống Cộng cực đoan, đây là một sự kiện nghiêm trọng ảnh hưởng đến sinh hoạt cộng đồng và luật pháp sở tại. Nếu Hội viên của HVKYNTC cảm thấy bị xúc phạm, họ có quyền đưa đơn kiện tác giả ra tòa án địa phương. Hy vọng đến lúc đó sẽ còn rất nhiều sự thật khác được phơi bày trước ánh sáng công lý, chẳng những cộng đồng Người Việt mà báo chí truyền thông Canada sẽ góp phần và …có lẽ đến phiên nhà cầm quyền Hà Nội cũng cần phải lên tiếng để giải thích vai trò của họ với HVKYNTC.
Kết luận:
Bài viết này xin phép đến đây tạm ngừng, vì quá dài, hẹn sẽ tiếp tục trình bày tiếp sau ngày 30-04-2016. Tình thế nghiêm trọng của đất nước và dân tộc VN vẫn luôn luôn là chủ đề chính yếu, ngày nào còn bóng dáng CS tại quê nhà, ngày đó người dân lao động VN còn cơ cực, làn sóng di tản bỏ nước ra đi còn tái diễn, nguy cơ mất nước gần kề, không cho phép bè lũ con cháu Trọng Thủy-Mỵ Châu tái diễn trò Việt gian bán nước nữa.
Lê Quốc Trinh, Canada
29-04-2016
Bài này viết để kỷ niệm ngày 30-04-1975, mở đầu cho một thời kỳ ô nhục nhất trong lịch sử cận đại VN.
Trước hết mời các bạn độc giả vào Google tra cứu để biết truyện cổ tích Trọng Thủy-Mỵ Châu ra sao trước khi đi sâu vào bài viết. Câu chuyện cổ tích huyền thoại này được nhắc lại vì ý nghĩa thâm sâu của nó liên quan đến hiện tình đất nước VN chúng ta hiện nay. Đối với những người sinh trưởng từ miền Nam trước 1975, họ thuộc lòng câu chuyện này vì chính thể VNCH đã xây dựng được một nền giáo dục cao thượng nhân bản luôn luôn nhắc nhở lòng yêu nước thương nòi cho thế hệ trẻ. Còn đối với những người đến từ miền Bắc, trên vỹ tuyến 17, họ khó có thể học được những trang sử oai hùng của dân tộc Lạc Hồng dưới chế độ CS hà khắc. Tôi còn nghe nói hiện nay, ở huyện Đông Anh vùng phụ cận Hà Nội, còn giữ lại vết tích đền thờ Trọng Thủy-Mỵ Châu bên cạnh giếng Cổ Loa, nơi mà cặp vợ chồng này gieo mình tự tử (?).
Vài hàng tổng quát về đất nước Việt Nam
Trước khi đi sâu vào vấn đề thiết nghĩ nên tự đặt câu hỏi: “Tại sao dân tộc VN phải liên tục chịu nhiều thảm cảnh đắng cay? Tại sao người dân vẫn muốn tiếp tục bỏ nước ra đi?… Phải chăng đất nước VN khô cằn, nghèo quá, thiên tai kéo dài, khí hậu khắc nghiệt làm cho cuộc sống khó khăn, kinh tế không phát triển được?”
Để trả lời, thiết tưởng cũng nên thử liệt kê vài điểm thuận lợi do thiên nhiên đem lại và do tiền nhân hy sinh xương máu để kiến tạo nên mảnh đất hình chữ S thân thương. Xin phép kể sơ lược vài điểm chính yếu, xem như là sự thật lịch sử:
1)- Trên bản đồ địa lý, đất nước VN nằm ở phía Nam, sát cạnh nước Trung Hoa to lớn đông dân từ khi mở nước, dựng nước, dân tộc VN đã từng chịu đựng cả ngàn năm chinh chiến chống xâm lược từ phương Bắc. Thế nhưng tổ tiên giòng giống Lạc Hồng chưa bao giờ chịu khuất phục, vẫn kiên trì chống trả từ đời này qua đời khác, cho đến ngày hôm nay chúng ta còn giữ được tiếng nói ngôn ngữ Việt, phong tục tập quán Việt, để không bao giờ bị ngoại bang đồng hóa. Khi chúng ta nói chuyện hàng ngày với nhau bằng tiếng Việt, không một người ngoại quốc nào hiểu được, ngay cả người Tàu, Miên hay Ấn Độ. Có phải đó là niềm hãnh diện xứng đáng, nhờ công lao tiền nhân?
2)- Chẳng những kiên trì kháng chiến chống ngoại xâm, tổ tiên chúng ta còn có công lao mở mang bờ cõi, phát triển về phương Nam để ngày hôm nay chúng ta có được một dải đất khá rộng (332,698 km2, đứng hàng thứ 65 trên thế giới, theo Google).
3)- Điều đặc biệt là tiếng Việt chúng ta nói với nhau hàng ngày phổ thông chiếm tỷ lệ 86% (thuộc diện người Kinh, đa số, theo Google), trải đều khắp ba miền Nam Trung Bắc, gần như đồng nhất, chỉ khác biệt vì thổ âm (giọng nói, theo miền) không quan trọng. Chi tiết này quan trọng vì nó tạo cơ sở cho vấn đề truyền bá văn hóa, thông tin, liên lạc, giao tế, giao dịch thương mại, kinh tế chính trị, tránh nhiều được nhiều va chạm nguy hiểm. Thử nhìn qua đất nước TQ to lớn, đông dân, họ khó đồng nhất ý kiến vì vấn đề ngôn ngữ văn hóa phức tạp vô cùng;
4)- Chữ Quốc Ngữ do công lao của nhiều nhà truyền bá Ky Tô Giáo thế kỷ 17, nhất là linh mục Bá Đa Lộc (Alexandre de Rhode) đã giúp toàn dân VN có phương tiện chuyển tải tư tưởng, vay mượn từ chữ La-Tinh (a b c …), khiến cho VN ngày nay đi vào thế giới KHKT Âu Mỹ rất dễ dàng, nhanh chóng. Từ hình học, đại số, số học, thế hệ trẻ học rất nhanh, đi đến sử dụng dàn máy computer, gõ chữ đơn giản trên keyboard, không phức tạp nhiêu khê như người TQ, Nhật hay Đại Hàn, Ả Rập vv…
5)- Đất nước VN may mắn nằm sát cạnh bờ biển Thái Bình Dương, ít chịu thiên tai bão tố, động đất kinh hoàng như nhiều nước khác, khí hậu ôn hòa, mưa thuận gió hòa. Tuy có lũ lụt mỗi năm nhưng có tính cách ưu đãi, mang lại phù sa màu mỡ cho đồng lúa và giúp tẩy rửa chất phèn chua có hại cho đồng ruộng, hoa màu;
6)- Nhờ nằm ở vị trí hạ lưu nên mỗi năm đón nhận biết bao nhiêu phù sa tăng màu mỡ cho nông nghiệp, tôm cá, thủy sản đầy sông, nông nghiệp phát triển tối ưu nhờ hai đồng bằng phì nhiêu rộng lớn (đb sông Hồng và đb sông Cửu Long), coi như là hai vựa lúa chính yếu ở hai đầu đất nước, khối lượng phù sa màu mỡ này vun đắp cho bờ biển phía Nam (Cà Mau) mở rộng thêm, lấn biển, làm tăng diện tích đất đai một cách tự nhiên;
7)- Đất nước VN ta có đến gần 2200km bờ biển sát cạnh Thái Bình Dương, thuận tiện vô cùng cho con đường hàng hải quốc tế giao thông giữa Âu Mỹ và Á Châu cộng nhiều bến cảng như SaiGon, Đà Nẵng, Hải Phòng, Nha Trang. Hơn nữa lại có thêm bến cảng Cam Ranh rộng lớc, nước sâu, bao bọc bởi nhiều hòn đảo núi non chắn bão, nổi tiếng là quân cảng ưu hạng mà nhiều quốc gia khác rất muốn khai thác (TQ, Nhật, Nga, Mỹ);
8)- Người dân miền Nam (VNCH) trước 1975 bản chất hiền hòa, cần cù, chất phát, họ sẵn lòng chia cơm sẻ áo giúp đỡ đùm bọc gần 1 triệu người di cư từ miền Bắc lánh nạn CS vào Nam (1954). Suốt 10 năm định cư (thời tt NĐ Diệm) không hề xảy ra nạn kỳ thị Nam Bắc, không những thế họ tạo cơ hội cho nhiều văn nghệ sĩ, nhạc sĩ, thi sĩ, thương gia đi từ miền Bắc có phương tiện phát triển tài năng, giúp phần nâng cao văn hóa nghệ thuật miền Nam;
10)- Người dân miền Nam VN (VNCH) có tinh thần học hỏi, trung thực, ngay thảng, biết tiếp nhận kiến thức KHKT văn minh nhân loại để mở mang kinh tế, xuát hiện nhiều nhân tài lỗi lạc tầm vóc quốc tế;
11)- Chỉ vì hiền hòa chất phát, ngay thẳng, thiếu kinh nghiệm đấu tranh chính trị, nên người dân miền Nam (VNCH) không đủ kiến thức thâm sâu để nhận thức được “mối đe dọa của CS miền Bắc nhằm thôn tính miền Nam trù phú”. Chính sách giáo dục miền Nam trong 20 năm hiện hữu đã không bao giờ cho phép học sinh, sinh viên hiểu rõ chủ nghĩa CS là gì,
12)- VN sở hữu một kho tàng tài nguyên, từ mỏ Bauxite, mỏ than, mỏ đồng, vàng, sắt thép, cho đến dầu hỏa ngoài Biển Đông, tuy không to lớn như các nước khác, nhưng cũng đủ để trao đổi để tìm ngoại tệ nếu biết khai thác hữu hiệu cho toàn dân hưởng;
Từ những ưu đãi thiên nhiên kể trên, đáng lẽ VN đã biết khai thác tối đa để làm cho “dân giàu, nước mạnh” tiến lên ngang hàng với nhiều quốc gia trong vùng Thái Bình Dương (Nhật, Đại Hàn, Đài Loan, Singapore, vv…) sau 40 năm hòa bình thống nhất đất nước, xã hội chính trị ổn định, tại sao đến giờ phút này vẫn còn lẹt đẹt xuống cấp, thua xa vài nước nhỏ hơn?
Quan sát khách quan cho thấy lý do đất nước VN tụt hậu, xã hội băng hoại, kinh tế sống bám, chính trị bất ổn, và giáo dục xuống cấp là do từ chế độ XHCN áp đặt lên đầu cổ toàn dân kể từ khi ông HCM mang chủ thuyết CS vào VN (1930) mưu đồ cấu kết với khối CS quốc tế. Chỉ cần theo dõi sát tình hình diễn biến của VN qua 41 năm thống nhất hòa bình dưới chế độ XHCN thì ai cũng thấy rõ, nhất là từ một năm qua (2015-2016), xin đưa ra vài luận cứ:
– Tập thể lãnh đạo ĐCS và Nhà Nước VN từ 60 năm qua đã âm thầm đóng vai trò nội gián phục vụ cho âm mưu xâm lược VN của lãnh đạo CS TQ, gọi đó là bè lũ con cháu Trọng Thủy-Mỵ Châu, nói thẳng là “tập đoàn Việt gian bán nước, hại dân”. Bằng khẩu hiêu hô hào nhân dân miền Bắc “Yêu nước là yêu XHCN”, ĐCS đã tiêm vào đầu óc người dân những giáo điều CS mơ hồ, phản khoa học, vừa áp dụng chính sách lừa dân, mỵ dân và ngu dân qua những hình ảnh hy sinh vì lòng yêu nước giả tạo.
Chỉ cần tự đặt một câu hỏi đơn giản: “VN nằm sát cạnh một ông hàng xóm to đầu hung hăng là chuyện không tránh khỏi từ ngàn năm. Chỉ cần xây dựng hàng rào kiên cố dọc biên giới phía Bắc, canh gác biên thùy ngày đêm và trên dưới đồng một lòng đoàn kết chống ngoại xâm thì quân thù làm sao đụng vào bờ cõi chúng ta ? Nếu không có kẻ cung kính lạy lục mời bọn chúng vào để 70 năm qua chúng leo lên bàn thờ tổ tiên quậy phá thì tội lỗi tày đình này do ai gây ra, nếu không phải là tập đoàn lãnh đạo CS miền Bắc”.
ĐCS VN đã sử dụng chủ nghĩa CS để xâm thực, bào mòn dần truyền thống yêu nước chống ngoại xâm của dân tộc VN để đến lúc nào đó họ đành cúi đầu ngoan ngoãn chấp nhận thân phận nô lệ mặc tình để ngoại bang phương Bắc chi phối và sai khiến. Phá tan chướng ngại vật chính yếu này thì năng lực phát triển, tài năng trí tuệ của toàn dân mới có cơ hội vùng lên. Đây là chuyện nội bộ của người dân trong nước, hãy để cho mọi phong trào đấu tranh dân chủ, tự do, nhân quyền trong nước phát triển và lan tỏa khắp mọi tầng lớp xã hội qua hình thức bất bạo động để xử lý với nhà cầm quyền CS;
– Hãy thử quan sát nội tình nước Do Thái, lãnh thổ nhỏ hẹp, đất đai khô cằn, không hội đủ mọi yếu tố thiên nhiên ưu đãi như VN, lại luôn luôn bị các nước Ả Rập xung quanh vây hãm, đe dọa hàng ngày. Thế nhưng tại sao họ vẫn ngang nhiên phát triển nông nghiệp tột bực, đoàn kết một lòng để chung sức chống mọi thế lực thù địch xung quanh? Quốc Hội Do Thái có đến 17 đảng phái hoạt động công khai dưới một chính thể biết tôn trọng tự do, dân chủ, kỷ luật sắt thép. Một điều chắc chắn là họ không bị chủ nghĩa CS tẩy não, họ không chấp nhận đi vào quỹ đạo sai khiến của khối CS quốc tế. Họ đã phát huy tinh thần yêu nước cực độ, nội bộ họ không hề có bóng dáng một tên nội gián làm tay sai cho ngoại bang. Đó là một bài học gương mẫu về “lòng yêu nước chân chính” của một dân tộc suýt bị tiêu diệt ở thế chiến II;
– Hãy nhìn thử vài quốc gia nhỏ bé ở Bắc Âu (Thụy Điển, Phần Lan, Na Uy, Đan Mạch) tiếp cận biên giới với ông CS to đầu Nga Sô. Họ cũng từng gánh chịu biết bao nhiêu áp lực quân sự từ ông láng giềng hung hăng, nhất là hải phận luôn luôn có vần đề xâm phạm . Thế nhưng tại sao họ không tỏ ra yếu đuối quỵ lụy như VN? Tại sao nước Phi Luật Tân nhỏ bé còn dám đưa đơn kiện TQ ra tòa án quốc tế về v/đ Biển Đông mà VN thì đành ngậm miệng nhục nhã?
– Rút tỉa từ kinh nghiệm quý báu của người dân Do Thái, bài viết này nhấn mạnh vai trò mập mờ của một nhóm người hiện diện trong cộng đồng Người Việt ở Canada từ cuối thập niên 60, đó là Hội Việt Kiều Yêu Nước Tại Canada (HVKYNTC), đã đến lúc cần phải vạch mặt chỉ tên trước cộng đồng để tránh ngộ nhận khi tình hình đất nước VN biến động trầm trọng, viễn ảnh chiến tranh không xa.
Chân tướng hội đoàn VKYNTC
Một năm trôi qua kể từ khi ba loạt bài “Lời sám hối muộn màng”, “Tâm sự với bạn bè”, “Yêu nước hay yêu tiền” do tác giả (Lê Quốc Trinh) viết và đăng rộng rãi trên nhiều Trang Mạng hải ngoại, sau đó đến ba loạt bài liên tục “VCLeaks 1, 2 và Kết” do tác giả Trần Giao Thủy viết và đăng trên DCVOnline .net (tháng 5-6, 2015), nhiều sự thật đã được phơi bày cặn kẽ, nhưng “lời kêu gọi hối cải không mang lại kết quả hữu hiệu”, hôm nay 30-04-2016, băt buộc phải đi vào hành động thực tiễn để chứng minh “Kẻ nào gieo Nhân trong quá khứ thì ngày nay phải có trách nhiệm hái Quả”, “Kẻ nào gieo gió thì phải gặt bão”. Tôi Lê Quốc Trinh, xin phép tố giác trước cộng đồng Người Việt tại hải ngoại những điều như sau:
– Rằng HVKYNTC thực chất là một hội đoàn chính trị đăng ký theo luật pháp Canada, do một số thành viên nòng cốt thành lập trong mục đích gieo rắc chủ nghĩa CS, lợi dụng chính thể tự do dân chủ của Canada để lừa gạt hội viên biến Hội thành một tổ chức kinh tài cho Nhà Nước CS VN;
– Rằng toàn thể lãnh đạo Hội, gọi là Ban Thường Vụ, toa rập với vài thành viên nòng cốt tự nguyện làm tay sai cho vài cán bộ cao cấp trong Nhà Nước CS VN (Ban Việt Kiều Trung Ương, Hà Nội) mưu đồ áp đặt sự kiểm soát của Nhà Nước VN lên đầu cổ Hội viên tại Canada;
– Rằng tập thể lãnh đạo HVKYNTC (Ban Thường Vụ) đã ngang nhiên lừa gạt Hội viên qua những hoạt động đi ngược lại tôn chỉ Nội Quy Hội (được thảo luận và thông qua trong nhiều Đại Hội và chính thức nộp cho chính phủ Canada như là văn bản chính thức hoạt động theo pháp luật Canada)
Bằng chứng 1: rõ ràng qua những tài liệu do ông Gilbert Gendront tác giả cuốn sách’ “The VietCong Front in Quebec”. Xem trích dẫn trong ba loạt bài “Lời sám hối muộn màng” và “Yêu nước hay yêu tiền” đăng trên Trang Mạng DCVOline .net (tháng 05-2015).
Bằng chứng 2: cuộn băng cassette TDK90 ghi âm toàn bộ buổi họp giữa vài lãnh đạo Hội (Ban Thường Vụ) và cán bộ cao cấp của Nhà Nước VN tại Hà Nội (tháng 10-1988) bàn vê những tranh cãi kinh doanh của Hội ở Canada. Xem trích dẫn trong ba loạt bài “VCLeaks 1, 2, Kết”.
Bằng chứng 3: văn bản Nội Quy Hội luôn luôn nhấn mạnh nguyên tắc tự nguyện tự giác của Hội viên và nhấn mạnh Hội là một tập thể hoạt động vô vị lợi (but sans lucratifs).
Mời các độc giả vào DCVOnline.net để truy tìm những bài viết và tài liệu trích dẫn. Đây không phải là những lời vu khống chụp mũ chống Cộng cực đoan, đây là một sự kiện nghiêm trọng ảnh hưởng đến sinh hoạt cộng đồng và luật pháp sở tại. Nếu Hội viên của HVKYNTC cảm thấy bị xúc phạm, họ có quyền đưa đơn kiện tác giả ra tòa án địa phương. Hy vọng đến lúc đó sẽ còn rất nhiều sự thật khác được phơi bày trước ánh sáng công lý, chẳng những cộng đồng Người Việt mà báo chí truyền thông Canada sẽ góp phần và …có lẽ đến phiên nhà cầm quyền Hà Nội cũng cần phải lên tiếng để giải thích vai trò của họ với HVKYNTC.
Kết luận:
Bài viết này xin phép đến đây tạm ngừng, vì quá dài, hẹn sẽ tiếp tục trình bày tiếp sau ngày 30-04-2016. Tình thế nghiêm trọng của đất nước và dân tộc VN vẫn luôn luôn là chủ đề chính yếu, ngày nào còn bóng dáng CS tại quê nhà, ngày đó người dân lao động VN còn cơ cực, làn sóng di tản bỏ nước ra đi còn tái diễn, nguy cơ mất nước gần kề, không cho phép bè lũ con cháu Trọng Thủy-Mỵ Châu tái diễn trò Việt gian bán nước nữa.
Lê Quốc Trinh, Canada
29-04-2016
Posted by adminbasam