16/4/16

Thư ngỏ gửi các bạn bè cũ trong Hội Việt Kiều Yêu Nước Tại Canada

Thân mến chào các anh chị,
Hy vọng rằng đây chưa phải là lời cảnh báo cuối cùng tôi gửi đến các anh chị em Yêu Nước tại Canada này. Sau loạt bài bắt đầu bằng “Lời sám hối muộn màng” tôi đăng trên DCVOnline.net năm ngoái (30-04-2015), tiếp theo nhiều loạt bài khác cũng trên cùng trang mạng đó và vài websites khác ở hải ngoại, tôi đã cố gắng giữ im lặng để chờ đợi phản ứng của các anh chị, ít nhất là bày tỏ thái độ “yêu nước” của mình trước tình thế nguy ngập của đất nước. Tôi hy vọng bằng bước chân tiên phong “sám hối tự nguyện” tôi sẽ tìm được nhiều tiếng nói đồng cảm, ít ra cũng dám thổ lộ rằng “chúng ta đã lầm khi bước theo con đường Bác đi”. Nhưng không ngờ, sau gần một năm, chỉ có vài người bạn âm thầm đến chia sẻ “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu” với tôi, so sánh với hàng chục người từng “vỗ ngực tự xưng yêu nước thời thập niên 70” nay vẫn còn ngậm miệng, thì tôi thất vọng vô cùng.
Lá thư này sẽ giải thích cặn kẽ những gì tôi tuyên bố chắc nịch trong bài “Lời sám hối muộn màng” chứng tỏ suy nghĩ tâm tư của tôi có cơ sở lý luận cá nhân độc lập, dựa trên thực tiễn, không hề theo đuôi ai hết. Hơn nữa, xuyên qua lá thư này tôi cũng xin lỗi nhiều bạn bè mới quen, họ mong chờ bài viết của tôi gần một năm nay để biết thêm những sự thật khác về cái gọi là Hội Việt Kiều Yêu Nước Tại Canada. Rồi các bạn đó sẽ thông cảm với tôi một khi hiểu rõ những khúc mắc tình cảm-lý trí dày vò tôi suốt một năm qua, khiến cho tôi phải đắn đo do dự trước khi cắn răng viết lên những giòng tâm sự này.
Bài viết này khá dài vì đề cập đến nhiều vấn đề liên quan đến thời cuộc, trình bày mối dây liên hệ mật thiết giữa nhà cầm quyền CS Hà Nội với một hội đoàn chính trị người Việt ở hải ngoại, mà tôi là một nhân chứng sống, một hội viên tích cực trong Hội từ 1973 đến 1990. Qua nhiều bằng chứng giấy trắng mực đen, nhiều tài liệu do anh tổng biên tập DCVOnline cung cấp đi kèm ba bài viết của tôi năm 2015, tôi mới rõ rằng mình chưa phải là nhân chứng duy nhất. Tôi không ngờ rằng bên ngoài, báo chí truyền thông Canada biết khá rõ thực trạng kinh tài của hội đoàn này kể từ khi lãnh đạo Hội dấn thân vào con đường “kinh doanh”. Do đó tôi không cảm thấy đơn độc trên con đường tìm hiểu và vạch trần sự thật.
Bài viết này xin đề cập đến những vấn đề sau:
1) Vài lời tự giới thiệu của tác giả, Lê Quốc Trinh
Để giải thích tại sao tôi đã hoạt động tích cực trong một hội đoàn thân Cộng, nhưng không hề bị tẩy não? Không chịu ảnh hưởng ngầm của Nhà Nước CS VN? Do đâu tôi nhìn thấy rõ bộ mặt thật của những “con người tự xưng yêu nước”? Và tại sao đến giờ phút này tôi mới lên tiếng trần tình? Tôi xin thưa:
- Tôi sinh trưởng ở miền Nam (Sài Gòn 1948) trong một gia đình gốc Bắc di cư 1945. Tôi mang ơn bà mẹ thân sinh tôi đã tảo tần nuôi con cái cho đến thành tài. Tôi cám ơn người cha thân sinh tôi, đã nghiêm khắc dạy dỗ con cái theo truyền thống giáo dục Việt nam. Làm công chức bình thường nhưng ông đã dám bỏ tiền mua nhiều bộ sách quý về cho con cái đọc, từ Cổ Học Tinh Hoa, Tự Lực Văn Đoàn, Liêu Trai Chí Dị, Văn Hóa Ngày Nay, cho đến bộ Tự Điển Bách Khoa (Encyclopedie) tiếng Pháp dày cộm, 6 quyển lớn đầy dẫy hình ảnh (từ năm 1960). Tôi cũng cám ơn Thư Viện Quốc Gia (Sài Gòn) đã gửi hàng trăm cuốn sách đến nhà tôi để nhờ đóng bìa da nạm chữ vàng. Nhờ thế mà tôi đã ngốn hết sạch những bộ tiểu thuyết dã sử Trung Hoa, từ Tam Quốc Chí, Tây Du Ký, Thủy Hử, Đông Châu Liệt Quốc, Hán Sở Tranh Hùng v.v... Chưa nói đến những truyện tiểu thuyết tuyên truyền tư tưởng CS của miền Bắc mà trong Nam vẫn cho đọc tự do, ví dụ Dế Mèn Phiêu Lưu Ký của Tô Hoài (sau này tôi mới phát giác là công cụ tuyên truyền chủ thuyết CS), chưa hết tôi lại còn được nghe những bản nhạc xuất xứ từ miền Bắc do ca sĩ trong Nam hát, điển hình là bài Nụ Cười Sơn Cước của nhạc sĩ Tô Hải, hay bài Đợi Anh Về (thơ của thi sĩ người Liên Xô Konstantin Simonov, Tố Hữu dịch tiếng Việt, nhạc sĩ Văn Chung phổ nhạc và ca sĩ Elvis Phương hát). Sau Hiệp định Geneve 1954, trong khi miền Bắc CS ra sức tiêu diệt sạch những tác phẩm nghệ thuật tiền chiến, may nhờ miền Nam VNCH cố gắng lưu trữ và phát huy tới đỉnh cao mà kho tàng tân nhạc VN không bị mai một. Bao nhiêu kỷ niệm êm đẹp đó chứng tỏ tôi đã được sống trong một vùng đất nước có nền tự do dân chủ phôi thai. Tôi có thể nào phản bội lại được không?
- Sống trong thành phố Sài Gòn tráng lệ, tôi không nếm mùi bom đạn chiến tranh, không biết mặt mũi anh chị du kích quân VC, hay Giải Phóng Miền Nam ra sao. Nhưng kinh nghiệm gia đình của mẹ tôi đã bắt đầu gieo vào đầu tôi một nghi vấn không nhỏ. Mẹ tôi tảo tần kinh doanh đủ mọi nghề, từ đóng hộp bọc nhung, may quần áo, mở hiệu sách, đóng bìa da, nạm chữ vàng, mở nhà in để giúp thêm tài chính cho bố tôi. Không may bà bị dính líu vào chuyện kinh tài VC, bà ký giấy đứng tên mua một cỗ máy in nhỏ để bọn VC lợi dụng chở vào bưng. Nội vụ bị phát giác (thời Tổng thống Ngô Đình Diệm, 1960), bà bị bắt giam. Nếu không nhờ các ông chú tôi làm cho sở Mỹ tận tình cứu gỡ thì bà đã bị rục xương trong tù rồi. Vài tháng sau bà được chính quyền thả cho về làm ăn buôn bán như xưa, không hề bị trù dập quản thúc như chế độ CS thời nay. Một chi tiết nhỏ khiến tôi sửng sờ, khi biết rằng chẳng có một đồng chí CS thân mến nào đã dám lộ diện cứu giúp mẹ tôi. Trong buổi ra mắt DVD Ngày Trở Về (VN 2006) cố nhạc sĩ Phạm Duy đã ngậm ngùi tiết lộ rằng: “Trong chuyện Bà Mẹ Gio Linh (thật 100%), chỉ có hình ảnh một bà mẹ già buồn bã thất thểu đi ra chợ lấy chiếc đầu người con trai đem về chôn cất, không một cán bộ hay đồng chí CS nào có can đảm đứng ra làm chuyện đó”. Đó là sự thật muôn thuở của cái gọi là “tình đồng chí trong thiên đường CS” đấy! 
- Nhưng nhờ đâu mà tôi hiểu được vấn đề và không bao giờ bị CS tẩy não như nhiều người khác trong Hội? Xin thưa, tôi phải cám ơn những kinh nghiệm quý báu qua 40 năm ròng làm việc trong ngành công nghiệp khai khoáng, luyện kim và hóa dầu của Canada. Một bài học quý giá nhất mà tôi không bao giờ quên, đó là khóa học “Relations Authentiques dans un milieu industriel” do hãng cử đi tu nghiệp (Quebec 1980). Thật không ngờ trong khi chế độ XHCN chỉ sản sinh ra những con người dối trá lừa lọc, thì xã hội tư bản lại tổ chức khóa tu nghiệp huấn luyện nhân viên phải “giao tế trung thực, chân thật” vì đó là mấu chốt căn bản trong một môi trường sản xuất công nghiệp nặng ở nhiều tầng lớp khác nhau. Một bài thực tập trong khóa học làm cho tôi nhớ suốt đời, đó là bài học “Tạo dựng niềm tin hỗ tương với nhau”, lớp học gồm 12 người đến từ những phương trời xa lạ, không bao giờ quen nhau, chia ra làm 6 nhóm 2 người. Người này bịt mắt người kia, dẫn nhau ra đường phố đi một vòng 10 phút, không được nói chuyện với nhau, chỉ biết tuân lệnh dẫn đường, không phản kháng. Sau 10 phút trở về lớp học, lại thay đổi vai, người dẫn đường kẻ bịt mắt. Mục đích là cho khóa sinh hiểu rằng mối dây tin tưởng hỗ tương rất quan trọng trong cơ sở làm ăn chung. Không tin nhau thì không làm được gì hết. 
- 2) Tư thế và lập trường chính trị của tôi đối với Hội Yêu Nước và Nhà Nước VN:
- Trước hết tôi tự xác định là “người Canada gốc Việt”, mang quốc tịch Canada sau khi về thăm gia đình lần đầu 1979. Tôi không phải là Việt Kiều, theo đúng nghĩa “người Việt mang quốc tịch VN sống ở hải ngoại”. Tôi không dám vỗ ngực tự xưng “Yêu Nước VN” tuy rằng khi tôi ký tên gia nhập Hội Việt Kiều Yêu Nước tại Canada năm 1973, chỉ vì lúc đó tôi còn là sinh viên VN, quốc tịch VN, nghe theo tiếng gọi “yêu nước” và không hề hiểu biết chủ nghĩa CS ra sao, chưa đủ kiến thức thâm sâu về lịch sử cận đại VN, nhất là sự thật về chiến tranh tàn khốc đang diễn ra trên mảnh đất quê hương vào thời kỳ đó (1973). Tuy vậy cụm từ “Yêu Nước” đã ám ảnh tôi từ khi vào Hội cho đến ngày hôm nay, vì tôi nó cho phép tôi đo lường và đánh giá bản chất thật của những con người trí thức vỗ ngực tự xưng YÊU NƯỚC ở Canada;
- Tôi quan niệm rằng người trí thức mang bằng cấp Đại Học ở hải ngoại, sống và làm việc trong môi trường tự do dân chủ Bắc Mỹ cần phải có đức tính trung thực, độc lập, hành xử quang minh chính đại, lương tâm nghề nghiệp và can đảm phản biện khi cần để đóng góp chất xám vào xã hội. Do đó người trí thức theo đúng nghĩa cũng nên biết cám ơn khi được giúp đỡ hay biết xin lỗi và xấu hổ khi phạm lỗi;
- Tôi quan niệm rằng bàn luận chuyện chính trị chẳng là là độc quyền của riêng ai, nhờ mạng lưới Internet quảng bá, nhanh chóng và đơn giản bất cứ ai cũng có quyền tìm hiểu thông tin thời sự và cùng nhau thảo luận nghiêm chỉnh để tự xác định lập trường và chia sẻ ý kiến. Tôi cũng nghĩ rằng chuyện chính trị thời sự là những vấn đề của người đang sống, đang hiện hữu bàn cãi với nhau. Người đã chết rồi chẳng còn lý do gì để gây ảnh hưởng, do đó đừng đem những hình ảnh tôn thờ lãnh tụ quá cố ra để làm bình phong chống chế cho thế đứng của mình;
- Sống và làm việc ở Canada, tôi phải có ý thức tuân thủ pháp luật đất nước sở tại, không bao giờ làm chuyện mờ ám đi ngược tiêu chuẩn nghề nghiệp. Do đó tôi không thể chấp nhận những hành động thiếu minh bạch của tập đoàn lãnh đạo Hội cùng với một số Hội viên nhằm thao túng Hội và cam tâm làm tay sai cho một vài quan chức cán bộ Nhà Nước CSVN. Tôi sẽ đề cập đến sự kiện quan trọng này trong phần trình bày chi tiết sau, với nhiều tang chứng không chối cãi được;
- Sẽ có người thắc mắc rằng: “Tại sao đến giờ phút này, 2015-2016, tôi mới nói lên những sự thật của Hội Việt Kiều Yêu Nước Tại Canada?”. Xin thưa rằng tôi đã từng có ý định phanh phui sự thật ra cộng đồng Người Việt Hải Ngoại, từ lúc Hội đoàn này tan vỡ thành hai nhóm (1991), vì tôi không còn tư thế gì trong 2 Hội này. Tôi đã thử tìm cách liên lạc với tờ báo Hợp Lưu (Hoa Kỳ) để ướm lời. Họ cũng rất hoan nghênh ý định viết bài của tôi, nhưng sau đó tôi đành giữ im lặng, vì những lý do sau:
a)- Thời điểm đó (1991), Internet chưa phát triển sâu rộng và quảng bá, cho nên sự lựa chọn vào một tờ báo duy nhất bị hạn chế, tôi không biết gì nhiều về Hợp Lưu, tưởng tượng rất khó làm việc chung nếu có bất đồng chính kiến, nguy hiểm cho cá nhân tôi, vì tôi còn đi làm xa, bận bịu gia đình, con cái;
b)- Thời điểm đó, tôi chưa nắm vững nhiều tài liệu lịch sử cận đại, nhất là chưa biết gì về cái gọi là “Bức công hàm Phạm Văn Đồng 1958” hay “Hội Nghị Thành Đô 1991”, cho nên không thể đi sâu vào vấn đề chính trị quan trọng;
c)- Thời điểm đó, tình hình VN chưa ngã ngũ, ĐCS và Nhà Nước CSVN hãy còn che đậy được khá nhiều “chuyện thâm cung bí sử”, xã hội VN chưa bị hỗn loạn như bây giờ, Biển Đông chưa dậy sóng, TQ chưa muốn gây hấn với VN, chưa thấy xuất hiện những phong trào đấu tranh tự do dân chủ, cho nên không trở thành nguyên nhân thôi thúc tôi phải lên tiếng;
3)- Phản động, Phản quốc, Ngụy quyền, Tay sai bù nhìn cho ngoại bang
Đến đây tôi xin phép tạm dừng nói về “cái tôi đáng ghét” (Le Moi est haissable, Blaise Pascal), để trình bày quan điểm của tôi về những cụm từ quan trọng mà dân chúng miền Nam không bao giờ quên, đó là những bản án vu oan giá họa mà nhà cầm quyền CS Hà Nội đã cố tình áp đặt lên đầu cổ họ sau ngày 30-04-1975. Để biện minh cho hành động gây tội ác chiến tranh xâm lược miền Nam VN, CS Bắc Việt đã tuyên truyền gieo rắc trong dân chúng bốn tội lớn của chính quyền VNCH, đó là: Ngụy quyền, tay sai bù nhìn cho đế quốc Mỹ, Phản quốc và Phản động. Tôi xin phân tích và nhận định “Ai đích thực mang bốn tội đồ to lớn đó?”.
a)- Phản động là gì? Ai phản động?
Hãy thử vào truy cập Google từ ngữ “phản động” là gì:
Đây là cụm từ do phe XHCN sử dụng từ những phong trào CS Đệ Tam, Đệ Tứ Quốc Tế, dựa trên quan điểm “đấu tranh giai cấp”. Sau này nhiều người theo chủ nghĩa xã hội xem những người ủng hộ xã hội tư bản là "phản động" vì lý thuyết của họ cho rằng nhân loại tiến lên chủ nghĩa xã hội là tất yếu của lịch sử (trích từ Google).
Theo Từ điển bách khoa Việt Nam, phản động biểu hiện ở những việc làm chống lại các phong trào cách mạng, dân chủ và giải phóng dân tộc; hăm doạ, săn lùng và đàn áp các tổ chức và cá nhân hoạt động chính trị, đàn áp nhân dân lao động; tệ phân biệt chủng tộc, nhen nhóm và khích lệ chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, chủ nghĩa chống cộng (trích từ Google).
Và quan sát tình hình kinh tế chính trị xã hội thế giới sau hơn một thế kỷ (100 năm) sẽ thấy nhân loại tiến bộ vượt bậc nhờ rất nhiều phát minh khoa học kỹ thuật từ các quốc gia phát triển tư bản đi đôi với công nghệ ứng dụng, công nghiệp nặng, giúp cho đời sống con người được nhiều tiện nghi, có cơ hội tiếp xúc trao đổi thường xuyên, gần nhau hơn. Mọi quyền tự do cơ bản của người dân được bảo đảm trong các xã hội tư bản. Trong khi đó thì các quốc gia bị đặt dưới chế độ XHCN hà khắc, thì cuộc sống ngày càng bị thu hẹp, nghèo nàn, dân trí bị hao mòn vì chính sách tuyên truyền ngu dân, mỵ dân. Trong một thế kỷ chế độ CS đã thanh trừng, tù đầy, đàn áp tiêu diệt hơn 100 triệu người trong các nhà tù, trại học tập cải tạo, con người chết dần mòn trong đói khát, nghèo túng vì thiếu phương tiện. Tình trạng đạo đức xuống cấp trầm trọng trong các nước theo XHCN, con người trở nên vô cảm, giả dối, lừa lọc nhau dưới vỏ bọc tuyên truyền một chiều của Nhà Nước CS. 
Quan sát kỹ tình trạng xã hội VN qua 40 năm sống dưới chế độc XHCN sẽ thấy kinh tế lụn bại, xã hội bang hoại, tội ác lên ngôi, Nhà cầm quyền áp dụng chính sách Công An Trị để theo dõi hăm doạ, săn lùng và đàn áp các tổ chức và cá nhân hoạt động chính trị, đàn áp nhân dân lao động. Tất cả bằng chứng hiển nhiên đó cho phép kết luận rằng: “Chế độ XHCN dưới ách thống trị của ĐCS và Nhà Nước VN hiện nay là một chế độ phản động, đi ngược lại trào lưu tiến hóa của nhân loại”. Thử so sánh tình hình VN với Miến Điện hiện nay thì rõ ngay.
b)- Ai phản quốc?
Ít nhất có ba bằng chứng lịch sử hiển nhiên còn lưu lại cho thế hệ trẻ VN tham khảo, đó là: 
- Bức Công Hàm Phạm Văn Đồng ký ngày 14-09-1958, công nhận chủ quyền TQ trên toàn thể khu vực Biển Đông, bao gồm hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa dựa trên những yêu cầu công khai của TQ (04-09-1958). Câu tuyên bố mở đầu trong bức công hàm đó là một bằng chứng ngắn gọn, chắc nịch không thể chối cãi rằng “Nhà Nước VN thời VNDCCH (Cs Bắc Việt) đã ngang nhiên đặt bút công khai ký một bản văn tự bán nước, nhượng chủ quyền Biển Đảo cho ngoại bang TQ” để đổi lấy viện trợ dung ống, đạn dược, nhiên liệu, nhu yếu phẩm nhằm mục tiêu xâm lược chiếm đóng toàn thể miền Nam VN (dưới vĩ tuyến 17). Nếu không có viện trợ ồ ạt và tiếp tế đạn dược tầm vóc lớn của TQ, thì quân đội miền Bắc (VNDCCH) không thể nào tiến công thực hiện một cuộc chiến tranh vận động chiến kéo dài cả tháng trời, tràn khắp mọi mặt trận, đối đầu với quân lực VNCH tinh nhuệ, vũ khí tối tân hơn;
- Trận hải chiến Hoàng Sa năm 1974, do TQ khởi động xâm lược biển đảo của VNCH, đã hiển nhiên cho thấy Nhà Nước CS miền Bắc cùng với MTGPMN đã cố tình ngậm miệng chấp nhận “hành vi xâm lăng của ngoại bang”. Đây là một sự im lặng cúi đầu ô nhục “của bè lũ bán nước, phản quốc” không chối cãi được. Trận hải chiến đó chứng tỏ chính quyền Việt Nam Cộng Hòa với Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và quân lực VNCH không bao giờ bán nước, không phản quốc, vì đã có can đảm điều chiến hạm ra chống trả quân xâm lược, tuy rằng bị hạn chế đạn dược, nhiên liệu vì viện trợ Hoa Kỳ bị cắt đứt (thể theo tinh thần Hiệp Định Paris, 1973). Đừng quên rằng ở thời điểm đó quân đội miền Bắc CS và MTGPMN hãy còn hiện diện ở miền Nam luôn đe dọa an ninh nhân dân miền Nam. Có nghĩa rằng quân đội VNCH đã phải đối đầu với ba thế lực quân sự hung hăng tàn bạo, trong tư thế chiến đấu đơn độc của mình;
- Bằng chứng hiển nhiên thứ ba là trận hải chiến trên đảo Gạc Ma 1988, tàu chiến TQ tiến công ồ ạt, quyết chiếm gọn đất đai lãnh thổ VN. Thay vì ra lệnh phản công, Đại Tướng Bộ Trưởng Quốc Phòng lúc đó là Lê Đức Anh đã ra lệnh “cấm không cho quân đội được phép cầm súng bắn trả”. Kết quả là 64 chiến sĩ hải quân đã phải đưa thân mình ra cho quân xâm lược TQ nã súng tiêu diệt, một cách ô nhục, không khác gì 64 hình nộm bị đem ra làm bia cho quân xâm lược tập bắn tự do”. Đây là một hành vi “phản quốc” tồi tệ nhất trong lịch sử VN, nói theo lời của vị tướng về hưu Nguyễn Trọng Vĩnh ngày đầu năm 2016 vừa qua;
Chỉ cần nêu lên ba chứng cứ lịch sử không chối cãi đó tôi có thể kết luận rằng: “ĐCS và Nhà Nước VN hiện nay là kế thừa của một tập đoàn phản quốc, hại dân kể từ khi ông HCM về nước thành lập Đảng”. Vì giới hạn của bài viết tôi chưa muốn phân tích nhận định về “trận chiến Điện Biên Phủ 1954” xem như là một chiến thắng ngầm của quân đội TQ mà ĐCS, ông HCM và ông Võ Nguyên Giáp cố tình che đậy, tôi sẽ trình bày sau;
c)- Ai là tay sai, bù nhìn cho ngoại bang?
Xin phép nói ngay, đó là ĐCS và Nhà Nước XHCNVN qua 70 năm theo đuổi con đường CS. Kể từ khi ông HCM lân la tiếp xúc với lãnh đạo ĐCS TQ (Mao Trạch Đông) và Liên Xô (Staline) rồi tìm cách tổ chức đưa người sang TQ học tập quân sự. Nhất nhất mọi điều ông HCM và tập thể lãnh đạo đảng cộng sản và Nhà Nước CSVN đã chịu sự điều khiển, sai khiến của ngoại bang CS. Từ chiến lược quân sự Điện Biên Phủ 1954, cho đến chính sách Cải Cách Ruộng Đất, tiêu diệt hàng trăm ngàn người dân vô tội ngoài Bắc (1954-1956). Sau này vì kinh tế kiệt quệ, nạn đói đe dọa mà HCM và ĐCS đã nhắm mắt để cho Phạm Văn Đồng đặt bút ký Bức Công Hàm Bán Nước 1958. Cứ bình thản theo dõi diễn biến Đại Hội ĐCS kỳ 12 vừa qua cũng thấy biết bao bằng chứng về bản chất tay sai bù nhìn của nhà cầm quyền Hà Nội, thông qua vai trò “thái thú” của TBT Nguyễn Phú Trọng.
d)- Ai là ngụy quyền?
Đó là tập đoàn lãnh đạo ĐCS và Nhà Nước XHCN VN từ hơn 70 năm qua. Ngụy có nghĩa là giả tạo, giả dối, không thật, không có chính danh, không có tư cách công khai chính thức. Trong trào lưu tiến hóa tự nhiên của nhân loại tiến bộ, một tập thể lãnh đạo quốc gia phải tuyệt đối do toàn dâu bầu lên thông qua một cuộc đầu phiếu công khai, gồm nhiều người ứng cử bàn cãi thuyết phục toàn dân. Sau một nhiệm kỳ do Hiến Pháp xác định, nếu tập đoàn lãnh đạo không đủ phẩm chất đáp ứng nguyện vọng toàn dân thì sẽ có một cuộc bầu phiếu khác thành lập để tìm người tài giỏi hơn. Tất cả diễn biến công khai trong một bầu không khí tự do dân chủ trọn vẹn, không mang hình thức trù dập, đe dọa, khủng bố ngầm.
Bao nhiêu yếu tố chính yếu đó đã chứng tỏ rằng “ĐCS và Nhà Nước VN hiện nay hoàn toàn là giả dối”, không hề do người dân tín nhiệm bầu lên bao giờ, mà chỉ là một màn kịch do ngoại bang chi phối quyết định trước. Gọi đó là Ngụy quyền CS Hà Nội, không sai tý nào.
Vài lời đề nghị với Cộng Đồng Người Việt (người Canada gốc Việt):
Tôi chỉ có vài lời đề nghị các Trang Mạng cộng đồng, các tờ báo truyền thông đang phổ biến ở Canada hãy cho phép đăng tải bài viết này của tôi để rộng đường dư luận, để mọi người nhận chân sự thật về cái gọi Hội Việt Kiều Yêu Nước Tại Canada. Đây là một chi tiết rất quan trọng vì tôi muốn tránh một sai lầm trong quá khứ là “làm sao nhận diện được ai là CS, ai là Việt gian bán nước”, tôi gọi đây là bài học Trọng Thủy Mỵ Châu thời nay, để góp phần tranh đấu giành lại chủ quyền đất nước, bảo đảm tự do, dân chủ, Phát triển Dân Trí, Chấn hưng Dân Khí, Cải thiện Dân Sinh cho người dân VN (Phan Chu Trinh).
Thành thật cám ơn,
15-04-2016
Canada
danlambaovn.blogspot.com

Lời sám hối muộn màng

Lê Quốc Trinh

Hôm nay ngày 3 tháng 3 năm 2015, tôi quyết định viết bài sám hối này để bày tỏ lập trường dứt khoát với những sai lầm trong quá khứ và nhân dịp lên tiếng chính thức xin lỗi hàng triệu người dân miền Nam (từ vĩ tuyến 17 trở xuống) cùng với hàng triệu người Việt Nam di tản trốn ngục tù cộng sản, đã hy sinh hay đang sinh sống khắp nơi trên thế giới.
Trước hết tôi xin tự giới thiệu: tôi tên là Lê Quốc Trinh, sinh năm 1948 cư ngụ tại Canada từ năm 1967, là kỹ sư cơ khí về hưu, gia đình gốc Việt Nam, nuôi dưỡng con cái theo truyền thống Việt Nam. Tôi sinh trưởng từ miền Nam (Sài Gòn thân yêu), cha mẹ gốc Bắc di cư 1945. Tôi được hấp thụ một nền giáo dục cao thượng, nhân bản, mang tính yêu nước thương nòi nồng nàn dưới chính thể Việt Nam Cộng hòa; vì thế, tôi không thể nào quên công ơn của toàn thể nhân dân miền Nam và chính phủ VNCH đã chăm lo đào tạo tôi thành một con người hoàn thiện đầy đủ tư duy và tình cảm.
Lời xin lỗi
1. Trước hết tôi thành thật xin lỗi gia đình cố tổng thống Ngô Đình Diệm vì hành động theo đuôi phong trào Pháp Nạn xuống đường chống đối chính phủ trong lúc không hiểu rõ nguồn cơn và sự thật của vấn đề. Năm 1963 tôi còn là một thiếu niên nhỏ tuổi, học trường trung học Võ Trường Toản, sát cạnh tư dinh tổng thống nên dễ dàng bị lôi cuốn theo những đoàn biểu tình mà không hay biết. Qua đến Canada tôi tìm hiểu được nhiều chi tiết lịch sử, được nghe các nhân chứng kể lại và tôi truy ra được nguồn gốc của sự kiện. Tôi sẽ trình bày thêm về vấn đề này.
2. Tôi thành thật xin lỗi ba triệu người di tản miền Nam vượt biển ra đi tìm tự do, vì những hành vi khi tôi sinh hoạt và đóng góp tích cực cho Hội Việt Kiều Yêu Nước tại Canada (HVKYNTC), từ năm 1973 đến năm 1990. Tôi đã vô tình tiếp tay cho một hội đoàn ủng hộ Đảng Cộng sản và Nhà Nước CHXHCN Việt Nam, những việc làm ở hải ngoại đã góp phần xây dựng cho một chế độ phi nhân bản, phản khoa học tại quê nhà. Tôi sẽ tiếp tục trình bày cặn kẽ những sự kiện xảy ra ở trong hội đoàn này để mọi người thấy rõ bộ mặt thật của một nhóm người gọi là trí thức thân Cộng trong thời gian hoạt động (1969-1990) và cho đến ngày nay.
3. Tôi thành thật xin lỗi các bác, các anh chị công chức chính phủ VNCH và toàn thể các chiến sĩ, tướng tá đã hy sinh thân mình để bảo vệ tự do cho người dân miền Nam. Tôi ra đi du học tự túc từ cuối năm 1967, nên không có công lao gì trong công cuộc chiến đấu đầy xương máu chống xâm lược cộng sản từ phía Bắc. Có quá nhiều tấm gương hy sinh quả cảm của tướng tá, chiến sĩ trong quân lực VNCH mà tôi không biết đến, đó là lỗi lầm của tôi. Đến nay nhờ mạng lưới Internet quảng bá và nhờ nhiều trang mạng hải ngoại thông tin cặn kẽ mà tôi mới thực sự hiểu nỗi thống khổ của các anh chị, các bác trong quân lực Việt Nam Cộng hòa.
Nguyên nhân nào dẫn đến sự thay đổi não trạng?
Thật tình mà nói, tôi đã hoạt động tích cực ở đủ mọi lĩnh vực trong hội đoàn thân cộng hơn 17 năm ròng nhưng không hề bị tư tưởng Mác Lê ảnh hưởng mạnh là nhờ những yếu tố sau:
- Tính tôi thích suy nghĩ độc lập, ương ngạnh từ nhỏ, không thích a dua và quỵ lụy.
- Tôi thích đọc sách, truyện, cho nên dễ bị lôi cuốn theo lối sống miền Nam ngày trước, chịu nhiều ảnh hưởng của nền văn hoá miền Nam dân chủ tự do.
- Gần 40 năm tận tụy làm việc trong ngành công nghiệp khai khoáng và hoá dầu của Canada tôi đã học được nhiều điều hay về phong cách tổ chức, tư duy làm việc trung thực của hệ thống tư bản Bắc Mỹ. Điều này đã giúp tôi gạn lọc nhiều tàn dư rơi rớt của lối học từ chương của Việt Nam thời xưa cũng như tinh thần bảo thủ phương Đông; giúp tôi hiểu rõ tư bản hơn và tránh được cạm bẫy dụ dỗ của học thuyết cộng sản Mác Lê, và đã giúp tôi có cái nhìn chính xác về những con người trí thức thiên tả tháp ngà trong Hội VKYNTC.
- Gia đình tôi có gốc gác từ những tấm gương yêu nước thời thực dân Pháp: Ông ngoại tôi, cụ cử Nguyễn Hữu Cầu, ông bác tôi, cụ Từ Long Lê Đại, là hai trong số những sáng lập viên Trường Đông Kinh Nghĩa Thục, đã từng bị thực dân Pháp bắt giam đầy ra đảo hơn 17 năm trời. Bác tôi, cư sĩ Phật học nổi tiếng Thiều Chửu Nguyễn Hữu Kha, người soạn ra bộ Hán Việt Tự Điển lừng danh, cũng từng bị Việt Minh đem ra đấu tố trong Cải Cách Ruộng Đất 1954 khiến ông đã phải trầm mình tự tử dưới sông để minh oan. Tôi sẽ có dịp nói nhiều đến những kỷ niệm khó quên về mặt tâm linh với bác Hai Kha Thiều Chửu cùng con cháu hậu duệ đã giúp tôi lần dò tìm lại truyền thống yêu nước của giòng giõi nhà Nguyễn Đông Tác ở Hà Nội.
- Tôi từng hãnh diện là một trong những thành viên tích cực hoạt động trong HVKYNTC. Vì là một kỹ sư cơ khí thích thiết kế và sáng tạo, tôi là người phụ trách chính về công cuộc cải tạo xây dựng lại Hội quán, số 1450 đường Beaudry, Montreal, giúp cho Hội đoàn này có cơ sở vật chất vững mạnh để phát triển thịnh vượng từ năm 1984 đến 1990. Cho nên tôi có thể hiểu biết nhiều vấn đề liên quan đến những công ty kinh doanh do một số lãnh đạo Hội chủ trương. Tôi sẽ trở lại vấn đề này sau.
- Mẹ tôi là một hình ảnh tiêu biểu của người phụ nữ Việt Nam, tận tuỵ tần tảo hy sinh xây dựng gia đình, nuôi nấng con cái. Nhà in Hưng Long, ở Chợ Cũ Saigon, do mẹ tôi thành lập từ 1960, đã từng in ấn rất nhiều kinh sách nhà Phật do các chùa đưa đến. Tôi là người được cử làm thầy cò, kiểm tra văn tự, lỗi chính tả trước khi lên khuôn. Do đó tôi có cơ duyên tiếp xúc với triết lý đạo Phật sớm; sau này, qua nhiều tác phẩm của bác Thiều Chửu tôi lại có dịp tìm hiểu nghiên cứu thâm sâu về đạo Phật. Mạng lưới Internet cùng với nhiều diễn đàn đã giúp tôi hiểu rõ phong trào Pháp Nạn thời 1963, cùng với kinh nghiệm sống trong xã hội tự do dân chủ tư bản ở Bắc Mỹ đã khiến tôi đã phải tự thay đổi để có quan điểm chính xác về lĩnh vực tôn giáo tâm linh;
- Tôi là người thích âm nhạc từ nhỏ, tự học thổi sáo, chơi khẩu cầm, đánh đàn mandoline, và tôi đã đi vào thế giới tân nhạc Việt Nam với cả trái tim nồng nhiệt. Tôi đã từng mời nhiều em khiếm thị ở trường Mù tại Sài Gòn đến nhà chơi để học thêm về lý thuyết và thực hành âm nhạc. Tôi biết đến nhạc tiền chiến rất sớm, thưởng thức nhiều bản nhạc xa xưa ngay tại miền Nam trong những năm 1960, mà chính quyền cộng sản miền Bắc đã nghiêm cấm. Tôi sưu tầm những bản hùng sử ca Việt Nam từ thời kháng chiến chống thực dân Pháp để hiểu rõ thêm bối cảnh lịch sử và tâm tư của nhiều nhạc sĩ dân gian nổi tiếng. Tôi sẽ trình bày cặn kẽ thêm sau này.
Đối tượng của lời sám hối này
Tôi biết trước những hậu quả khó tránh khi bài việt này được đăng tải rộng rãi trên các trang báo Mạng. Trước tiên là tình bạn hữu sẽ sứt mẻ trầm trọng với những người từng sát cánh sinh hoạt trong HVKYNTC; sau nữa là những thay đổi trong quan hệ gia đình từ Canada cho đến Việt Nam. Tôi chấp nhận và xem như đó là hậu quả tất yếu và phải cắn răng chịu đựng để lương tâm được thanh thản không còn bị giầy vò. Tuy nhiên, tôi xin phép có đôi lời nhắn gởi đến với tất cả các anh chị bạn bè quý mến trong Hội như sau:
Thân gửi các anh chị em quý mến trong Hội,
Tôi đã kiên nhẫn chờ đợi phản ứng của các anh chị em hơn hai năm qua, từ khi tôi viết và đăng trên Mạng bài “Sự thật nằm sau bức công hàm Phạm Văn Đồng 1958”. Tôi đã gửi riêng cho các anh chị bài viết đó qua e-mail để giúp các anh chị tìm hiểu rõ hơn nội dung bức công hàm và bối cảnh lịch sử xung quanh sự kiện rất quan trọng này. Thế nhưng tôi đã hoài công và vô cùng thất vọng, vì không được một câu trả lời dù đồng thuận hay phản đối lập luận của tôi. Tôi xin phép được trích đăng lại bài viết đó để anh chị đọc lại và để cho cộng đồng người Việt hải ngoại xem và phê phán.
Hai năm trôi qua, những gì xảy ra ở Biển Đông, xung quanh hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đã đủ để chứng minh cho những lập luận, phân tích của tôi xác đáng. Trung Quốc càng ngày càng hung hăng, xâm lấn ngang ngược. Trong khi đó thì tập đoàn lãnh đạo đảng và Nhà Nước CSVN lại càng co vòi, lép vế, ngậm miệng nín khe, ngồi nhìn ngư dân Việt Nam bị cướp phá uy hiếp. Tất cả đều chứng tỏ lãnh đạo Việt Nam chỉ là một bè lũ bù nhìn, bán nước. Họ đã đem giang san lãnh thổ làm văn tự bán khống cho tên láng giềng hung tợn phương Bắc để nhận viện trợ vũ khí, đạn dược, nhiên liệu, thực phẩm nhằm thực hiện mưu đồ chiếm nốt miền Nam trù phú phì nhiêu.
Các anh chị theo dõi sát tình hình Biển Đông từ lúc dàn khoan HD-981 lừng lững đi vào lãnh hải Việt Nam và cắm sào khai thác dầu ngang nhiên. Các anh chị cũng đã xuống đường phản đối theo đúng thông tư của Sứ Quán VN ... rồi sau đó mọi sự lại an bài một cách êm thắm. Trung Quốc vẫn tiếp tục ngang nhiên xâm phạm bờ cõi, và anh chị vẫn im hơi lặng tiếng. Phải chăng đó là hành động và tư cách của những con người trí thức việt kiều hải ngoại, những người đã từng hưởng nền giáo dục nhân bản của miền Nam, những người từng vỗ ngực tự xưng là Việt Kiều Yêu Nước Tại Canada?
Tôi rất mong các anh chị suy nghĩ lại, đặt đất nước dân tộc Việt Nam lên trên mọi quan hệ lợi nhuận riêng tư với chế độ cộng sản, để cùng nhau lên tiếng sám hối trước cơ đồ tổ quốc. Cơ hội không còn nhiều để cứu nguy đất nước nữa đâu. Hơn 60 năm qua, chủ nghĩa cộng sản đã ngấm quá sâu vào não trạng toàn thể Bộ Chính trị đảng cộng sản và tập đoàn lãnh đạo Nhà Nước Cộng sản Việt Nam. Họ đã và đang bị thế lực ngoại bang từ phương Bắc làm lung lay, mua chuộc. Hình ảnh Trọng Thủy-Mỵ Châu còn đó. Con cháu của chúng và bè lũ tay sai nội gián đã và đang gặm nhấm từ từ, bào mòn truyền thống yêu nước chống xâm lược của dân tộc, các anh chị chưa thấy sao? Nếu quả thật văn kiện bí mật từ Hội Nghị Thành Đô năm 1990 có thật, vì Đảng và Nhà Nước Việt Nam vẫn còn ngậm miệng nín khe trước sức ép dư luận trong nước (xem thêm Kiến Nghị của 61 vị nhân sĩ tướng tá QĐND Việt Nam năm 2014), thì chúng ta chỉ còn không tới 5 năm để phản kháng và giải thoát dân tộc Việt Nam khỏi ách thống trị Đại Hán. Các anh chị không cảm thấy bức xúc sao? Không hề quan ngại gì hết sao?
Nguyện vọng tương lai
Nghĩ lại thời gian đã qua, tôi thầm tiếc nuối cho một thời kỳ niên thiếu bị lừa dối, bị đánh cắp, và cảm thấy ăn năn vì đã không trực tiếp góp phần đấu tranh lôi kéo công luận về phía nhân dân miền Nam. Tôi cảm thấy xấu hổ khi có lúc đã sử dụng luận điệu tuyên truyền của cộng sản một cách vô ý thức mà không hiểu. Nay đã đến lúc cần phải phân tích và tìm hiểu cặn kẽ xem ai mới chính là những kẻ “phản động, phản quốc, bù nhìn, tay sai ngoại bang”. Từ đó phải thiết lập hồ sơ pháp lý đem ra trước tòa án quốc tế để minh oan cho toàn thể nhân dân miền Nam, cho 3 triệu người di tản bỏ làng mạc, nhà cửa ruộng đồng, mất gia đình, bà con bạn bè. Sau đo đem toàn thể bọn tội phạm ra pháp lý xét xử.
Tôi rất mong được đứng nghiêm, chào lại lá cờ vàng ba sọc đỏ của Việt Nam Cộng hòa và cất cao tiếng, hát bài Tiếng Gọi Thanh Niên (Quốc Ca Việt Nam Công hòa) thời nào. Tôi rất mong được trở lại vị trí một anh kỹ sư quèn về quê hương đem hết 40 năm kinh nghiệm xứ người ra góp phần phục vụ đất nước trước khi chết.
Lê Quốc Trinh, Canada
4 tháng 3, 2015

“Lời sám hối muộn màng”