Tạ Dzu (Danlambao) - “Bốn
chữ tự nhiên kinh tế mâu thuẫn lẫn nhau, vì kinh tế bao giờ cũng bao
hàm một thủ đoạn nhân vi trái ngược với hai chữ tự nhiên”. - Lý Đông A
Tổng Bí thư đảng CSVN, ông Nguyễn Phú Trọng, năm 2013, trong lần tham dự bàn về dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 đã phát biểu rằng
“…Đổi mới chỉ là giai đoạn, còn xây dựng Chủ nghĩa Xã hội còn lâu dài
lắm. Đến hết thế kỷ này không biết đã có CNXH hoàn thiện ở Việt Nam hay
chưa”.
Người ta có thể tin rằng ông nói điều đó thật lòng vì ông từng là Tiến
sĩ Chính trị học, chuyên ngành Xây dựng đảng và đã nắm giữ các chức vụ
quan trọng. Từ 1987 – 1989, ông là Trưởng ban xây dựng đảng; rồi
1991-1996 là Tổng Biên tập tạp chí Cộng Sản. Dù biết rằng cho đến cuối
thế kỷ 21 chưa chắc đã có CNXH hoàn thiện ở Việt Nam, nhưng vì tin tưởng
hoàn toàn vào những điều căn bản làm nền tảng xây dựng chủ thuyết cộng
sản, như xã hội cộng sản nguyên thủy, kinh tế tự nhiên, động lực làm lăn
bánh xe lịch sử, những quy luật biện chứng, tính quyết định của vật
chất v.v… nên ông và Đảng CSVN vẫn kiên định đưa đất nước tiến lên XHCN.
Những điều căn bản đó có đúng hoặc có bám sát thực tại hay không? Nếu
không, ông và các đồng chí của ông vẫn lầm lẫn tin vào, thì thay vì đi
lên Xã Hội Chủ Nghĩa, lại như dân gian thường nói, Xuống Hố Cả Nước.
Nhận định sai dẫn đến tư duy sai rồi hành động sai. Chính sách xây dựng quốc gia, do đó, càng sai.
Xã hội cộng sản nguyên thủy
Vì nhu cầu của cuộc sống, người tinh khôn (homo sapiens) đã biết quây
quần tổ chức thành thị tộc, khởi đầu bằng tập thể nhỏ một vài chục
người, có quan hệ huyết thống gần gũi với nhau. Nhu cầu vật chất của họ
rất giới hạn, chỉ nhằm thỏa mãn các nhu yếu căn bản như đói ăn, khát
uống, ngủ nghỉ mà thôi.
Họ sống chủ yếu nhờ vào hái lượm và săn bắt. Công việc săn bắt cần sự
phối hợp của số đông bầy đoàn như cùng lùa con thú vào vực thẳm rồi ném
đá, phóng cây cho đến chết.
Họ săn chung, hưởng chung, ăn lông ở lỗ không khác mấy với loài thú. Ý
thức tư hữu cá nhân chưa xuất hiện, nhưng tư hữu thị tộc thì có. Mỗi thị
tộc chiếm cứ một khu vực riêng, bất khả xâm phạm, giống với rừng nào
cọp nấy.
Một nhóm nhỏ sơ khai sinh sống đơn giản, chưa có mô hình tổ chức xã hội,
không có điều kiện khách quan để phân chia giai cấp, hay đúng hơn, các
giai tầng xã hội.
Xã hội nguyên thủy đó, Mác và Ăng ghen cho là xã hội đầu tiên của con
người, có nhiều điều nên được phát huy để xây dựng một xã hội tốt đẹp,
mà ông gọi là xã hội cộng sản trong tương lai. Nhưng với bản tính “tự
nhiên” của lối sống bầy đoàn, thời kỳ nguyên thủy này đã thật sự là giai
đoạn đầu tiên của xã hội loài người chưa, hay vẫn còn là giai đoạn mà
loài người sống như tự nhiên, chưa thoát khỏi tự nhiên giới? Chúng ta
hãy theo dõi xem nhân chủng học và nguyên-thủy-sử học khám phá ra như
thế nào.
Cho đến khoảng 4000 năm trước Công nguyên, con người phát hiện ra đồng
nguyên chất, rất mềm, chủ yếu làm đồ trang sức. Họ tìm cách pha chì và
thiếc cho đồng cứng hơn, tạo ra các loại rìu, cuốc, thương, giáo, mũi
tên… và cả trống đồng.
Nhờ công cụ lao động bằng kim loại, con người đã có thể gia tăng năng
suất, khai khẩn đất hoang tăng, sản phẩm ngày càng nhiều. Một số người
nhờ lao động giỏi hơn người khác, hoặc lợi dụng uy tín để chiếm đoạt sản
phẩm của người khác mà trở nên khá giả. Thời kỳ hái lượm, săn bắt
chung, hưởng chung của xã hội nguyên thủy dần tan vỡ, mở đầu cho một xã
hội có nhiều giai tầng mang tính đa nguyên đầu tiên xuất hiện.
Đó là quy luật phát triển khách quan của xã hội loài người.
Sai lầm căn bản của Mác là không thấy được khả năng đặc biệt của con
người là có thể tu chỉnh lại tự nhiên. Như Lý Đông A đã thấy: “…loài
người thành tựu được là bởi sự tu chỉnh tự nhiên, nó là cuộc cách mạng
tối sơ của loài người, nó là động cơ tiến hóa không dứt…”. Nhờ vậy
mà loài người tiến hóa không ngừng, từ thời nguyên thủy tới nay và mãi
mãi không dứt, khác hẳn với tự nhiên và với động vật khác. Khoa học đã
và đang tiếp tục khám phá các giai đoạn phát triển khác nhau của loài
người kể từ thời nguyên thủy thô sơ cách đây vài triệu năm, khởi đi và
căn bản là “tu chỉnh tự nhiên”. Nếu chỉ sống theo hay như tự nhiên thì
không có tiến hóa, không có loài người như hôm nay.
Mác và những người cộng sản cũng không thấy được rằng trong quá trình tu
chỉnh tự nhiên, con người phát huy các khả năng và sự sáng tạo đa dạng,
tùy cá nhân, nhu cầu và môi trường sống khác nhau. Đây là những khả
năng và động lực phát triển khác nữa của con người. Sự đa dạng khác biệt
này cần được điều phối để không gây ra mâu thuẫn, xung khắc. Triệt tiêu
tính đa dạng tức là triệt tiêu động lực và khả năng tiến hóa của loài
người. Họ tìm cách áp đặt nguyên tắc vô giai cấp của thời kỳ xã hội
nguyên thủy sơ khai, cho đó là lý tưởng nhằm triệt tiêu các giai tầng xã
hội và cào bằng cho mọi người vô sản như nhau, ai cũng suy nghĩ giống
nhau. Càng về sau họ càng phải chỉnh sửa nhiều nhưng trên căn bản vẫn
giữ các nguyên tắc ban đầu của chủ nghĩa Mác.
Họ không thấy được tính đa nguyên khách quan khi xã hội phát triển. Vì
không bám sát thực tại như vậy nên không biết cách tôn trọng đa nguyên
tính, thản nhiên hô hào giai tầng công nhân vùng lên lật đổ giai tầng tư
sản, thương gia, trí thức để tạo nên xã hội không giai cấp. Giai cấp
này dùng bạo lực tiêu diệt giai cấp khác là cách giải quyết của tự
nhiên, của thế giới động vật, mạnh được yếu thua, không phải cách thức
giải quyết của con người.
Mỗi người, mỗi nhóm là mỗi đơn vị xã hội, có giá trị nội tại của nó, cần
được phát huy cũng như cạnh tranh ôn hòa cùng tồn tại để xã hội được
phát triển nhiều mặt, phong phú và không ngừng tiến hóa. Một trong những
trách nhiệm trọng yếu của nhà nước hiện đại là tạo mọi điều kiện thuận
lợi để mỗi đơn vị, mỗi “tế bào xã hội” đó phát huy hết tính đặc thù và
sức sáng tạo của mình thông qua giáo dục, định chế và luật pháp. Đồng
thời tạo môi trường và điều kiện để điều phối những dị biệt, giảm thiểu
tối đa mâu thuẫn và xung khắc dẫn đến tan vỡ xã hội, nhờ đó mang lại
cuộc sống hài hòa lợi ích cho mọi thành phần dân chúng.
Cộng sản thường hô hào ổn định để phát triển. Ổn định theo cách nhìn của
cộng sản là làm mọi cách, sử dụng mọi phương tiện để trói buộc tính đa
nguyên của xã hội vào độc nguyên - nguyên cộng sản. Cả sinh lực của đảng
dành cho việc níu kéo độc nguyên nhằm gìn giữ ổn định. Nhưng càng níu
kéo trói buộc lại càng bị tính đa nguyên tìm cách bung phá, càng có
nhiều tổ chức ra đời dù bị cấm đoán, đấu tranh ôn hòa hay bạo động để
đòi đảng phải chấp nhận sự xuất hiện của họ và đòi chia sẻ quyền lực
chính trị trong ôn hòa bằng bầu cử dân chủ thực sự. Cứ nhìn xã hội dân
sự đang ra đời ở Việt Nam và đông đảo những người không cộng sản tự ứng
cử vào quốc hội thì thấy rõ tính đa nguyên bung phá đó.
Vấn đề ở đây là làm thế nào, chính sách nào cho đa nguyên phát triển
trong thống nhất (unity in diversity) chứ không phải dồn ép đa nguyên
vào một rọ độc nguyên. Làm sao để biết được tính thống nhất? Đó chính là
văn hóa và những giá trị chung (core values) được đãi lọc qua thời gian
và được cả cộng đồng dân tộc chấp nhận. Lỗi lầm lớn nhất của đảng CSVN
là đã hủy diệt văn hóa ngàn đời của cha ông để lại, chỉ vì những nhận
định sai khớp với lịch sử.
Đảng CSVN đi ngược quy luật phát triển khách quan đa nguyên của xã hội
nên chỉ còn biết sử dụng côn đồ, bạo lực để giữ ổn định giả dối tạm
thời. Ông Nguyễn Phú Trọng chỉ còn biết nói, không để lọt vào quốc hội
những phần tử “thế này thế khác”. Ông nói thế vì ông thầy Các Mác của
ông không hiểu rằng “thế này thế khác” chính là đa nguyên xã hội, luôn
cần thiết để xã hội loài người phát triển được.
Trong thời chiến, người ta cần sự đoàn kết, trên dưới một lòng để đạt
hiệu quả đấu tranh cao. Ngược lại, trong thời bình, muốn phát triển phải
biết tôn trọng tính đa nguyên để mọi người, mọi giới, cộng sản hay
không cộng sản, đều có thể đóng góp tài sức của mình một cách bình đẳng
và được hưởng thành quả một cách hợp lý.
Kinh tế tự nhiên
Kinh tế tự nhiên theo cộng sản, được hiểu là kinh tế tự cung tự cấp, có
nghĩa sản phẩm tạo ra nhằm thỏa mãn nhu cầu trực tiếp của người sản
xuất. Ngành sản xuất chính là săn bắt, hái lượm và nông nghiệp thô sơ
(gộp nông nghiệp vào với săn bắt hái lượm là điều sai lầm sẽ nói ở đoạn
sau). Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất giai đoạn này rất thấp
và phải phụ thuộc chặt chẽ vào tự nhiên. Quy mô sản xuất nhỏ lẻ, bị giới
hạn bởi nhu cầu và nguồn lực cá nhân, gia đình.
Kinh tế sản xuất phát triển sẽ tiếp nối bởi kinh tế thị trường. Để tiêu
thụ sản phẩm, hàng hóa cần có chợ búa, thị trường trao đổi, thỏa mãn nhu
cầu của đông đảo khách hàng. Người cộng sản chọn áp dụng nguyên tắc tự
cung cấp và phân phối lấy nên phải đặt kế hoạch mỗi năm năm, gọi là kinh
tế kế hoạch hay kinh tế chỉ huy.
Trong nền kinh tế kế hoạch, nhà nước hoàn toàn kiểm soát và toàn quyền
sử dụng các yếu tố sản xuất (vốn, nhân lực và tài nguyên thiên nhiên),
đồng thời tự quyết định việc phân phối thu nhập với yếu tố bình quân là
quan trọng. Nhà nước cũng quyết định mặt hàng nào với khối lượng bao
nhiêu sẽ được sản xuất, trái với kinh tế thị trường, sản xuất hàng hóa
phi kế hoạch, dựa chủ yếu trên cung và cầu của thị trường.
Ví dụ: Mỗi người cần hai thước vải một năm, dân số 30 triệu, kế hoạch
đặt ra là phải có 60 triệu mét vải. Cứ thế mà sản xuất cho đủ chỉ tiêu.
Ai cũng được hai mét vải bình quân như nhau, không có sự giầu nghèo bóc
lột nhau ở đâu hết!
Điểm rất cần lưu ý ở đây là trong nền kinh tế chỉ huy, yếu tố con người
không được coi trọng, ý kiến người dân không cần thiết vì tất cả đã được
đảng và nhà nước lên kế hoạch giùm. Đạt yêu cầu, đạt chỉ tiêu sản xuất
vật chất mới quan trọng. Cả xã hội làm việc cứ như đàn ong đàn kiến,
không cần cạnh tranh và sáng kiến nên sản phẩm kém phẩm chất, đơn điệu,
nghèo nàn; đời sống xã hội cũng kém đa dạng và phong phú.
So với sản xuất tự cung cấp thì sản xuất hàng hóa dựa trên cung cầu của kinh tế thị trường có ưu thế vượt trội.
1. Sản xuất hàng hóa dựa trên chuyên môn hóa sản xuất và phân công lao
động hợp lý bởi thị trường nhân dụng nên khai thác được những lợi thế
của tự nhiên, khả năng của từng cá nhân, cơ sở, từng địa phương và của
toàn xã hội.
2. Việc khai thác những lợi thế trên tác động trở lại thị trường làm cho
phân công lao động ngày càng hợp lý hơn, khiến cho mỗi người phát huy
hết khả năng đặc thù và sáng kiến, hết mình với chức năng công việc
(được gọi là phân mệnh). Qua chuyên môn hóa sản xuất, mỗi cá nhân nắm
giữ phần vụ tùy khả năng ngày càng cao (phân công), thu nhập vì thế càng
nhiều (phân lợi). Quan hệ giữa các ngành nghề và vùng miền (quốc gia)
hay với khu vực (quốc tế) ngày càng mở rộng ở cả bề mặt lẫn bề sâu.
3. Quy mô sản xuất không còn bị giới hạn bởi nhu cầu và nguồn lực của
mỗi cá nhân, gia đình hay mỗi vùng mà mở rộng ra, dựa trên nhu cầu và
nguồn lực của cả xã hội, tạo điều kiện cho việc ứng dụng khoa học kỹ
thuật vào sản xuất, thúc đẩy sản xuất gia tăng để chuyển từ sản xuất nhỏ
sang sản xuất lớn.
4. Kinh tế sản xuất hàng hóa phát triển sẽ tiến sang khu vực dịch vụ và
kinh tế tri thức, vốn là hai mặt yếu kém của kinh tế chỉ huy.
Điều cần lưu ý là việc đáp ứng nhu cầu và thị hiếu của người tiêu dùng
rất quan trọng. Để tồn tại và có lời, nhà sản xuất phải luôn luôn năng
động, cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa và giảm chi phí sản xuất nhằm nâng
cao năng suất lao động.
Nói khác đi, yếu tố con người trong việc tổ chức sinh hoạt kinh tế và xã
hội là then chốt. Phản hồi của khách hàng trong quá trình phân phối và
tiêu thụ ngày càng mang tính quyết định trong nền kinh tế thị trường.
Kinh tế kế hoạch không có các yếu tố nhân bản này nên không phù hợp với
con người và không giúp xã hội phát triển được.
Khi nói đến kinh tế, người ta nói đến toàn bộ các hoạt động sản xuất,
trao đổi, phân phối, lưu thông, lao động, tài chánh và các hoạt động
liên quan. Nói khác đi, hoạt động kinh tế mang tính nhân vi, do con
người chủ động.
Tự nhiên, còn được gọi là vũ trụ và thế giới tự nhiên, là tất cả những
gì bên ngoài con người, tồn tại dù có sự xuất hiện của con người hay
không.
Người tinh khôn ở giai đoạn xã hội nguyên thủy dù đã đứng thẳng nhưng
vẫn còn ăn lông ở lỗ, chưa có ý thức tư hữu, chưa nhận ra mình khác với
tự nhiên giới. Chung quanh thiên nhiên có cái gì thì con người thụ hưởng
cái đó. Họ săn bắt hái lượm những thứ có sẵn trong thiên nhiên, không
phải là tự cung tự cấp lấy. Đây là lối sống tự nhiên của muôn loài, chưa
phải là hoạt động kinh tế. Chỉ có con người mới có hoạt động kinh tế.
Và chỉ khi con người bắt đầu làm kinh tế, nghĩa là tu chỉnh lại cách
sinh sản của tự nhiên (như hạt trái cây rơi xuống đất, may rủi nẩy mầm
thành cây. Chỉ con người mới chủ động đem hạt đi trồng cây mới) thì lúc
đó mới có đời sống và xã hội con người.
Mác đánh đồng giai đoạn nông nghiệp thô sơ vào thời kỳ săn bắt hái lượm
tồn tại rất lâu dài trước đó là một kết hợp gượng ép, vì ở thời kỳ đầu
nông nghiệp dù còn thô sơ, con người đã biết mình khác với tự nhiên
giới, khác với các động vật khác (làm thế nào vượn người thành người sẽ
được bàn đến ở bài khác, không phải như Mác nghĩ). Do đó, kinh tế và tự
nhiên phủ định lẫn nhau. Không thể có cái gọi là kinh tế tự nhiên tự
cung tự cấp để phóng chiếu xây dựng CNXH với nền kinh tế kế hoạch.
Những người Mác-xít đã sai lầm từ nhận định và những khái niệm căn bản.
Động lực của lịch sử
Những người cộng sản luôn coi đấu tranh giai cấp là động lực làm lăn
bánh xe lịch sử. Họ không nhận ra tính tự động điều chỉnh được hướng dẫn
bởi nhân đạo, vì họ đặt trọng tâm trên tiền đề vật chất, giành giật
quyền lợi vật chất và phương tiện sản xuất chứ không đặt tiền đề triết
học trên con người.
Con người phải là trung tâm trong tất cả các chương trình thiết kế xã hội.
Đành rằng tư bản thời hoang dã là thối nát bất công, chẳng ai muốn thời
kỳ đó tái hiện. Nhưng với tính tự động điều chỉnh của nhân đạo - tức đời
sống người, lối sống người - chứ không phải của thần linh (duy tâm) hay
tự nhiên (duy vật), xã hội tư bản ngày càng hoàn thiện, ngày càng
“người” hơn, hơn hẳn các xã hội tự xưng cộng sản hay đang trên đường
tiến đến CNXH.
Nhân đạo – do con người và cho con người - chính là động lực đẩy bánh xe
lịch sử chuyển động rồi lăn đi, tiến mãi. Đấu tranh giai cấp không phải
là cách giải quyết vấn đề đa nguyên khách quan của con người. Đó là
cách giải quyết của tự nhiên, là tình trạng bệnh thái chứ không phải
thường thái, xẩy ra khi khoa học kỹ thuật và phương tiện sản xuất phát
triển quá nhanh mà xã hội chưa kịp thời điều chỉnh.
Trong thời kỳ tư bản hoang dã, không ai chối cãi tính cách bóc lột của
giới chủ nhân. Nhưng với lối sống người, không chỉ giai tầng công nhân
mà các giai tầng khác đều tham gia đấu tranh, buộc chính quyền phải can
thiệp, bảo vệ thợ thuyền và người dân nói chung bằng các đạo luật về tài
chính, thuế khóa, phúc lợi công cộng để giảm thiểu chênh lệch giầu
nghèo; ưu đãi những nhóm thua kém và thiểu số để giảm thiểu bất công.
Xã hội với nền kinh tế tư bản có thể điều chỉnh được các khiếm khuyết
không phù hợp với nhân bản là nhờ thể chế chính trị dân chủ, một thành
quả tiến hóa khác của loài người. Không có chế độ dân chủ, khả năng tự
điều chỉnh của con người không phát huy được. Kinh tế thị trường tự do
và thể chế chính trị dân chủ tạo điều kiện cho đa nguyên phát triển. Qua
đó, chế độ tư bản mở ra cơ hội cho mọi người mọi giới, cộng sản hay
không cộng sản, tham gia vào tiến trình điều chỉnh những sai trái của
chế độ trong ôn hòa và tôn trọng lẫn nhau.
Ở những chế độ độc tài như cộng sản thì hoàn toàn không thể.