Trần Duy Sơn (Danlambao) - Bài
biết trước tôi đã giải quyết các vấn đề: Người Việt (trong nước) chưa
thoát khỏi tư tưởng phong kiến, chưa thấy rõ bản chất xã hội Việt Nam
hiện tại và chưa nhận diện rõ hình thức xã hội tương lai, chưa trải qua
xã hội dân chủ, nên mức độ quyết liệt đòi hỏi phải thay đổi xã hội, phải
lật đổ CS không cao. Nhìn người dân sợ hãi ai cũng đau lòng, nhưng nó
có đáng để để chúng ta bi quan đến như vậy không? Liệu việc gì sẽ xảy
ra?
Ngày nay internet đã phá vỡ bức tường bưng bít thông tin tuyên truyền
của CS, chúng ta có căn cứ để tin tưởng rằng chắc chắn chế độ CS sẽ sụp
đổ, nhưng kịch bản nào, chưa ai trả lời được. Vì vậy chúng ta cần nghiên
cứu trở lại cốt lõi của vấn đề: người dân trong các chế độ độc tài luôn
sợ hãi, nhưng tại sao CS vẫn sập đổ, cả khối Đông Âu sụp đổ, Liên xô
thành trì của chủ nghĩa CS sụp đổ, phải chăng có những yếu tố khác nào
đó lớn hơn, tác động mạnh hơn, giúp họ vượt qua khỏi ranh giới của sự sợ
hãi đó.
Tại sao Balan là nước sụp đổ đầu tiên mà không phải là Trung quốc. Có
phải nhờ chủ nghĩa Marx- Lenin đã giúp nhân dân Balan lật đổ CS, vậy sao
không giúp nhân dân TQ, Bắc triều tiên? Nếu trả lời được những câu hỏi
này, hy vọng sẽ có nhiều ý tưởng tham khảo cho PTDC hiện nay.
Trước nhất, cần nghiên cứu xã hội Đông Âu và Trung Quốc có những đặc
điểm chung và riêng gì trong thời kỳ CS đang cai trị, hy vọng tìm được
vài thông số nào đó, có thể giúp chúng ta tìm điểm khác biệt giữa 2 xã
hội, và đó có phải là điểm sụp đổ hay không? Sau đó xác định xem tại sao
Đông đức, Tiệp khắc, Liên xô cũng sụp đổ nhưng chậm hơn, nghĩa là có
tính quy luật chung và riêng trên các quốc gia Tây Âu. Đương nhiên,
trước đó không ai tiên đoán được rằng nó sụp đổ, chúng ta đặt vấn đề,
sau khi sự việc đã xảy ra, nên phần nào vẫn mang yếu tố suy diễn, phụ
thuộc lịch sử từng quốc gia, mà lịch sử lại phụ thuộc rất nhiều vào yếu
tố con người, tình huống và giải pháp, cho nên nguyên tắc đó chỉ để tham
khảo, suy luận, hy vọng tự tin, chứ không hẳn là một quy luật bất biến,
rất cần sự nhìn nhận uyển chuyển.
Đặc điểm chung các chế độ Cộng sản
Giống nhau, CS phương Đông hay CS Phương Tây, cấu trúc chính quyền rất
giống nhau. CS Trung quốc, CSVN, bê nguyên cấu trúc chính quyền Liên xô,
Đông Đức để lãnh đạo đất nước mình, cũng đảng nằm trong chính quyền, hệ
thống Đảng - Chính quyền theo dõi từng ý nghĩ người dân, chính sách hộ
khẩu để giới hạn việc đi lại và quản lý đến tận gia đình làng phố. Trước
kia hộ khẩu quản lý tất cả lương thực thực phẩm, dầu lửa, kim chỉ,… sau
này, hộ khẩu không còn liên quan đến nhu yếu phẩm, nhưng vẫn là vòng
kim cô khủng bố trong lòng người dân. Hệ thống phản gián KGB (Sô viết),
Stasi (Đông đức),… mật vụ khắp nơi…. Chính sách "lực lượng quần chúng"
của Mao ở Trung quốc còn ghê gớm hơn. Và cũng chính hệ thống Đảng- chính
quyền này làm cho tất cả các nước XHCN, khác hoàn toàn các nước tư bản
tự do. (Xem thêm: ted.com)
Quản lý ghê gớm như vậy, trong lòng chế độ chỉ có đảng, độc tôn chủ
nghĩa Marx-Lenin, "kinh tế bao tử", căm thù và sợ hãi, không có yếu tố
nào khác, thời đó gần như bế môn tỏa cảng, vậy tại sao chế độ CS Đông Âu
vẫn sập? Nếu chỉ bao nhiêu yếu tố ấy thôi, nếu nó đủ dữ liệu để lật đổ
CS, thì tất cả các chế độ CS đã sập hết rồi, vì chúng rất giống nhau!
Như vậy chắc chắn, yếu tố xã hội hiện trạng, chỉ là một nguyên nhân, và
phải có thêm những nguyên nhân nào đó khác nữa, CS mới bị sụp đổ như
vậy. Nhưng vì chính quyền CS rất giống nhau, cho nên sẽ không có nguyên
nhân nào từ cấu trúc chế độ, (có thể thêm bớt mức độ tàn bạo đôi chút,
nhưng ảnh hưởng không bao nhiêu), do đó yếu tố khác đó phải từ phía
người dân hoặc từ xã hội, hoặc từ quốc tế, bên ngoài cấu trúc chính
quyền. Có thể là môi trường, khí hậu, phong cảnh, lịch sử, ngôn ngữ, tôn
giáo, dòng sông, thần tượng, văn hóa, dịch bệnh, thói quen, v.v.v…
Nhưng tất cả những nguyên nhân đó không có yếu tố hành động, ngay cả
quốc tế cũng chỉ tác động, do đó yếu tố đó phải thuộc lãnh vực ý thức.
(Cũng có thể do phương pháp đấu tranh của các lực lượng đối lập, nhưng
nó cũng phải bắt nguồn từ sức mạnh ý thức kia).
Nghĩa là, phải có những yếu tố khác quyết liệt hơn, đầy sức mạnh hơn,
thôi thúc hơn, hợp tác, bổ sung thêm cho lòng căm thù, đẩy lùi sợ hãi,
giúp họ tự tin bước lên. Đặc biệt, yếu tố khác đó phải nằm trong ý thức
người dân, không nhìn thấy được, và quan trọng hơn, phải có từ trước khi
chủ nghĩa CS xâm nhập, bởi vì chủ nghĩa Marx-Lenin tiêu diệt tất cả
những gì đang tồn tại trong xã hội, không giai cấp, không tôn giáo,
không dân tộc, không nhà nước, nó càn quét tất cả các mối quan hệ xã hội
nào nó nhìn thấy được, cho nên trong lòng chế độ CS chỉ phát triển sự
bạc nhược, căm thù và sợ hãi.
Vì vậy, chúng ta cần thiết phải nghiên cứu thêm, xã hội các nước Đông Âu
và Trung Quốc thời Trung và Cận đại trước khi CS xâm nhập, để xem cái
gì, những yếu tố nào còn tồn tại trong lòng xã hội Đông Âu, mà CS không
thể bẻ gãy được, tạo sức mạnh cho người dân đứng lên.
Khác nhau giữa Châu Âu và Trung Quốc
1/ Chắc ai cũng rõ, xã hội Đông và Tây khác nhau hoàn toàn. Cũng là xã
hội Phong kiến, một vài nước đã là xã hội công nghiệp, nhưng hầu hết
phong kiến Phương Tây là "Cộng hòa" Phong kiến, vua được bầu lên và có
cấu trúc Nghị viện, Hội Nguyên lão…, giai cấp tư sản phân chia quyền lực
với nhà nước, trong khi phong kiến Á đông là tập quyền chuyên chế, các
quân thần đánh nhau, xâm chiếm đất đai tự xưng vua, lên ngôi, vua là
Thiên tử, cùng một nước Trung Hoa, nhưng các triều đại soán ngôi, tranh
chấp thế lực, các dòng họ tiêu diệt lẩn nhau, anh em ruột thịt tranh
giành quyền lực giết nhau...
2/ Lịch sử các nước Châu Âu trải qua những giai đoạn tiến hóa liên tục
từ Hy lạp, La Mã, các bộ tộc tranh giành lãnh địa, chiến tranh, tôn
giáo, rồi hình thành các nước Đông Âu Bắc Âu,…, họ đã trải qua những
giai đoạn sử thi hùng tráng, "đêm trường trung cổ", mỗi nước mỗi khác
nhau. Song, so với nền văn minh Tây phương thì phong kiến Nga phát triển
chậm hơn, lạc hậu hơn, hầu như là kinh tế nông nghiệp, chế độ nông nô
chủ yếu. Đến năm 1859, có 23 triệu nông nô (tổng dân số Nga khi đó là
67,1 triệu người), sống trong những điều kiện thường là tồi tệ, mãi đến
1861 họ mới được giải phóng. Đặc biệt nhà nước Đông Slav đầu tiên (năm
988), đã chấp nhận việc du nhập Ki-tô giáo (Thiên chúa giáo) từ Đế quốc
Đông La Mã cổ đại, khởi đầu sự tổng hòa các nền văn hóa Đông La Mã và
Slav, lập ra văn hóa Nga trong một nghìn năm tiếp theo, cho nên Phong
kiến Nga cũng khác hoàn toàn phong kiến Á đông.
3/ Triết học về con người, thế giới quan và vị trí của con người trong
vũ trụ, những vấn đề sự tồn tại, tự do, kiến thức, giá trị, khác biệt, ý
thức, thời Hy lạp cổ đại đã có Aristotle, Plato, Kant, Hegel…, sau này
Châu Âu phát triển thêm Triết học Kinh viện, chủ nghĩa thực nghiệm, Chủ
nghĩa duy lý, chủ nghĩa duy danh v.v… nó ảnh hưởng đến toàn bộ những xã
hội Đông Âu sau này, trong khi phương Đông chỉ có Khổng Tử, thêm Phật
giáo rất hòa điệu cùng Khổng Tử, cũng có Pháp gia, Âm dương, Mặc gia
nhưng rất nhỏ không ảnh hưởng bao nhiêu.
4/ Kinh tế, Châu Âu phát triển đa dạng nông nghiệp, buôn bán, thương mại
hàng hải, tiểu thủ công nghiệp và chăn nuôi lớn, tuy nhiên chế độ nông
nô, sở hữu nô lệ kéo dài đến thế kỷ 18, nên ý thức về thân phận con
người, giá trị con người, đấu tranh cho con người, họ có ý thức sớm hơn.
Trong khi Đông Nam Á chủ yếu nông nghiệp lúa nước, và xem thường con
người, tôn trọng thần thánh siêu nhiên.
5/ Tôn giáo, Phương Tây đa dạng hơn: Thiên chúa giáo (Ki tô giáo): (chỉ
chung cho Công giáo và Tin lành), Đa thần giáo, Đạo giáo, Phật giáo v.v…
Có thể kết luận, nền tảng xã hội Châu Âu cái gì cũng đa dạng, phong phú
hơn, tính đa nguyên cao hơn, ý tưởng bình đẳng tự do đã có từ lâu, họ
thấy được giá trị đích thực của nó. Hạt mầm bình đẳng tự do luôn luôn
tồn tại trong họ. Lịch sử chinh phục các nước mang đậm tính chất quốc
gia, dân tộc, và tôn giáo. Á đông đơn thuần vì tranh giành quyền lực
chức tước trong gia đình dòng họ, cho nên tư tưởng quốc gia dân tộc của
người Châu Âu cao hơn.
Chế độ CS đồng điệu cùng hệ tư tưởng Khổng giáo nông nghiệp ở TQ, cùng
tư duy cai trị, giải quyết xung đột là bạo lực, cho nên nó dễ dàng bén
rễ ở Á đông, không tạo nhiều xung đột tư tưởng trong xã hội. Trong khi
đó, Châu Âu đã có nền tảng tự do từ trước, quan niệm khác nhau về giải
thoát giữa Thiên chúa giáo và Phật giáo, đã tạo nên hệ tư tưởng xung đột
với chủ nghĩa Marx, mà Marx không thể càn quét nó được, chỉ gây thêm
mâu thuẫn, cho nên đó là một trong những động lực giúp họ đứng dậy trước
tiên.
Nghiên cứu sâu thêm lịch sử Balan, Hungary, 2 nước lật đổ chế độ CS đầu
tiên, chúng ta sẽ thấy vấn đề này cụ thể hơn. Bản thân các nước Đông Âu
thời trước đều là các nước tự do, từng là các đế chế rộng lớn, hùng mạnh
đi chinh phục các nước khác, và không chịu khuất phục. Lịch sử của họ
là niềm tự hào dân tộc. Họ sẽ không bao giờ quên và sống trong miền ký
ức đó. Bất kỳ một dân tộc nào cũng đặt sức mạnh trên nền tảng này.
s
Lịch sử Balan
Thủ đô: Warszawa bên dòng sông Vistula, một đất nước đầy chất sử thi và đẹp thơ mộng.
Tôn giáo: Hầu như thuần chủng người Ba Lan, 95% theo đạo Công giáo Rôma (Ý)
Lịch sử: Khối Thịnh vượng chung Ba Lan - Litva là một trong những
quốc gia rộng lớn và đông dân nhất châu Âu thế kỷ 16 và 17. Nó là đặc
trưng độc nhất so với các quốc gia cùng thời vì hệ thống chính trị kiểm
soát nghiêm ngặt đối với quyền lực của nhà vua. Những sự kiểm soát này
được bảo đảm tồn tại bởi một nghị viện do các quý tộc điều khiển. Đặc
điểm của chế độ này là tiền thân của những khái niệm về chế độ dân chủ,
quân chủ lập hiến, liên bang hiện đại. Nước Cộng hòa Ba Lan, đã coi tự
do là giá trị quan trọng nhất, người Ba Lan thường tự gọi mình là "quốc
gia của những người tự do".
Ba Lan - Litva đã chống lại những địch thủ của mình như Thụy
Điển, Nga và những chư hầu của Đế Quốc Ottoman. Sau đó, nó bắt đầu bành
trướng ra nước ngoài và lâm vào những cuộc chiến tranh liên miên.
Năm 1772, cuộc chia cắt Ba Lan lần thứ nhất, 1793 lần thứ hai, 1795 lần
thứ ba. Cuối cùng Kinh thành Warsawa rơi vào tay Vương quốc Phổ. Ba Lan -
Litva đã hoàn toàn bị xóa sổ khỏi bản đồ châu Âu.
Sau Thế chiến thứ nhất, (1918) tất cả các nước Đồng Minh đều đồng ý việc
khôi phục lại quốc gia Ba Lan và đất nước tái độc lập, trở thành nền
Cộng hòa Ba Lan thứ hai.
Thế chiến thứ hai (1939), Phát xít Đức và Xô viết tấn công Ba Lan,
Warszawa bị chiếm ngày 28/9/1939. Ba Lan bị chia làm hai, thuộc quyền
kiểm soát của Phát xít Đức và Liên Xô. Năm 1945, Chiến tranh thế giới
thứ 2 kết thúc, Ba Lan mất hơn 20% diện tích, nhường phần nhiều lãnh thổ
bên phía Đông cho Liên xô, và Đức cắt một phần đất cho Ba lan, nhưng
lịch sử đa văn hóa của họ, trở thành một đất nước thống nhất chủng tộc.
Năm 1952, Liên xô lập ra một chính phủ cộng sản mới: Cộng hòa Nhân dân Ba Lan. Nền Cộng hòa Ba Lan lần thứ hai kết thúc.
Ngày 24/9/1980, Công đoàn Đoàn Kết được thành lập. Ngày 4/06/1989, Công
Đoàn Đoàn kết đã thắng lợi trong cuộc bầu cử dân chủ vào Nghị viện. Lech
Wałęsa, trở thành tổng thống năm 1990. Nền Cộng hòa Ba Lan thứ ba được
thành lập, Hiến pháp mới ra đời năm 1997. Năm 1999 gia nhập NATO, và năm
2004 tham gia vào Liên minh châu Âu.
Lịch sử Hungary
Thủ đô: Budapest, bên dòng sông Danube
Tôn giáo: Tính đến năm 2011, có 39% Công giáo, 11,6% Thần học Calvin, 11,2% Tin lành, 2% theo các tôn giáo khác
Lịch sử: Vào thế kỉ thứ 9, Arpad, một thủ lĩnh người Magyar
(người Hung) đã thống nhất các bộ lạc Magya, thành lập nên vương quốc
Hungary (996). Với một lực lượng quân đội hùng mạnh, người Hungary đã mở
nhiều cuộc chiến tranh chinh phục và thậm chí đã từng tấn công sang tận
Tây Ban Nha.
Năm 1222, vua András II khởi xướng Bộ luật Vàng (Golden Bull), có thể
coi như bản hiến pháp đầu tiên trên lục địa châu Âu mà sau đó, tất cả
các vua Hungary khi đăng quang phải tuyên thệ. Bộ luật Vàng này hạn chế
bởi quyền hạn của nhà vua và mở rộng quyền lực của giới quý tộc, hợp
pháp hóa quyền bất tuân lệnh cũng như các quyền lợi khác của họ. Sau đó
không lâu, Nghị viện Hungary được thành lập. Nhiều chính sách tài chính
và tiền tệ đã được tiến hành, thúc đẩy nền kinh tế Hungary phát triển,
nhiều đô thị phát triển rực rỡ và mở rộng bờ cõi.
Trong khi đó, Đế chế Ottoman ngày một lớn mạnh và uy hiếp Hungary. Giai
đoạn 1526-1686 Ottoman chiếm đóng Hungary. Khoảng 150 năm sau đó, triều
đình Habsburg mới giành lại toàn bộ quyền kiểm soát.
Sau đó, Đế quốc Áo-Hung ra đời 1867. Thời kỳ này, Vương quốc Hungary đã
có những bước tiến ấn tượng về mặt kinh tế, bước đầu được công nghiệp
hóa mặc dù cơ cấu kinh tế vẫn chủ yếu dựa trên nông nghiệp còn khá lạc
hậu.
Thế chiến thứ nhất, Áo-Hung chiến đấu bên phe Liên minh của Đế chế Đức,
Bulgaria và Đế quốc Ottoman. Những khó khăn về kinh tế, các thất bại
quân sự cũng như sự bất mãn của người dân đã khiến Đế quốc Áo-Hung sụp
đổ hoàn toàn vào năm 1918, trên cơ sở đó hình thành các quốc gia mới là
Áo, Tiệp Khắc và Hungary.
Sau thế chiến thứ 2, quân đội Xô viết đã chiếm đóng hầu hết Hungary và
trở thành một nước cộng sản thân cận với Liên Xô. Cuối thập kỉ 1980,
Hungary đã dẫn đầu phong trào giải tán Hiệp ước Warszawa do Liên xô áp
đặt. Về chính quyền, họ dần chuyển sang một thể chế dân chủ nhiều ứng cử
viên, song đảng cộng sản vẫn không được đem ra bàn cãi, tuy nhiên, các
ứng cử viên độc lập vẫn được bầu lên để phản đối lại đảng.
Ngày 23/10/ 1989, Mátyás Szűrös tuyên bố Cộng hòa Hungary lần thứ III và
trở thành tổng thống lâm thời. Hungary phát triển mối quan hệ gần hơn
với Tây Âu, gia nhập NATO 1999, và là thành viên của Liên minh châu Âu
2004.
Nhận xét
1/ Tại sao Cộng Sản Balan, Hungary sụp đổ đầu tiên? Dễ dàng nhìn thấy 2
nước này không chủ động đi theo CNXH, mà do Liên Xô áp đặt sau Thế chiến
thứ 2. Người dân sẽ nhìn thấy chủ nghĩa CS là xâm lược. Trong ý thức hệ
của người dân Ba lan hay Hungary, có thể do vị trí địa lý, nằm phía
trên Đế quốc La mã cổ đại chỉ cách dãy núi Alpes, sông Danube, cho nên
họ thấm nhuần tư tưởng bình đẳng tự do Hy lạp- La mã sớm hơn. Từ thế kỷ
16-17 họ đã sống trong nhà nước có chế độ Nghị viện, phân quyền giữa Vua
và giới quý tộc, hạt mầm tự do đã có, cho nên người dân ý thức được
quyền tự do căn bản của họ và ít nhất họ hiểu rằng, điểm mốc đầu tiên để
có bình đẳng xã hội là bầu cử.
2/ Quan trọng hơn, lịch sử Balan, Hungary đều lừng lẫy, từng là các đế
chế vững mạnh thế kỷ 16-17, Khối Thịnh vượng chung Balan- Litva, Đế chế
Áo Hung, chinh phạt các nước láng giềng và bảo vệ đất nước mở mang bờ
cõi. Liệu người dân có quên được lịch sử đó không, hay họ luôn muốn phục
hồi lại nó. Chính lịch sử dân tộc mới là sức mạnh lôi kéo, cần phải bảo
vệ, lưu truyền và niềm tự hào của con cháu, và cũng chính lịch sử đã
hình thành nên tính cách những con người đang sống trong môi trường đó.
Không ai muốn mất điều đó. Ngược lại, chế độ CS không thể tiêu diệt được
điều này, dù muốn hay không Karl Marx phải chấp nhận nó. Đó là sợ dây
kết nối toàn bộ con người trong xã hội, mà mỗi người cảm thấy mình có
một chút liên quan và cần bảo vệ nó. Đó là sức mạnh.
3/ Chính vì vậy, người dân Balan và Hungary đấu tranh thắng lợi bằng con
đường bầu cử, có lẽ đó là bản năng đầu tiên mà mọi người dân nhìn thấy.
Chế độ CS đã không tiêu diệt được ý niệm về quyền công dân của họ đã có
từ trước, nó chỉ làm tăng thêm xung đột và tạo cho họ sức mạnh. Chính
mâu thuẫn quyền lực, mâu thuẫn tư tưởng làm cho người ta đấu tranh, chứ
không phải mâu thuẫn giai cấp như Marx nói. Cộng thêm, hạt mầm tự do đã
có từ trước, nền tảng căn nguyên lịch sử, lòng căm thù xâm lược, tất cả
những yếu tố này tác động đến cả dân tộc, giúp họ tự tin, tạo nên sức
mạnh vượt xa sự sợ hãi, và giúp người dân đứng lên, thắng lợi.
Tính dân tộc
Một bộ lạc định cư bên lưu vực một dòng sông, bộ lạc khác tới xâm chiếm,
tranh giành cuộc sống đất đai của họ, cả bộ lạc đứng lên chống lại.
Thiên nhiên, bão táp, lụt lội, đói no dịch bệnh, cả một bộ tộc cùng nhau
chống trả thiên nhiên, từ đó dân tộc tính hình thành. Cả một đất nước
cùng chống trả kẻ thù, cùng đem quân đi chính phạt nước khác để mở rộng
bờ cõi, tìm thêm tài nguyên đất đai phục vụ cho cuộc sống dân tộc mình,
đó là niềm tự hào dân tộc. Lịch sử dân tộc là một sức mạnh, bởi người ta
gắn bó với nhau, hy sinh cho nhau, để cùng nhau bảo vệ cuộc sống của
chính bản thân mình và những người thân thuộc khác. Đó là dân tộc.
Truyền thống lịch sử, văn hóa dân tộc là một sức mạnh.
Dân tộc tính không có nghĩa là tôi hy sinh cho một ai đó, mà tất cả cùng
hy sinh với nhau trong cùng một nhận thức, mục đích chung, hay niềm tin
chung. Không phải ai lợi dụng ai, mà mỗi người cảm thấy mình hoặc gia
đình mình có một phần liên quan tồn tại trong đó, tôi có một chút gắn bó
và hình thành cái tôi từ trong đó. Nó siêu hình, nó nhỏ nhoi, nhưng
mãnh liệt. Nó không cụ thể mà biến thể tùy mỗi quốc gia, có thể là lòng
tự hào về lịch sử xây dựng đất nước, có thể là sống chung trong một bản
sắc văn hóa tôn giáo, có thể là cùng nhau thích quê hương đẹp quá…
Chính những yếu tố này, tự chọn lọc qua tự nhiên, không áp đặt, "nó là
vậy", nó hình thành trong mỗi con người của một quốc gia có những bản
thể vừa chung, vừa riêng, nằm ẩn sâu bên trong tiềm thức, tưởng chừng
như không có, nhưng khi một yếu tố nào đó sắp mất đi, hoặc sẽ mất đi, nó
sẽ trỗi dậy chống lại quyết liệt cái viễn tưởng đó, và làm nên một sức
mạnh.
Đất nước Tiệp Khắc cũng vậy, nó được tách ra từ Đế chế Áo- Hung trước
kia, nên cuộc Cách mạng Nhung tiếp bước CM Balan cũng bằng những cuộc
biểu tình dữ dội của khoảng 500 ngàn người dân, buộc chính quyền phải
chấp nhận thay đổi. Sau này Cộng hòa Litva (Lithuania) cũng vậy, nước
đầu tiên tuyên bố ly khai độc lập khỏi Liên xô, kể từ khi CS Ba lan sụp
đổ.
Tuy nhiên, hai trường hợp khác Liên xô và Đông Đức có vẻ như ngược lại,
CS sụp đổ từ trên xuống, từ trong ra. Liệu 2 nước này có nằm trong quy
luật tính dân tộc hay không? Liên xô sụp đổ nhờ Gorbachev, Đông đức,
người dân tràn qua bức tường Berlin, có vẻ như họ đâu có đấu tranh, đâu
lật đổ chính quyền? Cần thêm một chút lịch sử, để chúng ta thấy rõ tính
dân tộc có phải là sức mạnh hay không, và nó tồn tại như thế nào?
Tóm lượt lịch sử các triều đại Nga
Nước Nga Kiev đã hình thành từ thế kỷ thứ 9, nhưng đến thế kỷ 13 (1230),
nước Nga phải đầu hàng quân xâm lược Mông Cổ, đến năm 1380, các công
tước Nga mới chống lại được sự thống trị của người Mông Cổ, song, phải
chấp nhận triều cống kéo dài đến năm 1480.
Hầu hết các Nga hoàng đều nổi tiếng về tính chuyên chế, quyết đoán,
quyền lực tuyệt đối, và tất cả đều có công trong việc đưa đất nước Nga
trở thành quốc gia lớn nhất thế giới, trải dài trên hai đại lục Á-Âu từ
biển Baltic tới Thái Bình Dương và trở thành Đế quốc Nga một cường quốc
quân sự. (Ivan IV Bạo chúa, Pierre I Đại đế, Ekaterina II Đại đế).
Sau nhiều cuộc kháng cự của nông nô, các Nga hoàng tiếp theo, có khi lại vừa chuyên chế vừa cải cách: Aleksandr I; Aleksandr II
(1855-1881): Chủ động tiến hành giải phóng nông nô. Đề xướng những cải
cách về Đại học, pháp luật, báo chí, quân sự v.v... Những cải cách của
ông đã thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế Nga theo đường lối chủ
nghĩa tư bản, và văn học phát triển với những nhà văn nổi tiếng như
Dostoevsky, Lev Tolstoy, Ivan Turgenev…. Tuy nhiên, ông bị ám sát trước
khi ký quyết định thành lập hai ủy ban lập pháp, gồm những đại biểu được
gián tiếp bầu chọn, cho nên chương trình cải cách dang dở. Song, vì
nhiều cải cách không triệt để, tàn tích của chế độ nông nô vẫn còn, cho
nên ông vẫn giữ ngôi vị "Đấng cầm quyền chuyên chính". Nga hoàng tiếp
theo lại hoàn toàn chuyên chế.
Ngay từ ban đầu người Nga đã bị nô lệ bởi người Mông cổ gần 200 năm,
chắc chắn tính cách của họ sẽ chịu ảnh hưởng bởi người Mông cổ, chuyên
chế, bạo lực, quân đội, chiến tranh, vì vậy các Sa hoàng đều mang tính
cách này. Cũng có thể chính việc nô lệ này làm nước Nga phát triển chậm
hơn các nước Tây Âu. Trong cảm giác thua sút, tự ái so với nền văn minh
phương Tây, nhưng tự hào với những Sa hoàng chuyên chế của mình, người
Nga sẽ có tư duy quốc gia dân tộc rất cao, luôn tìm mọi giải pháp để
phát triển đất nước, nhưng vì không có nền tảng tự do từ ban đầu như
Balan, cho nên họ luôn lưỡng lự giữa 2 giải pháp: phát triển chuyên chế,
hay dân chủ tự do, dù muốn hay không trong bản năng của họ vẫn thuận
theo hướng chuyên chế hơn.
Dù là giai cấp lãnh đạo hay người dân lịch sử đều tác động đến họ. Với
lịch sử như vậy, tính cách lãnh đạo Nga sẽ hình thành từ những thần
tượng của họ và đó là đặc tính, động lực giúp họ giải quyết những tình
huống phức tạp mang tính sống còn. Nói một cách khác, tính cách lãnh đạo
luôn bắt nguồn từ lịch sử, học tập lịch sử, luôn là sức mạnh đối với họ
và ngay cả đối với người dân. Nghĩa là, đặc tính lịch sử tạo ra đặc
tính dân tộc trên mọi công dân. Chủ nghĩa Marx chỉ ra mâu thuẫn giai cấp
giữa lãnh chúa và nông nô, đã hình thành nên CM tháng 10, họ sống cùng
với CS tương đối phù hợp, nhưng rồi kinh tế kiệt quệ, mâu thuẫn cũng sẽ
xảy ra,…. họ lại tiếp tục đấu tranh, tuy nhiên đặc tính dân tộc đó không
mâu thuẫn nhiều với xã hội hiện tại cho nên mức độ đấu tranh không
quyết liệt, song song đó, đặc tính dân tộc cũng tác động vào tầng lớp
lãnh đạo, chính nó cũng giúp người lãnh đạo đưa ra những quyết định sống
còn, mang âm hưởng của cả dân tộc,(nếu họ yêu nước). Cải tổ hay chuyên
chế, quyết đoán hay tập thể, tác động từ Đông Âu, hình thành nên chính
sách "cải tổ", càng ngày càng dứt khoát hơn, đã làm sụp đổ Liên bang Xô
viết. Tại sao Nga sụp đổ chậm hơn đến 2 năm? Bởi vì đặc tính dân tộc tác
động vào lãnh đạo Nga vừa phân vân vừa quyết đoán, cho nên nó cần thời
gian nhiều hơn. Từ các Sa hoàng đến Lê nin, Stalin… Gorbachev, Purtin
đều có tính quyết đoán như nhau.
Đặc tính dân tộc có tính di truyền.
Nghiên cứu thêm lịch sử Đức, cũng có yếu tố này. Người German hết
mực can trường, mãnh liệt. Nguồn gốc nước Đức bắt nguồn từ nước Phổ,
không có nhiều tài nguyên, đất nước khô cằn, không có nền công nghiệp
lớn, nhưng chính sách của các vua Friedrich là ngân sách cả nước đổ dồn
cho quân đội, kỷ luật một cách tàn bạo, rèn luyện chu đáo, chính sách
ngoại giao mềm dẻo, sẵn sàng liên minh với bất kỳ thế lực nào... để phát
triển. Sau này, (1866-1871), khi Thủ tướng Bismarck lên nắm quyền, cũng
vậy: Những vấn đề trọng đại hiện giờ sẽ không được giải quyết bằng lá phiếu theo đa số, mà qua cách thức sắt máu.
Kết quả là Nhà nước Đức- Phổ đã chiến thắng Đế quốc Áo, đập tan
Napoléon III, và Pháp phải chịu thất bại nhục nhã. Từ đó hình thành nên
Đế chế Đức: quốc gia hàng đầu của châu Âu về quân sự, kinh tế, và khoa
học kỹ thuật, nhưng vẫn luôn thích sử dụng quân đội, khinh thường dân
chủ, tự do cá nhân, và cuối cùng Hitler đã tạo nên Chiến tranh thế giới
thứ 2, 1945. (Có giai đoạn cộng hòa 1918-1933, nhưng đó là cộng hòa lũng
đoạn)
Bức tường Berlin sụp đổ: Ngày 2/5/1989 Hungary mở cửa biên
giới với Áo. Các cuộc biểu tình tuần hành rộng lớn nổ ra. Người dân "bỏ
trốn Cộng hòa" liên tục, đi vòng qua Hungary, để sang các nước tự do.
Ngày 18/10/1989, các thành viên trong Bộ chính trị buộc Erich Honecker,
Tổng bí thư Đảng xã hội chủ nghĩa Thống nhất Đức từ chức, và ít ngày sau
họ cũng nối gót ông. Bức tường Berlin được mở cửa vào ngày 9/11 do sự
hiểu lầm thông tin của Đài truyền hình và báo chí trung ương. Chính
quyền Đông Đức sụp đổ.
Phải chăng, người Đức giỏi KHKT, tri thức, với đặc tính can trường,
trách nhiệm, kỷ luật, nhưng lịch sử đã dạy cho họ bài học Thế chiến thứ
2, Hitler trở thành tội ác chiến tranh, giờ đây Bộ Chính Trị Đông Đức
không muốn trở thành tội ác chống lại nhân dân. Vì vậy họ đã chọn giải
pháp từ chức khi tình huống sống còn của đất nước. Phải chăng đặc tính
dân tộc là sức mạnh cho họ trong hành động trên?
Cả 2 trường hợp Liên Xô và Đông đức, ta thấy đặc tính dân tộc của Đức
cao hơn nhiều so với Marx, cho nên chủ nghĩa CS không thể càn quét nó
được, vì vậy nó đứng lên trước Liên xô, khi có điều kiện tác động.
Tóm lại: Mỗi quốc gia có một đặc tính dân tộc, nó có tính di truyền, và sẽ thức tỉnh khi đất nước chạm ngưỡng cửa sống còn.
Tại sao đặc tính dân tộc lại là một sức mạnh? Đơn giản, bởi vì nó tác
động đến cả dân tộc. Tuy nhiên, đặc tính dân tộc không phải là sức mạnh
vô biên, nó phụ thuộc vào lịch sử, mạnh như thế nào, phụ thuộc vào bản
chất lịch sử trước đó, và hệ tư tưởng mà nó tiếp nhận để sống cùng trong
tương lai.
4/ Tác động của phong trào dân chủ
(Còn tiếp)
Sài Gòn 25/4/2016