21/4/16

Thông Báo về Cuộc Hội Thảo "Thượng Đỉnh Chiến Tranh Việt Nam" (Vietnam War Summit)

Trân trọng thỉnh cầu phổ biến và chuyển đạt tối đa đến các tham dự viên  cuộc hội luận sắp đến về chiến tranh Việt Nam tại Viện Đại Học Texas, thư đính kèm của tôi với tư cách của một nhân chứng trực tiếp và một phần nào hữu trách trong suốt cuộc chiến Việt Nam.
Cuộc chiến tranh Việt Nam do Cộng Sản gây nên đã kéo dài 30 năm trải qua nhiều lần CS phản bội các nổ lực quốc tế và Việt Nam Cộng Hòa nhằm tái lập hòa bình qua hai Hiệp Định Genève 1954 và Hiệp Định Paris năm 1973.
Bức thư này được viết bằng Anh và Pháp ngữ  cho các tham dự viên cuộc hội luận đồng thời cho dư luận Tây phương , đặc biệt các thành phần «  phản chiến » tả khuynh mà ảnh hưởng còn di lụy đến bây giờ, xuyên tạc lịch sử một cách trắng trợn, nhằm binh vực bằng sự dối trá trơ trẻn, những tín đồ tàn bạo của chủ nghĩa cộng sản ở Việt Nam và Đông Dương nói chung, đồng thời tạo dư luận sai lầm về chính nghĩa cao cả của cuộc chiến đấu hào hùng bảo vệ tự do của Việt Nam Cộng Hòa.
Bản văn Việt ngử sẽ được phổ biến hôm sau.
 Paris, 22.4.2016
Phong Trào Dân Tộc Tự Quyết Việt Nam
LS Lê Trọng Quát
 



THÔNG BÁO
Về “Vietnam War Summit”
(Hội Thảo Thượng Đỉnh Chiến Tranh Việt Nam)
tại Thư Viện LBJ, Austin, Texas
Kính thưa:
-       Quý vị Lãnh Đạo các Tôn Giáo, Cộng Đồng, Đoàn Thể,
-       Quý Thân Hào Nhân Sĩ, Truyền Thông Báo Chí và
-       Toàn thể Đồng bào tại Hoa Kỳ, hải ngoại.
Ngày 5 tháng 4, 2016, Thư Viện Lyndon Baines Johnson (LBJ) ở Austin, Texas thông cáo sẽ tổ chức một cuộc hội thảo về chiến tranh Việt Nam được mệnh danh “Vietnam War Summit” (tạm dịch “hội thảo thượng đỉnh chiến tranh Việt Nam”) từ 26 đến 28 tháng 4, 2016, được Đại Học University of Texas bảo trợ nhằm đưa ra một “cái nhìn thật sự và rõ ràng về chiến tranh Việt Nam”.
Trong buổi hội thảo còn có sự hiện diện của Ngoại Trưởng Hoa Kỳ John Kerry với tư cách diễn giả chính. Ông sẽ trình bày sự quan hệ giữa chính phủ Hoa Kỳ và CS Việt Nam, về sự thay đổi kinh tế và xã hội của Việt Nam so với thời kỳ Ông phục vụ trong Hải quân Hoa Kỳ. Buổi hội thảo được tổ chức nhân dịp ngày 30-4 sắp tới và 1 tháng trước khi TT Obama đến thăm Việt Nam.
Ngoài ra, còn có các diễn giả khác như TS Henry Kissinger, cựu Ngoại Trưởng Hoa Kỳ thời TT Nixon; Ô. Phạm Quang Vinh, đương kim đại sứ CSVN tại Hoa Kỳ và Ô. Ken Burns, một nhà làm phim sẽ thực hiện bộ phim tài liệu gồm 10 phần về cuộc chiến tại Việt Nam.
Theo Ông giám đốc thư viện Mark K. Updegrove, mục đích buổi hội thảo nhằm vinh danh các nam nữ chiến binh Hoa Kỳ đã chiến đấu anh dũng tại Việt Nam đồng thời nghiên cứu sự phức tạp của cuộc chiến, để “soi ánh sáng vào cuộc chiến tranh Việt Nam, bài học và di sản của nó” ("Our goal is to shed definitive light on the Vietnam War, its lessons and legacy.")
Đặc biệt trong danh sách những nhân vật tham dự, còn có một số cựu chiến binh Mỹ tại Việt Nam, một số nhân vật  phản chiến nổi tiếng như Tom Hayden (chồng cũ của Jane Fonda cũng là một người phản chiến), ông Peter Arnett, một ký giả phản chiến.
Điều đáng ngạc nhiện là một cuộc hội thảo quan trọng về cuộc chiến tại Việt Nam lại không có một người Việt nào được mời tham dự để góp tiếng nói về vận mệnh của đất nước mình, ngoại trừ Dân Biểu Texas Hubert Vo, một người Việt Nam còn trẻ không trực tiếp tham gia cuộc chiến, như thế, đây có thể là một môi trường thông tin một chiều, thiếu trung thực, để các thành phần phản chiến và thân cộng có cơ hội tuyên truyền cho đảng CSVN hiện nay.
Để đáp ứng sự kiện này, Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia Liên Bang Hoa Kỳ đề nghị:
1-       Người Việt tỵ nạn chúng ta cần có tiếng nói trong dịp này dưới nhiều hình thức, nêu rõ lập trường, lý do và những nguyên nhân đưa đến cuộc chiến tại Việt Nam. Ai đã gây ra cuộc chiến kéo dài 30 năm (1945-1975), làm thiệt mạng gần 4 triệu người dân Việt Nam, để cuối cùng một chế độ cộng sản vô thần tàn bạo ngự trị đất nước Việt Nam trên 40 năm qua.
2-       Chúng ta không chống cuộc hội thảo nhằm tìm hiểu về chiến tranh Việt Nam, mà chỉ chống luận điệu một chiều, xuyên tạc của các tên phản chiến, thân cộng và những kẻ bán đứng miền Nam Việt Nam, và đại sứ CSVN tại Hoa kỳ đại diện cho một chính quyền không do dân bầu, hiện đang tiếp tục đàn áp và khống chế dân tộc Việt Nam bằng một chế độ độc tài toàn trị, đưa đất nước đến bờ vực thẳm.
3-       Chúng ta sẽ phải lên tiếng trước công luận đòi hỏi nhân quyền, tự do dân chủ cho Việt Nam, đòi thả tất cả các tù nhân chính trị hiện đang bị cộng sản giam cầm.
Để đạt muc tiêu này, chúng tôi đề nghị:
1-    Cùng ký vào bản lên tiếng của cộng đồng Việt Nam tại Hoa Kỳ và trên thế giới dưới hình thức tuyên cáo đăng  trên website, phổ biến trên báo chí và gửi cho ban tổ chức và Ngoại Trưởng John Kerry.
2-    Tổ chức và tham gia biểu tình trước thư viện LBJ trong những ngày có hội thảo.
- Đề nghị cộng đồng tại Austin đứng ra tổ chức và làm phối trí viên.
- Các cộng đồng Việt Nam tại Texas, các tiểu bang lân cận cùng hợp tác và tham dự.
- Đồng bào Việt Nam khắp nơi hỗ trợ tinh thần lẫn vật chất.
Cộng Đồng Người Viêt Quốc Gia Liên Bang Hoa Kỳ sẵn sàng hợp tác cùng tất cả cộng đồng, đoàn thể, tổ chức, nhân sĩ và đồng bào tại Hoa Kỳ và hải ngoại nhằm phản bác bất cứ sự kiện phản chiến và thân cộng nào.
Trân trọng.
BS Võ Đình Hữu, Chủ Tịch Hội Đồng Đại Biểu, 714-928-3038
BS Đỗ Văn Hội, Chủ Tịch Hội Đồng Chấp Hành , 407-234-3596
Ông Lưu Văn Tươi, Chủ Tịch Hội Đồng Gáim Sát, 407-491-9299
Đính kèm chi tiết về cuộc hội thảo.

The Movement for the Self-Determination of the Vietnamese People
33 Rue du Panorama, 95800 Cergy – France – ltqvina@gmail.com


To : Ladies and Gentlemen,
Participating in Colloquium on VIETNAM  WAR
TEXAS UNIVERSITY

Subject: The Vietnam war

Twice, the iron curtain has fallen upon Vietnam.
The first time, in August 1945, the Vietnamese communists forced Emperor Bao Dai to abdicate, though he just recovered total independence for his country, Vietnam, after the surrender of the invading Japanese forces.  The first Vietnam War, often called the Indochina War because it had extended to Cambodia and Laos, was ended by the Geneva Agreements of July 20th 1954, which temporarily divided Vietnam into two parts, the North and the South, separated by the demarcation line situated at the 17th parallel.  Instead of establishing a democratic regime, allowing the population to freely participate in a free universal suffrage election two years later, with the objective of unifying the whole country as dictated by the Geneva Agreements, the North Vietnamese Communists built a Stalinist type totalitarian regime, sending North Vietnam into bloodshed with over 100,000 casualties, victims of a barbaric agricultural reform as well as the longest in history (1953-1956).
Terrified, about one million North Vietnamese grabbed the first opportunity given by the Geneva Agreements to migrate to South Vietnam, the largest exodus in Vietnam’s history.  But the communist leadership, still hungry for power, actively prepared the Second Vietnam War, with the final objective of invading South Vietnam and to expand into Laos and Cambodia.  Hence, the first peace treaty was promptly violated, pulling the Vietnamese people into their second tragedy, one that would last 2 decades: 1956-1975!
The second time, in April 30th 1975, the North Vietnamese Communists achieved their invasion of the Republic of Vietnam, trampling the Paris Agreements of January 27th 1973 which dictated the ending of hostilities and the establishment of peace in Vietnam, as well as the final Act of March 2nd 1973, through which, they gave themselves the designation “Government of the Democratic Republic of Vietnam”, with 11 other governments- France, the United States of America, United Kingdom, Soviet Union, China, Canada, Poland, South Vietnam, Indonesia, Hungary and the Liberation Front of South Vietnam ( created by the North Vietnamese communists and dissolved by them one year after their invasion of South Vietnam)- and in the presence of the General Secretary of the Organization of the United Nations, to “guaranty the end of the war, to maintain peace in Vietnam, the respect of the national fundamental rights of the Vietnamese people and the right of the South Vietnamese people to self-determination and to contribute to peace in Indochina and to guaranty…”
Since then, for almost the past 40 years, the Vietnamese people has been mourning that tragic date of April 30 1975, when their country has become a gigantic “gulag”, similar to those in the former Soviet Union of the 50’s and 60’s.  After the “liberation” of South Vietnam, nearly 500,000 South Vietnamese, government workers, military personnel, doctors, journalists, writers, priests, of the “former” regime were incarcerated in hundreds of concentration camps, deceivingly called “re-education” centers, where thousands have lost their lives due to exhaustion, abuse and torture.




  The average forced labor detention time was from 8 to 10 years.  However, Mr. Nguyen Huu Cau, just set the record by being released after spending 37 years in prison! In comparison, the injustices against Nelson Mandela seemed almost lenient !
Outside of the camps, Vietnamese citizens can get beaten, arrested, incarcerated for any reason, just because they had expressed discontent with any politics or rulings of the government or the communist party, or if they protested against unfair government land seizing. 
Hundreds of cases of flagrant human and civil rights violations have been denounced by victims to various human rights organizations, to democratic governments, to the United Nations and to the Council of Human Rights- where ironically, the Socialist Republic of Vietnam just obtained a seat!  The recent conditional release of a few citizens, illegally condemned, after a few years of prison, was granted in an effort to calm the world’s opinion while repression has hardened across the country.  Who can imagine that Vietnamese patriots who protested the Chinese expansion over Vietnam- military occupation of the Paracels and part of the Spratleys islands, which legally belong to Vietnam for centuries- were severely penalized by the authorities?
Enough is enough!  Such a state terrorism must end. Throughout Vietnam, from north to south, farmers and city dwellers, blue collar and white collar workers, college students and old reformed communist cadres, disappointed retired generals and officers of the Popular Vietnamese Army, Catholic priests, pastors and Buddhist monks, have joined voice to demand liberty and democracy.  The entire Vietnamese people has never been more ready to fight to regain their sacred right to self-determination, from the hands of the communist leaders, and this at all costs.
The Vietnamese people is well aware that only by shedding their blood, their liberty will be returned.  But they also know that the world’s greatest powers, as mentioned above, must implement their commitment at the Paris Agreements, to “ guaranty the respect of fundamental national rights of the Vietnamese people, independence, sovereignty, unity and integrity of Vietnamese territory, as well as the right of the South Vietnamese people to self-determination…”
A commitment taken at an international treaty, which is still in effect, with no statute of limitation, must be implemented.  A commitment that is dear to the Vietnamese living in Vietnam as well as to those living abroad, who have been fiercely denouncing the flagrant violations of the Paris Agreements by the North Vietnamese communists.
So there is no cause of lapsing.
An international treaty must be respected and implemented in order to uphold order and justice.  It is a basic rule of international law without which, unrest and chaos would inevitably descend on us, where the strong would oppress the weak, among men and among nations.

Paris,  20, 04, 2016
The Movement for the Self-Determination of the Vietnamese People
The President,
,
Le Trong Quat, Esq
Former Premier Minister of State, Republic of Vietnam
Chairman of the Interior and Defense Committees, National Assembly
Justice at the Constitutional Court (RVN)
 

Mouvement d’Autodétermination du Peuple Vietnamien
33 rue du Panorama, 95800 Cergy – France – ltqvina@gmail.com  Tél. 01. 3422 . 1861


Mesdames, Messieurs,
Participants au colloque sur la guerre du Viet Nam
Texas  USA

Par deux fois le rideau de fer est tombé sur le Viet Nam.
La première fois, en août 1945, les communistes vietnamiens ont forcé l’empereur BAO DAI à abdiquer, lui qui venait de recouvrer l’indépendance totale de son pays, le Viet Nam, après la capitulation des forces d’occupation japonaises. La première guerre du Viet Nam, souvent appelée guerre Indochine parce qu’elle s’était étendue au Cambodge et au Lao, s’est terminée par les Accords de Genève du 20 juillet 1954 qui partagent provisoirement le Viet Nam en deux parties, le Nord et le Sud, la ligne de démarcation se trouvant au 17ème parallèle. Au lieu d’instaurer un régime démocratique pour que la population soit en mesure de participer librement deux ans après au suffrage universel dans tout le pays, en vue de sa réunification conformément aux Accords, les communistes Nord-vietnamiens ont érigé un système totalitaire de type stalinien, noyant le Nord Viet Nam dans une mare de sang avec plus de cent mille victimes de la réforme agraire la plus barbare et la plus longue de l’histoire (1953-1956).
Terrifiés, près d’un million de Nord-Vietnamiens ont saisi la première occasion offerte par les Accords de Genève pour regagner le Sud Viet Nam, constituant l’exode le plus important jamais survenu dans ce pays. Mais les dirigeants communistes, n’ayant pas assouvi leur soif de pouvoir, préparent activement la deuxième guerre avec objectif final, la conquête du Sud et l’expansion vers le Laos et le Cambodge. Ainsi, le premier traité de paix fut-il rapidement violé, entrainant le peuple vietnamien dans sa deuxième tragédie qui allait durer encore deux décennies : 1956-1975 !
La deuxième fois, le 30 avril 1975, ils ont achevé leur invasion de la République du Viet Nam, foulant aux pieds l’Accord de Paris du 27 janvier 1973 « sur la cessation des hostilités et le rétablissement de la paix au Viet Nam » ainsi que l’Acte final du 2 mars 1973, par lesquels ils s’étaient engagés sous la désignation « gouvernement de la République démocratique du Viet Nam » avec onze autres gouvernements – ceux de la France, des Etats-Unis d’Amérique, du Royaume-Uni, de l’URSS, de la Chine, du Canada, de la Pologne, de la République du Viet Nam (Sud Viet Nam), de l’Indonésie, de la Hongrie et du Front de libération du Sud Viet Nam (crée par les communistes Nord-vietnamiens et dissout par eux-mêmes un an après leur invasion du Sud Viet Nam) – et « en présence du Secrétaire général de l’Organisation des Nations Unies », à « garantir la cessation de la guerre, le maintien de la paix au Viet Nam, le respect des droits nationaux fondamentaux du peuple vietnamien et le droit de la population sud-vietnamienne à l’autodétermination et à contribuer à la paix en Indochine et la garantir….. ».
Ainsi, depuis près de 40 ans, le peuple vietnamien a-t-il commémoré cette date tragique du 30 avril 1975, à partir de laquelle son pays est devenu un immense goulag rappelant celui de l’URSS des années cinquante et soixante du siècle dernier. Après la « libération » du Sud Viet Nam, près de 500 000 Sud-Vietnamiens, fonctionnaires, militaires, médecins, journalistes, écrivains, prêtres, de « l’ancien régime » furent incarcérés dans une centaine de camps de concentration faussement appelés centres de « rééducation » où des milliers ont perdu leur vie, épuisés, maltraités ou torturés. La durée moyenne de détention, toujours à travaux forcés, était de huit à dix ans, mais le champion en durée d’emprisonnement, Mr Nguyên Huu Câu n’était libéré qu’après trente-sept ans de prison ! A ses côtés, l’illustre Mandela aurait certainement pâli ! A l’extérieur des camps, en même temps, tout citoyen peut être bastonné, arrêté, incarcéré pour n’importe quelle raison, juste pour avoir exprimé un avis défavorable à une politique quelconque du gouvernement, à fortiori du parti communiste ou simplement protesté contre une expropriation de terrain non suivie d’une juste indemnisation.
Des centaines de ces cas typiques marquant de flagrantes violations des droits de l’homme et des droits civiques fondamentaux avaient été dénoncées par les victimes, par différentes organisations de défense des droits de l’homme, aux gouvernements démocratiques du monde, à l’ONU, et  dernièrement présentées  au Conseil des Droits de l’homme où, au comble de l’ironie, la République Socialiste du Viet Nam venait de s’installer officiellement et confortablement à son siège ! La récente libération de quelques citoyens illégalement condamnés après des années de détention n’a eu lieu que pour tenter de calmer l’opinion internationale alors que la répression durcit partout dans le pays. Qui peut croire que les patriotes vietnamiens qui se sont manifestés contre l’expansionnisme chinois visant leur pays – occupation militaire chinoise des presqu’îles Paracels et d’une partie des Spratleys appartenant légalement au Viet Nam depuis des siècles – furent réprimés sévèrement par le pouvoir vietnamien en place ?

Trop, c’est trop ! Un tel terrorisme d’Etat doit être terminé. Un peu partout, du nord au sud du pays, paysans et citadins, ouvriers et intellectuels, jeunes étudiants et vieux cadres communistes repentis, généraux et officiers retraités et déçus de l’Armée Populaire Vietnamienne, prêtres catholiques, pasteurs et moines bouddhistes, ont conjugué leurs voix et réclamé liberté et démocratie. Le peuple vietnamien tout entier est plus que jamais décidé à combattre pour reprendre son droit sacré à l’autodétermination, des mains des dirigeants communistes et résolument prêt à accepter tous les sacrifices. Il sait pertinemment que seulement de son sang versé, la liberté lui sera rendue. Mais il n’ignore jamais que les puissants de ce monde, ci-dessus cités, lui doivent de mettre en exécution leur engagement dans les Accords de Paris, à « garantir le respect des droits nationaux fondamentaux du peuple vietnamien à savoir l’indépendance, la souveraineté, l’unité et l’intégrité du territoriale du Viet Nam, ainsi que le droit de la population sud-vietnamienne à l’autodétermination….. ». Engagement que, sans cesse, il est besoin de rappeler parce qu’il s’agit ici d’un traité international qui ne souffre d’aucune prescription par le temps, qu’en l’occurrence il n’y a absolument pas de cause susceptible d’invoquer la caducité, compte tenu de la résistance opiniâtre contre le pouvoir de l’envahisseur communiste depuis des décennies, venant des Vietnamiens résidant à l’intérieur et à l’extérieur de leur pays, dénonçant ouvertement les violations flagrantes des Accords de Paris par les communistes Nord-Vietnamiens.
En effet, tout traité international doit être respecté, règle de base du droit international sans observation de laquelle, notre monde serait voué inéluctablement au désordre, à son instabilité chronique, à la raison du plus fort au détriment des plus faibles, pour les hommes comme pour les nations.

Paris, le 20.04.2016
Pour le Mouvement d’Autodétermination du Peuple Vietnamien
Le Président,
Me LE TRONG QUAT
Anc. Ministre d’Etat, République du Viet Nam,
Président des Commissions de l’Intérieur et de la Défense
Assemblée Nationale, RVN,
Conseiller à la Cour Constitutionnelle, RVN.