Poitiers, Pháp, 28 tháng Tám, 1980
Tháng Tám vừa qua vào cao điểm mùa gió mùa ở Biển Đông, một chiếc thuyền
bị rò rỉ nước trôi giạt vào bờ biển Indonesia. 64 người tỵ nạn Việt Nam
cả người ướt đẫm, đói, và sợ hãi cố tiến vào bờ.
Sự kiện này lẽ ra hầu như bị lãng quên trong toàn bộ lịch sử đau khổ mà
thuyền nhân Việt Nam chịu đựng, ngoại trừ một điều: Trong 64 người sống
sót ấy có Trương Như Tảng, nhà cách mạng Việt Nam cao cấp nhất đào thoát
sang Phương Tây.
Trong suốt sáu tháng kế tiếp ở trại tỵ nạn trên đảo Anambas, lý lịch của
Tảng là người thành lập Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam
và là bộ trưởng tư pháp trong Chính phủ Cách mạng Lâm thời vẫn còn là
một bí mật mà chỉ vợ ông biết. Bí mật ấy vẫn còn giấu kín ngay cả sau
khi Tảng được phép định cư ở Pháp, nơi một ủy ban người Việt lo nhà cho
ông ở tại Poitiers và việc làm công nhân cho ông ở nhà máy lốp xe
Michelin.
Tuy nhiên, vào tháng Sáu, Tảng đã trút bỏ vỏ bọc người tỵ nạn bình thường và thông báo lý lịch ông tại cuộc họp báo Paris.
“Là người đã dành trọn cuộc đời trưởng thành của mình cho sự nghiệp quốc gia Việt Nam,” ông tuyên bố, “tôi phải nói cho quý vị biết rằng công cuộc giải phóng ở Việt Nam đã bị phản bội.”
Để trốn thoát Tảng đã phải trải qua bao giông tố ngoài biển khơi, chạm
trán với đội tuần tra an ninh Việt Nam, và thậm chí cả cuộc tấn công của
hải tặc. Trải qua tất cả những khó khăn này, ông vẫn mơ về ngày ông có
thể công khai nói thật ra những điều ông nghĩ ở Paris, và kêu gọi tất cả
những người Việt Nam trong và ngoài nước hãy cùng nhau đấu tranh chống
lại chế độ mới.
Cách đây vài tuần, trong cuộc phỏng vấn chứa đựng nhiều thông tin và chi
tiết nhất từ trước đến nay, Trương Như Tảng cho phóng viên này biết sự
đấu tranh có tổ chức đang bắt đầu thành hình ở Việt Nam. Đó không chỉ là
kháng chiến rải rác của các lực lượng cũ, cánh hữu, thân Mỹ mà đã và
đang tiếp tục từ năm 1975. Quan trọng hơn là, Tảng nói, nhiều người
trước kia thuộc về “lực lượng thứ ba” và ngay cả những đảng viên Đảng
Cộng sản Việt Nam bất đồng chính kiến đang tự tổ chức thành những ổ
kháng chiến.
Thừa nhận Lê Duẩn (tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam) và những người
khác trong giới lãnh đạo Hà Nội vẫn kiểm soát chặt chẽ đất nước, Tảng
tóm tắt một số nhân tố đang phá hoại sự ổn định của chính quyền của họ.
Ông nhắc đến sự thiếu hụt lương thực nghiêm trọng, đàn áp chính trị, mà
ông nói “thậm chí còn tệ hơn thời chế độ Thiệu ở Sài Gòn,” thương
vong nặng nề trên chiến trường ở Cambodia, Liên Xô không cung cấp viện
trợ kinh tế đầy đủ như đã hứa, và sự rạn nứt trong giới lãnh đạo cao cấp
của Đảng Cộng sản Việt Nam, đặc biệt về chính sách đối ngoại thân Liên
Xô và lập trường thù địch đối với Trung Quốc của Việt Nam.
“Nhân dân Việt Nam không muốn đánh Trung Quốc,” Tảng khẳng định. “Cho
dù bao nhiều lần đi nữa Lê Duẩn nói với nhân dân rằng Trung Quốc chịu
trách nhiệm về những vấn đề kinh tế của đất nước, nhưng nhân dân thấy
rất rõ ràng Hà Nội phải chịu trách nhiệm chuyện ấy.”
Trong ánh sáng lờ mờ trong căn nhà hầu như chẳng bày biện gì ở Poitiers,
ông có vẻ như chẳng màng đến cái giá riêng tư ông phải trả để được nói
thẳng công khai. Khác với đa số những người tỵ nạn Việt Nam trốn thoát
khỏi cảnh đói kém và đàn áp sắc tộc để có cuộc sống tốt hơn ở Phương
Tây, ông đã đổi biệt thự sang trọng có người giúp việc, xe hơi riêng,
khẩu phần thịt và đường cao hơn bình thường để lấy sự tồn tại nghèo nàn
và bấp bênh của một công nhân di dân ở Pháp.
“Tôi không thể im lặng mãi,” ông nói về lý do ông trốn thoát. “Tôi không thể nào đứng nhìn một cách thụ động để thấy mọi thứ mà nhân dân tôi đã đấu tranh suốt 20 năm trời bị hủy diệt.”
Cách đây 20 năm Trương Như Tảng đã quay lưng lại với nền giáo dục từ Sài
Gòn giàu có và học vấn đại học từ Paris của mình để gia nhập cách mạng
Việt Nam. Ông là một trong 60 người Miền Nam tham gia thành lập Mặt trận
Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam vào năm 1960.
Chẳng bao lâu sau đó bị tù vì những hoạt động cách mạng, ông thoát khỏi
có lẽ cái chết dưới tay nhà cầm quyền Sài Gòn khi ông được trao đổi lấy
ba tù binh Mỹ vào năm 1968. Rồi ông biến mất vào những căn cứ bưng biền
của Việt Cộng.
Khi chính phủ cách mạnh lâm thời được thành lập vào năm sau, Tảng được
bổ nhiệm làm bộ trưởng tư pháp. Mặc dù các đội tìm-và-diệt của Mỹ thường
đến gần công sự trong rừng của Tảng trong vòng 100 mét, nhưng trong
suốt thời gian chiến tranh ông tập trung thảo ra những kế hoạch để chuẩn
bị cho bộ tư pháp hoạt động ở Miền Nam Việt Nam mới sau chiến thắng của
Chính phủ Cách mạng Lâm thời.
Chiến thắng đến, nhưng Tảng không bao giờ có cơ hội thực hiện những kế
hoạch của mình. Khi duyệt binh từ lễ đài trong buổi lễ chào mừng chiến
thắng ở thành phố Hồ Chí Minh (Sài Gòn cũ) vào tháng Năm 1975, ông bị cú
sốc lớn đầu tiên: Lá cờ của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam và
Chính phủ Lâm thời không nhìn thấy đâu cả. Khi ông hỏi tướng Văn Tiến
Dũng (bộ trưởng quốc phòng Việt Nam hiện nay) về lý do tại sao chỉ có cờ
Miền Bắc Việt Nam tung bay, tướng này đã trả lời ông một cách khinh
thường, “Quân đội đã được thống nhất.”
Giai đoạn kế tiếp là giai đoạn vỡ mộng đối với Tảng. Ông cố gắng tập hợp
ban chuyên gia pháp lý cho bộ tư pháp, nhưng những ai mà các cán bộ
cộng sản không thích đều lặng lẽ bị đưa đến các trại “cải tạo”. Những
người dân thường đòi biết ông, với tư cách bộ trưởng tư pháp, làm được
gì cho bạn bè và người thân của họ bị tịch thu tài sản hay cho những
người bị buộc phải dọn lên các vùng kinh tế mới.
“Tôi chứng kiến một chế độ độc tài phát-xít đang được xây dựng lên,” Tảng buồn bã nói, “và
mặc dù tôi đã tranh cãi, nhưng tôi chẳng thể làm được gì. Các mệnh lệnh
đều xuất phát từ Hà Nội, và quân đội và công an mật luôn luôn sẵn sàng
ủng hộ họ.”
Vào năm 1976 Việt Nam được thống nhất theo cách ông mô tả là “bạo lực và trả thù.”
Hồ Chí Minh thường tuyên bố khi thống nhất đến quá trình thống nhất nên
chậm và theo từng bước một. Nhưng vào năm 1976, vấn đề thống nhất bị áp
đặt lên Miền Nam, và họ không có cơ hội phản đối điều ấy.
“Lê Duẩn ra sức củng cố quyền lực này rất nhanh chóng,” Tảng tin.“Ông ta không thể nào để Miền Nam phát triển thành nơi cuối cùng phản đối cương quyết các chính sách của ông.”
Trong số 24 thành viên của Chính phủ Lâm thời vào thời điểm hiệp định
hòa bình Paris được ký vào năm 1973, chỉ có ba thành viên được trao cho
những chức vụ trong chính phủ thống nhất sau năm 1976. Tảng nói ngoại
trừ một vài người khác là các viên chức quân đội, còn tất cả những người
còn lại của Chính phủ Lâm thời cũ đều sống trong cảnh hoàn toàn ẩn dật
và trong lòng họ rất ghê tởm những gì đã diễn ra.
Nhằm cố gắng giữ ông trong đoàn thể, sau thống nhất giới lãnh đạo Hà Nội
ban cho ông chức vụ nhỏ trong bộ lương thực. Ông từ chối, không muốn
tiếp tục đồng lõa với chính quyền ông chống đối, ông cũng không muốn bị
giám sát thường xuyên ở Hà Nội. Khi ông cuối cùng chấp nhận công việc
làm giám đốc công ty cao su vào năm 1978, lý do ông làm thế là để tạo vỏ
bọc nhằm tổ chức kế hoạch đào thoát.
Trong sáu tháng ở trại tỵ nạn ông có nhiều thời gian suy nghĩ về chuyện
tại sao cách mạng Việt Nam không thành công. Bây giờ ông tố cáo giới
lãnh đạo hiện nay đã từ bỏ định hướng về thống nhất dân tộc và phi liên
kết quốc tế được Hồ Chí Minh đề ra. Từ ngữ mị dân Mác-xít, ông nói, chỉ
là ngôn ngữ áp bức mới ở Việt Nam.
“Ở Việt Nam hiện nay không có chuyên chính vô sản,” ông nói. “Chỉ
có điều mà chúng tôi gọi bằng tiếng Việt là ‘gia đình trị’-tức độc tài
của các dòng họ. Trong trường hợp này đó là các gia đình của Lê Duẩn và
Lê Đức Thọ (trưởng ban tổ chức Đảng) kiểm soát tất cả mọi thứ.”
Để chứng minh điều này là đúng, Tảng kể ra danh sách gồm các con trai,
anh em, anh em vợ của Lê Duẩn và Lê Đức Thọ đang giữ những chức vụ chủ
chốt từ đứng đầu công an mật tới bí thư chính ủy lực lượng không quân.
Tiếng Pháp rất giỏi của ông hay cách nói năng nhẹ nhàng của ông vẫn
không có thể che giấu sự cay đắng trong giọng nói khi Tảng nói. Nhưng
bất chấp những từng trải của mình, lý tưởng của ông vẫn còn nguyên vẹn.
Ông nhất định không từ bỏ giấc mơ của mình về xã hội công bằng và dân
chủ ở Việt Nam.
Mặc dù ông ban đầu dự định hoạt động chính trị từ từ trong lúc ông thích
nghi với cuộc sống mới ở Paris, nhưng bây giờ ông thấy mình thường
xuyên đến Paris để tham gia vào các nỗ lực nhằm củng cố phong trào kháng
chiến Việt Nam và để hình thành cầu nối với các lực lượng kháng chiến
Lào và Cambodia. Ông đã tiếp xúc với bạn học cũ vào thời trung học -
hoàng thân Norodom Sihanouk, cựu quốc trưởng Cambodia - và hai người đã
trao đổi những lời hứa đoàn kết.
Tảng không mất đi sự mỉa mai khi ông nói về mặt trận chung của nhân dân
Việt Nam, Cambodia, và Lào chống lại những kẻ mà ông gọi là “kẻ thù
chung”: giới lãnh đạo Hà Nội và những kẻ ủng hộ Liên Xô của họ. Ông ý
thức rằng điều ông đang đề xuất thể hiện sự bắt đầu lại từ đầu hội nghị
thượng đỉnh của nhân dân Đông Dương vào năm 1970, nơi các nhà lãnh đạo
Mặt trận Giải phóng Dân tộc Miền Nam Việt Nam, Miền Bắc Việt Nam,
Cambodia, và Lào đã gặp nhau ở Trung Quốc để thành lập liên minh chung
chống lại Hoa Kỳ và chế độ Sài Gòn.
Trên đất Pháp ngoại quốc, Trương Như Tảng lại bắt đầu lại từ đầu, làm
những gì ông đã làm cách đây 20 năm ở Sài Gòn - đặt nền tảng cho cuộc
cách mạng Việt Nam.
Nguồn:
Dịch từ báo Christian Science Monitor số ra ngày 28/8/1980. Tựa đề của người dịch. Tựa đề tiếng Anh là “A revolution who fled the revolution”.
Bản tiếng Việt: