Trần Quang Thành (Danlambao)
- Lời giới thiệu: Biến cố 30/4/1975 xảy ra cách đây 41 năm. Gần nửa thế
kỷ đã trôi qua, biến cố đó vẫn để lại nhiều nhận thức, nhiều thái độ,
nhiều cách đánh giá khác nhau. Người Việt Nam vẫn chưa đạt tới đồng
thuận về ý nghĩa của biến cố lịch sử này.
Chúng ta còn nhớ cách đây một năm vào dịp kỷ niệm 40 năm ngày 30/4/1975
thủ tướng cộng sản Nguyễn Tấn Dũng còn tung hô ngày 30/4/1975 như một
ngày chiến thắng huy hoàng của "toàn Đảng, toàn dân và toàn quân Việt
Nam" và hô to khẩu hiệu "đánh cho Mỹ cút đánh cho ngụy nhào". Ông Nguyễn
Tấn Dũng đã bị ngay một số đảng viên cộng sản kỳ cựu phê phán là lạc
điệu.
Kỷ niệm 41 năm biến cố 30/4/1975, từ Paris ông Nguyễn Gia Kiểng, thường
trực ban lãnh đạo Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên, một nhân chứng của biến cố
đó và cũng là người đã viết nhiều bài gây chú ý về biến cố lịch sử này
đã có cuộc trò chuyện với nhà báo Trần Quang Thành.
Nguyễn Gia Kiểng: Chào ông Trần Quang Thành.
TQT: Biến cố 30/4/1975 diễn ra đến nay đã được 41 năm. 41 năm
qua cộng sản đã đặt ách thống trị lên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam sau khi
đã xâm chiếm được Việt Nam Cộng Hòa.
Ngày đó ông Nguyễn Gia Kiểng mới ở tuổi ngoài 30. Ông từng làm phụ tá tổng trưởng kinh tế tức là chức thứ trưởng.
Ngày 30/4/1975 đó ông quan sát thấy điều gì, cảm nghĩ ra sao và hiện nay trong đầu óc ông còn điều gì đáng suy tư thưa ông?
NGK: Những ngày trước và sau 30/4, nhất là ngày
30/4/1975, phải nói là những kỷ niệm "sống để bụng, chết mang theo". Đó
là những ngày cực kỳ đen tối mà không một ngôn từ nào có thể diễn tả
nổi. Lúc đó chúng tôi bồn chồn, hốt hoảng, thất vọng, tuyệt vọng. Mỗi
một ngày thêm một tin khủng khiếp sau khi Buôn Mê Thuột bị thất thủ vào
tay quân cộng sản, nhất là sau cuộc tháo chạy hỗn loạn của quân và dân
miền Nam trên quốc lộ 7B; sau đó là Đà Nẵng, Qui Nhơn, Nha Trang… lần
lượt theo nhau rơi vào tay quân đội cộng sản hầu như không có một sự
kháng cự nào, bởi vì quân đội Việt Nam Cộng Hòa đã rã hàng và không còn
sức kháng cự nữa. Ở miền Nam nói chung và nhất là ở Sài Gòn những người
có khả năng, có phương tiện thì tìm cách chạy trốn ra nước ngoài. Cả
nước sống trong một không khí tháo chạy hỗn loạn. Không có ngôn ngữ nào
có thể tả được.
Cũng như nhiều anh em khác, tôi không ngủ được trong hơn một tháng. Khi
nào mệt quá thì thiếp đi, rồi lại thức dậy và bồn chồn, lo lắng. Ngày
30/4/1975 Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng. Quân cộng sản tràn vào Sài
Gòn trong những tiếng reo hò vui mừng cộng với những tiếng súng chào
mừng chiến thắng. Phải nói rằng lúc đó sự hân hoan của họ chỉ có thể so
sánh được với sự buồn tủi của anh em chúng tôi. Tất cả chúng tôi đều
không biết những gì sẽ xảy ra cho mình trong những ngày sắp tới. Bởi vì
không nên quên rằng trước đó hai tuần lễ, chiến thắng của quân Khơ-me Đỏ
tại Campuchia đã khởi đầu cho một cuộc tàn sát rất dã man các viên chức
của chế độ cũ. Riêng cá nhân tôi còn có một lý do đặc biệt để lo sợ hơn
người khác bởi vì khi còn ở Paris, trước khi trở về Việt Nam, tôi là
một người lãnh đạo phong trào chống cộng tại Pháp và Âu châu; tôi đã
từng tranh luận với nhiều người cộng sản, kể cả những người sau này trở
thành những viên chức cao cấp của chế độ. Nhưng có một điều rất là lạ
sau 30/4/1975 tôi thấy mình ngủ được. Tôi thấy mình bình tĩnh trở lại.
Có lẽ vì nghĩ rằng đã mất tất cả rồi, không còn gì để mất nữa, cái gì
đến cứ đến. Tôi tự nghĩ mình đã làm tất cả những gì mình có thể làm và
cũng không làm điều gì sai trái, không có gì để tự trách mình cả.
Kỷ niệm sinh động nhất mà tôi còn nhớ rất rõ là vào sáng ngày 30/4/1975,
lúc Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, tôi đã lấy lá cờ vàng ba sọc đỏ
úp vào mặt khóc rất lâu. Tôi không khóc cho chế độ Việt Nam Cộng Hòa mà
tôi chưa bao giờ đánh giá cao. Tôi đã chỉ muốn dựa vào nó để ngăn chặn
chủ nghĩa cộng sản mà tôi cho là rất độc hại cho dân tộc Việt Nam, để
rồi sau đó xây dựng một nước Việt Nam khác. Thế nhưng vào ngày 30/4/1975
tôi thấy hy vọng đó đã hoàn toàn tiêu tan. Tôi khóc cho lý tưởng của
đời mình. Tôi cũng khóc cho đất nước Việt Nam vì tôi ý thức rất rõ ràng
vào lúc đó rằng đất nước Việt Nam bắt đầu đi vào một thảm kịch rất lớn.
Hôm nay nhân dịp nhắc lại những kỷ niệm của ngày 30/4, tôi cũng xin nói
lên một điều mà một cách kỳ lạ chưa thấy người Việt Nam nào nói đến. Đó
là chế độ Việt Nam Cộng Hòa trong thất bại thê thảm của nó cũng đã làm
được một điều rất phi thường. Lúc đó tôi đang là chủ tịch ủy ban vật giá
và tiếp tế ở bộ kinh tế. Anh em chúng tôi đã cố gắng hết sức giữ cho
vật giá được ổn định và chúng tôi đã thành công. Cho đến ngày 30/4/1975
sinh hoạt kinh tế vẫn gần như bình thường, vật giá vẫn ổn định. Có thể
nói đây là một điều chưa từng có trong lịch sử thế giới. Bởi vì nếu
chúng ta nhìn các chế độ sắp sửa bị đánh gục vì chiến tranh trên thế
giới, thì luôn luôn trước đó vật giá tăng lên gấp trăm lần, thậm chí gấp
ngàn lần. Thế nhưng đồng tiền Việt Nam Cộng Hòa vẫn còn ổn định, ổn
định đến nỗi chế độ cộng sản không thay thế nó và họ còn giữ nó trong
gần sáu tháng nữa, đến cuối tháng 9/1975 họ mới thay thế nó bằng một
đồng tiền mới. Có thể nói tuy mặt trận quân sự tan rã nhưng mặt trận
kinh tế vẫn ổn vững. Sau này tôi có gặp lại một số bạn bè người ngoại
quốc có mặt ở Sài Gòn lúc đó, họ cũng nói với tôi rằng đó là một điều
không thể tưởng tượng được và làm cho họ rất ngạc nhiên.
TQT: Thưa ông Nguyễn Gia Kiểng. Ông vừa nói kinh tế miền Nam
trong cuộc chiến khá ổn định và vật giá không bị leo thang một cách bất
thường. Điều đó cũng làm cho ông rất tự hào. Bây giờ nhìn lại cuộc chiến
1945 – 1975, trong cuộc chiến 30 năm đó mỗi người có một nhận thức khác
nhau. Người cộng sản họ bảo đó là cuộc kháng chiến cứu nước. Lúc thì là
chống thực dân Pháp, lúc thì là chống Mỹ xâm lược. Nói chung đây là
cuộc kháng chiến cứu nước. Họ tự hào đã giải phóng miền Nam, thống nhất
đất nước. Bây giờ họ đặt ách thống trị cộng sản lên toàn cõi Việt Nam.
Nhưng nhiều người Việt Nam lại cho đây là một cuộc chiến tranh huynh đệ
tương tàn. Một cuộc chiến tranh mà những người cộng sản làm tay sai cho
Quốc Tế Cộng Sản, như chính ông Lê Duẩn đã thừa nhận là "đánh cho Liên
Xô và đánh cho Trung Quốc".
Ông Nguyễn Gia Kiểng có bình luận gì về cuộc chiến tranh kéo dài 30 năm, 1945 – 1975, ở Việt Nam ta?
NGK: Lập luận của Đảng Cộng Sản là một lập luận tự đắc và
tuyên truyền trắng trợn mà ta phải bác bỏ. Phải trả lời một cách rất dứt
khoát đây là một cuộc nội chiến. Cả hai giai đoạn mà họ gọi là "chống
Pháp" và "chống Mỹ" đều chỉ là hai giai đoạn trong một cuộc nội chiến
kéo dài 30 năm, bởi vì khi người trong một nước bắn giết nhau trên một
qui mô lớn và trong một thời gian dài thì đó là nội chiến dù có hay
không có sự can thiệp từ bên ngoài. Vả lại trong thế kỷ 20, nhất là sau
thế chiến thứ hai, làm gì có cuộc nội chiến nào không có sự tiếp tay từ
bên ngoài đâu. Nếu ta nhìn lại số người Pháp và số người Mỹ thiệt mạng
trong hai giai đoạn của cuộc chiến này thì chúng ta thấy đó là một tỷ lệ
không đáng kể so với số tử vong của người Việt Nam. Người Pháp đã thiệt
hại 33.000 người, trong đó một phần đáng kể là những người lính châu
Phi và Ả Rập, người Mỹ thiệt hại 58.000 người, trong khi đó số tử vong
của người Việt ở cả hai phía là trên ba triệu. Nói chung tổng số quân
đội nước ngoài thiệt mạng tại Việt Nam trong cuộc nội chiến này chưa
bằng 3% của phía Việt Nam.
Tôi còn nhớ trong một bài báo đăng trên tờ Học Tập chính ông Trường
Chinh cũng đã nhìn nhận đây là một cuộc nội chiến. Còn ông Lê Duẩn thì
đã từng tuyên bố, như ông Thành vừa nhắc lại, cuộc chiến là để phục vụ
nước ngoài. Thế thì đâu có gì là chính nghĩa giải phóng dân tộc?
Khi nói về cuộc chiến này chúng ta cũng cần nhấn mạnh một điều, đó là
nội chiến nằm ngay trong chính nền tảng của chủ nghĩa Mác – Lênin. Chính
Lenin đã nói rằng nội chiến và đấu tranh giai cấp chỉ là một, nội chiến
chỉ là sự tăng cường và tiếp nối của đấu tranh giai cấp, đấu tranh giai
cấp chắc chắn phải đưa đến nội chiến.
Còn một lý do nữa khiến những người cộng sản chủ trương nội chiến. Đó là
nội chiến gây tác hại ghê gớm cho mọi dân tộc. Nó không chỉ gây ra
những tổn thất về vật chất, về sinh mạng mà nó còn phá hủy tinh thần dân
tộc. Khi người ta giết nhau là người ta không còn coi nhau là đồng bào
nữa. Nội chiến có tác dụng phá hoại các quốc gia và việc xóa bỏ các quốc
gia nó nằm trong nền tảng tư tưởng của chủ nghĩa cộng sản. Chúng ta
phải nhấn mạnh rằng không tội nào nặng hơn là tội gây ra nội chiến. Các
quốc gia đều rất khó gượng dậy sau một cuộc nội chiến.
Bây giờ nếu bàn về khía cạnh chính trị và lịch sử của cuộc nội chiến này
thì chúng ta cũng phải dứt khoát vất bỏ chiêu bài giải phóng của cộng
sản. Bởi vì cả hai giai đoạn của cuộc nội chiến này đều là những cuộc
chiến tranh không cần thiết, chỉ nhằm thiết lập chế độ cộng sản mà thôi.
Nếu chỉ có nhu cầu và nguyện vọng giải phóng dân tộc và giành lại độc
lập thì cuộc chiến đó không cần có.
Chúng ta nên biết là sau Thế Chiến II khi nhân quyền -tức là sự bình
quyền giữa những con người thuộc mọi chủng tộc- đã trở thành một mẫu số
chung trong bang giao quốc tế thì sự phân biệt chủng tộc không còn được
đặt ra nữa. Bởi thế cho nên các nước Pháp, Anh và nói chung các đế quốc
thực dân phải tìm cách tháo chạy nhanh chóng khỏi các thuộc địa nếu
không muốn bị chiếm đóng ngược lại. Hãy tưởng tượng điều gì sẽ xảy ra
vào giờ này nếu Việt Nam và Pháp vẫn là một? Nếu như thế thì trong các
cuộc bầu cử tự do 100 triệu người Việt Nam sẽ có tiếng nói áp đảo so với
65 triệu người Pháp và như thế chính nước Pháp bị chiếm đóng chứ không
phải Việt Nam! Dĩ nhiên người Pháp phải trả độc lập cho Việt Nam, họ
phải tìm cách rút khỏi Việt Nam vì chính an ninh của họ. Điều đó không
có nghĩa là tất cả đều tốt đẹp, chúng ta vẫn phải cố gắng để việc chuyển
giao chủ quyền diễn ra trong những điều kiện thuận lợi nhất cho Việt
Nam. Thế nhưng mà chúng ta không cần có một cuộc chiến tranh.
Giai đoạn chống Mỹ lại càng lố bịch. Tôi xin nhắc lại là ngày 30/4 cũng
là một ngày lịch sử rất lớn đối với nước Philippines ở gần chúng ta.
Ngày 30/4/1898 quân đội Mỹ đã tiêu diệt toàn bộ quân đội Tây Ban Nha tại
Philippines nhưng ngay sau đó Mỹ lại trả độc lập cho Philippines, bởi
vì Mỹ là một cường quốc thương mại chứ không phải là một cường quốc thực
dân, họ tìm đối tác chứ không tìm thuộc địa. Nói chung đây là một cuộc
chiến do đảng cộng sản Việt Nam phát động để áp đặt chủ nghĩa Mác
-Lê-nin lên toàn cõi Việt Nam và mở rộng thế lực của phong trào cộng sản
thế giới, như lời ông Lê Duẩn mà ông vừa nhắc lại.
TQT: Cuộc chiến đã kết thúc hơn 40 năm, gần một nửa thế kỷ qua
bên thắng cuộc, nghĩa là phe cộng sản, tự hào rằng họ đã đánh bại hai
đế quốc to và thống nhất non sông Nam Bắc về một dải. Bên những người bị
thôn tính là VNCH cũng đưa ra nhiều lý lẽ để cho rằng đây chỉ là một
cuộc xâm lăng đối với một đất nước có chủ quyền. Ông đánh giá sao về
việc Đảng Cộng Sản cho ràng họ có chính nghĩa?
NGK: Như tôi vừa nói không có cuộc nội chiến nào là có
chính nghĩa cả. Không có bất cứ lý do gì có thể biện minh cho sự kiện
đẩy người dân cùng một nước vào cảnh chém giết lẫn nhau. Không nên đặt
vấn đề chính nghĩa ở đây.
Như tôi đã nói mục tiêu của Đảng Cộng Sản là áp đặt chủ nghĩa cộng sản
trên cả nước và mở rộng thêm thế lực của phong trào cộng sản. Những
người lãnh đạo cộng sản đã lý luận như là những người cộng sản chứ không
phải như là những người Việt Nam. Nếu quyền lợi của đất nước Việt Nam
được coi là trên hết thì đã không có cuộc chiến này. Cho nên chúng ta
cũng không cần phải mất thì giờ để bàn cãi thêm nữa. Ngày nay tất cả
người Việt đều đã thấy cuộc chiến này là một cuộc nội chiến tai hại, và
là một cuộc nội chiến mà Đảng Cộng Sản phải chịu trách nhiệm. Chúng ta
không có nhu cầu phải bàn cãi thêm nữa.
TQT: Cuộc chiến đã kết thúc với biến cố 30/4/1975 và cộng sản
là người đã gây nên cuộc nội chiến huynh đệ tương tàn đó. Nhìn lại 41
năm qua ông thấy Việt Nam ta dưới sự cai trị độc tài của cộng sản đã
được gì, mất gì. Ông bình luận gì sau biến cố đó?
NGK: Nếu nói về những cái được thì chúng ta phải nói đây
là ngày mà nội chiến chấm dứt, người Việt Nam không con chém giết nhau
nữa. Điều này rất quan trọng. Và đất nước đã thống nhất. Dù đã không
thống nhất trong những điều kiện chúng ta mong muốn, trái lại đã thống
nhất trong những điều kiện tang tóc, nhưng dù sao đất nước đã thống
nhất. Đó là điều chúng ta có thể ghi nhận là tích cực.
Nhưng theo tôi yếu tố tích cực nhất là điều không ai chờ đợi, không ai
dự đoán. Đó là sự hình thành của cộng đồng người Việt hải ngoại, những
người đã chạy trốn chế độ cộng sản đi tìm tự do ở các nước khác. Hiện
nay chúng ta, với sự sinh sản nhanh chóng của người Việt, đã có được hơn
năm triệu người, phần lớn định cư phần lớn ở các nước tiến tiến. Nhờ đó
đã có những người Việt Nam đã được thử nghiệm mọi nếp sống, mọi văn
hóa, và mọi thể chế chính trị. Đã có những người Việt Nam làm việc ở mức
độ cao, trong tất cả mọi địa hạt văn hóa, chính trị, luật pháp, khoa
học, kỹ thuật. Khối người Việt đó trong tương lai sẽ là những đầu cầu
văn hóa, thương mại, khoa học, kỹ thuật rất quí báu cho đất nước, cho cố
gắng phát triển của Việt Nam. Nhưng trước hết nó là con mắt của người
Việt để nhìn thế giới. Một trong những nguyên nhân sâu xa khiến chúng ta
rơi vào thảm kịch 30/4/1975 và kéo cho tới ngày hôm nay là vì chúng ta
đã không hiểu biết về thế giới. Hiện nay với cộng đồng người Việt hải
ngoại này chúng ta vọng có một con mắt để quan sát những gì xảy ra trên
thế giới. Tôi nghĩ đó là một bảo đảm để chúng ta không bao giờ rơi trở
lại vào cái bẫy của cố chấp và thiển cận nữa. Chúng ta sẽ trở thành một
dân tộc bình thường. Chúng ta có điều kiện để trở thành một dân tộc lớn.
Cộng đồng người Việt hải ngoại cũng đã chứng tỏ khả năng người Việt.
Trong một thời gian rất ngắn người Việt đã hội nhập và nói chung ở các
nước tiên tiến đã đạt được mức sống trung bình và có khi hơn cả mức
trung bình. Điều đó chứng tỏ khả năng của người Việt Nam và cho chúng ta
một lý do để hy vọng.
Thế nhưng cái mất mát cũng rất nhiều, nhiều hơn những cái chúng ta đã
được. Cách mà cuộc chiến đã chấm dứt đã mở đầu cho một giai đoạn lịch sử
đen tối. Đảng cộng sản Việt Nam sau chiến thắng thay vì thực hiện hòa
hợp, hòa giải dân tộc họ đã thực hiện một chính sách chiếm đóng, cướp
bóc, bỏ tù và hạ nhục tập thể đối với miền Nam và gây ra thù oán, khiến
cho miền Nam sụp đổ hoàn toàn và khiến hận thù không bớt đi, không tiêu
tan mà còn tích lũy nhiều hơn nữa.
Tôi xin kể hai trường hợp cụ thể:
Trường hợp thứ nhất là một người anh họ tôi. Anh là một kỹ sư, tổng giám
đốc một công ty. Sau 30/4 công ty đó bị cái mà người ta gọi là "tiếp
thu" tức là bị tịch thu. Công ty đó chẳng có gì là quân sự cả, chỉ là
một công ty xây cất thôi. Công ty đó còn nợ một ngân hàng một triệu đồng
và người ta bắt anh phải thanh toán với tư cách giám đốc công ty mặc
dầu công ty ấy đã bị tịch thu rồi. Mặt khác anh ấy còn một tài khoản
tiết kiệm gần mười triệu đồng ở trong công ty đó thì người ta nói là để
giải quyết sau nhưng không bao giờ giải quyết cả. Thật phi lý, phải nói
là một sự cướp bóc trắng trợn.
Trường hợp thứ hai là của một người mà tôi đặc biệt thán phục. Phải nói
tôi chưa bao giờ thán phục ai hơn cụ Vũ Đình Mai. Cụ là một thanh niên
nghèo ở miền Bắc một mình đi vào Nam năm 1940 ở tuổi 16 để chạy trốn sự
nghèo khổ. Cụ đã phấn đấu, đã làm việc và học hỏi thêm. Năm 1975 cụ đang
là chủ một công ty sản xuất đồ điện với trên 200 công nhân. Đó là một
thành công hoàn toàn do mồ hôi, nước mắt, cố gắng và trí thông minh. Cụ
Mai là một người mà dân tộc Việt Nam phải tự hào. Thế nhưng sau
30/4/1975 họ đã "tiếp thu" công ty của cụ Vũ Đình Mai và sau vài tháng
công ty đó sụp đổ vì họ không biết quản trị, không biết phải làm gì. Sau
này khi tôi gặp lại cụ Mai, cụ vẫn không hiểu cái gì đã xảy ra. Cụ là
người rất thông minh một thiên tài về kinh doanh, một người rất lương
thiện nhưng cụ không thể hiểu nổi. Cụ cứ hỏi tôi "ông thử giải thích cho
tôi xem cái gì đã xảy ra". Thật đau lòng.
Sau này cụ Mai đã vượt biên và qua được Canada. Năm nay cụ cao tuổi lắm
rồi, đã 92 tuổi. Nhưng tôi hy vọng cụ vẫn còn nghe được buổi nói chuyện
này để một lần nữa tôi bày tỏ sự kính trọng đối với cụ.
Ngày hôm nay tôi có một điều muốn nhấn mạnh đó là chính sách tập trung
cải tạo của đảng cộng sản sau ngày 30/4/1975. Như chúng ta đã biết tất
cả thanh niên miền Nam có trình độ đại học đều bị động viên trong thời
gian vài năm. Họ trở thành sĩ quan và sau đó họ giải ngũ trở về đời sống
dân sự nhưng mang qui chế lý thuyết là "sĩ quan biệt phái". Sau ngày
30/4/1975 tất cả đã bị bắt đưa vào những trại tập trung. Thí dụ hư ông
anh ruột tôi, sau khi tốt nghiệp đại học đã bị đi quân dịch trong vòng
ba năm và giải ngũ với cấp bậc trung úy rồi trở về làm giảng viên trường
Đại Học Khoa Học Sài Gòn. Thế nhưng sau ngày 30/4/1975 anh tôi vẫn bị
bắt đi tập trung cải tạo trong vòng 5 năm. Có nhiều người nói rằng Đảng
Cộng Sản ngây thơ không biết những người đó là dân sự, họ đã giải ngũ
rồi và không có liên quan gì đến quân đội cả. Tôi muốn nói chắc chắn là
cộng sản biết rất rõ những người đó là dân sự không có liên quan gì đến
quân đội cả. Họ không có lầm lẫn đâu bởi vì họ đã cài cắm một lớp điệp
viên, một lớp cán bộ nằm vùng trong tất cả các cơ quan của Việt Nam Cộng
Hòa. Ngay cả một phụ tá của ông Nguyễn Văn Thiệu sau này cũng được phát
giác là một cán bộ nằm vùng. Ông tướng Nguyễn Hữu Hạnh mà tôi có gặp
sau khi ở tù ra năm 1980 là phó tổng tham mưu trưởng quân đội Việt Nam
Cộng Hòa trong những ngày cuối cùng. Ông ấy cũng là một trong những cán
bộ nằm vùng của cộng sản. Người cộng sản biết rất rõ rằng những người
gọi là "sĩ quan biệt phái" không có liên quan gì đến quân đội cả. Nhưng
họ vẫn tập trung cải tạo những người đó. Chúng ta phải hiểu cho rõ: đó
là vì họ muốn đánh gục khả năng và ý chí của thành phần tinh nhuệ nhất
của miền Nam. Bởi vì sau ngày 30/4/1975 sự thực rõ ràng là khả năng,
trình độ văn hóa và kiến thức của miền Nam hơn hẳn miền Bắc, cho nên họ
thấy cần phải đánh gục miền Nam, đánh gục những thành phần tinh nhuệ của
miền Nam bằng chính sách đày đọa, hạ nhục trong một thời gian dài.
Trong một bài viết cách đây 17 năm, năm 1999 -bài "Vết thương ngày
30/4"- tôi có nói đây là đổ vỡ lớn nhất, vết thương lớn nhất của đất
nước Việt Nam và đây là một hành động có chủ ý của Đảng Cộng Sản. Chúng
ta phải nói đảng cộng sản hoàn toàn không có quan tâm nào tới quyền lợi
của đất nước cả, họ chỉ quan tâm bảo vệ quyền lực của đảng cộng sản, họ
chỉ quan tâm đến thắng lợi của phong trào cộng sản. Tôi xin nhắc lại
một lần nữa rằng những người lãnh đạo cộng sản đã hành động như những
người cộng sản chứ không phải như những công dân Việt Nam.
TQT: Ông vừa đề cập đến những tội ác của cộng sản đối với
những người dưới chế độ Việt Nam Cộng Hòa. Những điều đó là rõ ràng và
khẳng định. Không chỉ thế những người dân miền Bắc, những người đã sống
nhiều năm dưới chế độ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa do cộng sản cai trị cũng
ngày càng bừng tỉnh thấy rằng chế độ cộng sản là một chế độ độc tài
toàn trị mang lại tội ác đau thương cho cả dân tộc Việt Nam. Từ Nam chí
Bắc đều chung quốc hận là cộng sản. Vậy tại sao Tập Hợp Dân Chủ Đa
Nguyên lại đề ra chủ trương bao dung hòa hợp, hòa giải và người ta nói
đường hướng đó sẽ thất bại, tại sao ông vẫn kiên trì?
NGK: Tôi phải nói dứt khoát như thế này: Hòa giải là một
bắt buộc đối với các dân tộc sau một cuộc nội chiến. Chúng ta đã thấy
tại Hoa Kỳ sau một cuộc nội chiến chỉ kéo dài bốn năm cách đây một thế
kỷ rưỡi chính quyền Mỹ đã làm tất cả để hòa giải hai miền Nam – Bắc. Tại
Tây Ban Nha sau cuộc nội chiến cũng chỉ kéo dài có mấy năm thôi mà
chính quyền hiện nay cũng vẫn còn phải cố gắng hết sức để hòa giải dân
tộc. Bởi vì hòa giải là bắt buộc nếu chúng ta muốn động viên mọi khối
óc và mọi bàn tay trong một cố gắng chung. Tôi đã đi khá nhiều nước để
tìm câu trả lời cho một câu hỏi : "Tại sao theo các nhà khoa học mọi
giống người sinh ra trên thế giới này đều tương đương với nhau về khả
năng vậy mà có những quốc gia tiến bộ và phồn vinh trong khi đó các nước
khác tụt hậu và nghèo khổ?" Câu trả lời mà tôi tìm được cũng chỉ xác
nhận kết quả của những nghiên cứu chính trị mà thôi. Đó là một quốc gia
chỉ tiến lên được nếu có hòa hợp dân tộc, nếu những người trong cùng một
nước chấp nhận lẫn nhau và cùng cố gắng xây dựng và chia sẻ một tương
lai chung. Hòa hợp dân tộc là một yếu tố không có không được để một quốc
gia có thể phát triển được. Thế nhưng làm thế nào để có hòa hợp? Đối
với các dân tộc đã trải qua nội chiến như Việt Nam thì trước đó phải có
hòa giải dân tộc.
Ngày hôm nay chúng ta lại có một vấn đề khác. Chúng ta đang sống trong
một thế giới toàn cầu hóa. Phong trào toàn cầu hóa này đe dọa tất cả các
quốc gia, nó chất vấn từ nền tảng khái niệm quốc gia, nó đặt câu hỏi
"các quốc gia có cần cho con người hay không?" bởi vì phải nói rằng ngày
nay con người là giá trị cao nhất, tất cả những gì không đạt được mục
tiêu phục vụ con người đều không có lý do để tồn tại. Hiện nay chính đất
nước Việt Nam đang bị chất vấn. Không chỉ riêng Việt Nam mà tất cả các
quốc gia không thành công -nghĩa là không đem lại tự do, phồn vinh và tự
hào cho người dân- sẽ không có lý do tồn tại và sớm muộn gì cuối cùng
sẽ tan vỡ mà thôi. Vậy thì hòa giải và hòa hợp dân tộc là điều kiện
phải có để đất nước Việt Nam còn tồn tại. Hòa giải dân tộc để có thể hòa
hợp dân tộc. Hòa hợp dân tộc để có thể tồn tại được. Cho nên yêu cầu
hòa giải và hòa hợp dân tộc cũng là một yêu cầu giữ nước.
Một lý do nữa là hòa giải và hòa hợp dân tộc cũng là điều kiện để đánh
bại được chế độ cộng sản, buộc chế độ cộng sản nhượng bộ và chấp nhận
tiến trình dân chủ. Vì sao? Chúng ta đừng quên là các chế độ độc tài
hung bạo không cần người dân yêu chúng, chúng chỉ cần người dân đừng
thương yêu nhau để cho chúng dễ thống trị một xã hội bất lực vì chia rẽ.
Cho nên hòa giải và hòa hợp dân tộc cũng là một điều kiện phải có để
giành thắng lợi cho dân chủ.
Nói chung hòa giải, hòa hợp dân tộc là một điều kiện bắt buộc trong hoàn
cảnh Việt Nam. Vấn đề là nhiều người nói là người cộng sản không muốn
hòa giải. Điều đó đúng. Nhưng chúng ta đâu có bắt buộc phải chỉ làm
những gì người cộng sản muốn đâu. Chúng ta làm rất nhiều điều mà đảng
cộng sản không muốn. Nói chung phần lớn những điều chúng ta làm là
những điều Đảng Cộng Sản không muốn. Hòa hợp và hòa giải dân tộc là một
bắt buộc cho tương lai đất nước. Nếu Đảng Cộng Sản không muốn hòa giải
như nhiều người nghĩ thì họ sẽ bị đào thải. Vấn đề chỉ giản dị như vậy
thôi.
TQT: Kinh nghiệm trong cuộc sống cho thấy là người cộng sản
luôn tráo trở trong vấn đề gọi là hòa hợp, hòa giải. Năm 1945 khi giành
được chính quyền họ đã bầy ra trò hòa hợp, hòa giải. Năm 1975 họ cũng đã
từng đưa ra cái bánh vẽ hòa hợp, hòa giải. Những người mắc lừa họ đã
phải trả bằng xương máu cả cuộc đời. Ông đã từng chứng kiến như vậy,
nhưng tại sao ông vẫn giữ ý nghĩ có thể hòa hợp, hòa giải với cộng sản?
NGK: Sự gian trá, sự phản trác nằm ngay trong bản chất của
chế độ cộng sản. Tôi không cần ai dạy tôi điều đó cả. Ông Thành đã từng
sống dưới chế độ cộng sản. Vào ngày 30/4/1975 hai vị trí giữa ông và
tôi rất khác nhau. Ông thuộc phe chiến thắng, tôi thuộc phe chiến bại.
Tôi không biết ngày hôm đó ông Thành có hân hoan hay không nhưng ngày
hôm đó là tủi nhục đối với tôi. Chúng ta khác biệt nhau lắm. Thế mà hôm
nay chúng ta vẫn có thể nói chuyện với nhau thân mật như thế này. Điều
đó chứng tỏ thời gian đã làm nhiệm vụ của nó và hòa giải dân tộc giữa
những người biết điều và yêu nước là lẽ tự nhiên. Nhưng trở lại vấn đề
day dứt là nhiều người sợ là Đảng Cộng sản vẫn cứ tráo trở. Chúng ta
phải biết sự tráo trở đó nằm trong bản chất của chế độ cộng sản. Ông
Thành lớn lên trong chế độ cộng sản chắc phải biết Lenin định nghĩa đạo
đức là như thế nào chứ gì? Lenin định nghĩa đạo đức là những gì có lợi
cho đảng cộng sản. Nghĩa là nếu sự phản trác, lật lọng, giết người mà có
lợi cho đảng cộng sản thì họ vẫn làm. Như vậy không có ai lầm, không có
ai ngây thơ cả. Vấn đề là đảng cộng sản có khả năng để mà lật lọng hay
không. Chúng ta đều nghĩ rằng sự lật lọng của Đảng Cộng Sản là có thật,
nhưng cái lỗi của những người chống cộng – nghĩa là chế độ Việt Nam Cộng
Hòa và những người dân chủ nói chung- là chúng ta quá yếu nên chúng ta
đã để cho đảng cộng sản có thể lật lọng. Tôi nghĩ nếu chúng ta mạnh hơn
họ thì Đảng Cộng Sản sẽ không mong gì hơn là tinh thần hòa giải và hòa
hợp dân tộc được thực hiện một cách thành thực. Thí dụ như tại sao họ
không lật lọng tại Ba Lan như họ đã từng lật lọng? Tại sao ở Hungary
trước đây họ đã từng lật lọng nhưng bây giờ lại không lật lọng? Tại
Romania ngày trước họ gian xảo bao nhiêu bây giờ họ ngoan ngoãn bấy
nhiêu? Đó là vì họ ở trong thế yếu. Chúng ta bị phản bội vì chúng ta
yếu. Trách nhiệm ở đâu? Nếu chúng ta nhìn lại thì sau Thế chiến thứ hai
có hai quốc gia ở châu Á -Cao Ly và Việt Nam- có một nền văn hóa giống
nhau, có mức độ phát triển tương đương với nhau và cùng bị chia cắt bởi
cùng một làn ranh ý thức hệ. Trong cả hai nước chế độ cộng sản miền Bắc
đã gây chiến để thôn tính nền dân chủ non trẻ ở phía Nam. Trong cả hai
trường hợp Hoa Kỳ và thế giới đã can thiệp rất mạnh mẽ để ủng hộ miền
Nam. Thế nhưng kết quả đã rất khác, hai cuộc chiến đã kết thúc rất khác ở
Cao Ly và ở Việt Nam, và Hàn Quốc đã có tương lai khác hẳn với Việt
Nam. Vì sao? Bởi vì trí thức Việt Nam không bằng trí thức Đại Hàn, trí
thức Việt Nam thua xa trí thức Đại Hàn. Như vậy thay vì lý luận quanh co
là Đảng Cộng Sản lật lọng, điều ai cũng biết, chúng ta nên nhìn vào cái
lý do căn bản hơn là vì chúng ta yếu cho nên Đảng Cộng Sản mới có khả
năng và dám phản bội.
Đây là dịp để nhìn lại lý do tại sao chúng ta yếu. Đó là vì trí thức
Việt Nam ảnh hưởng của văn hóa Khổng giáo quá nặng nề nên không có kiến
thức chính trị. Chế độ Khổng Giáo xét cho cùng nó cũng tương tự như chế
độ cộng sản, nó cũng bất dung và toàn trị như chế độ cộng sản thôi. Trí
thức Việt Nam lớn lên theo văn hóa làm quan. Người trí thức Việt Nam có
thể có bằng cấp cao, có kiến thức chuyên môn cao nhưng về chính trị cũng
gần như những người vô học, cũng không khác gì người dân. Trí thức Việt
Nam quan niệm chính trị như một trò chơi để tranh giành công danh chứ
không phải là một trách nhiệm đối với xã hội. Đó mới là nguyên nhân đưa
đến sự yếu kém của sức đề kháng của nhân dân Việt Nam. Xét cho cùng thì
Wilson Churchill đã có một câu nói đúng là dân tộc nào cũng xứng đáng
với chế độ mà họ có. Dân tộc nào cũng cần có một đội ngũ trí thức chính
trị để lãnh đạo họ. Nhưng Việt Nam đã thiếu tầng lớp trí thức chính trị
đó. Trí thức Việt Nam do đó không làm được bổn phận của mọi trí thức là
lãnh đạo dân tộc. Chứ không phải là đảng cộng sản gian trá, phản trắc,
điều đó ai cũng biết không cần phải nhắc lại nữa. Điều mà chúng ta phải
nhắc lại nhiều lần là chúng ta phải có một sức bật mới; phải có một cuộc
cách mạng văn hóa để cho những người trí thức Việt Nam hiểu rằng chính
trị không phải cứ tự nhiên là có thể làm được. Chính trị là một bộ môn
rất khó, đòi hỏi những cố gắng học hỏi và trải nghiệm rất lớn. Nếu chúng
ta ý thức được điều đó thì không có gì đáng lo sợ cả. Tôi nghĩ rằng
ngày nay chúng ta có hy vọng. Chúng ta cần tổ chức lại thành một đội ngũ
những người trí thức hiểu biết những vấn đề của đất nước; hiểu thế nào
là một quốc gia, một dân tộc; làm thế nào đưa đất nước đi lên; những
yếu tố nào khiến một quốc gia suy vong hoặc hưng thịnh; chúng ta đang
sống trong bối cảnh thế giới bối nào đang đứng trước những thử thách nào
và đang có những hy vọng nào v.v... Nếu có một tầng lớp trí thức như
thế – mà tôi thấy đang có – thì chúng ta không sợ sự lật lọng của đảng
cộng sản. Họ không còn khả năng để lật lọng nữa.
Vấn đề là giữa người Việt Nam với nhau là trước hết chúng ta phải hòa
giải với nhau, phải nhận ra những khuyết điểm của mình, chúng ta phải
tha thứ cho nhau, nhận nhau là anh em trong một cố gắng chung để xây
dựng một tương lai chung. Điều đó mới là điều căn bản.
TQT: Sau một giai đoạn chiến tranh khốc liệt 1945 – 1975,
những người cộng sản họ tự hào rằng họ đã đánh thắng hai đế quốc to là
Pháp và Mỹ để đưa non sông về một dải. Họ cũng tự hào là đánh cho cả
Liên Xô và Trung Quốc, cho Quốc Tế Cộng Sản.
Còn những người Việt Nam yêu nước, những người đã từng sống dưới chế
độ Việt Nam Cộng Hòa bị cộng sản xâm chiếm, tước đi quyền tự do họ đang
có, và hiện nay kể cả những người ở miền Bắc đã từng sống dưới chế độ
cộng sản cũng thấy mình là nạn nhân của chế độ cộng sản, thì nghĩ đến
ngày quốc hận.
Còn ông Nguyễn Gia Kiểng nghĩ sao, nên đặt tên cho ngày 30/4/1975 là ngày gì?
NGK: Đây chắc chắn không phải là ngày chiến thắng như Đảng
Cộng Sản đã rêu rao đâu. Phải tăm tối như ông Nguyễn Tấn Dũng trong
ngày 30-4 năm ngoái mới có thể huênh hoang mà nói đó là ngày đại thắng,
ngày "đánh cho Mỹ cút - đánh cho ngụy nhào"?! Tôi nghĩ ngày nay đa số
đảng viên cộng sản cũng không còn coi ngày 30/4 như một ngày chiến thắng
để mà khoe khoang nữa đâu. Cùng lắm nó đã là một ngày chiến thắng cho
Đảng Cộng Sản, nhưng đối với dân tộc Việt Nam nó đã là một ngày khởi đầu
cho một giai đoạn đen tối, đầy những mất mát và đổ vỡ. Đối với dân tộc
Việt Nam, đối với đất nước Việt Nam đó là một ngày buồn.
Nó có phải là một ngày thống nhất như họ nói hay không? Theo nghĩa đen
thì nó đúng là một ngày thống nhất. Nhưng tôi không nghĩ là ngày 30/4
xứng đáng với tên gọi này vì mới chỉ thống nhất về mặt địa lý và hành
chính thôi chứ không có thống nhất trong lòng người, trong ý chí xây
dựng một tương lai chung.
Nhiều người, và nhất là ở hải ngoại, nói là một ngày quốc hận. Tôi nghĩ
không nên gọi 30/4 là một ngày quốc hận. Đúng là chúng ta có rất nhiều
điều để ân hận. Chúng ta đã bỏ lỡ nhiều cơ hội và đã để đất nước rơi vào
thảm kịch. Nhưng trong tiếng Việt chữ "hận" cũng có nghĩa là hận thù,
mà hận thù là điều chúng ta phải xóa bỏ một cách dứt khoát và vĩnh viễn
nếu muốn quốc gia Việt Nam còn có thể tồn tại và vươn lên
Dầu sao thì ngày 30/4/1975 cũng vẫn là một ngày của một biến cố lịch sử
rất lớn. Theo tôi nên coi đó là một ngày để cả nước suy nghĩ về đất nước
mình và để rút ra những bài học cho tương lai.
Tôi hình dung ngày 30/4 sau này là một ngày nghỉ. Cả nước sẽ cùng hồi
tưởng lại cuộc nội chiến. Sẽ có những cuộc hội thảo tại các trường đại
học. Tại đảo Côn Sơn sẽ có một ngày lễ lớn dưới chân một tượng lớn của
bà mẹ Việt Nam nhìn ra biển cả để tưởng nhớ những đứa con đã bỏ mình
trên biển cả trong lúc đi tìm tự do. Trên khắp mọi miền đất nước người
ta sẽ tới thắp hương, đặt hoa trên mộ các nạn nhân thuộc cả hai phía
trong cuộc chiến này. Ở ngoài phố người ta chào hỏi nhau, bắt tay nhau
trong tình anh em và bạn bè để biểu lộ một ý chí chung là xây dựng một
đất nước Việt Nam có chỗ đứng, có tiếng nói và có niềm tự hào cho tất cả
mọi người.
Theo tôi nên gọi ngày 30/4 là ngày hòa giải và hòa hợp dân tộc.