Trần Quang Thành (Danlambao)
- Nhân ngày kỷ niệm lần thứ 67 bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền Phổ Cập, nhà
báo Trần Quang Thành đã có cuộc trò chuyện sau đây với ông Nguyễn Gia
Kiểng, ủy viên thường trực ban lãnh đạo Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên, về ý
nghĩa của biến cố quan trọng này trong lịch sử thế giới. Đây cũng là dịp
để hiểu rõ hơn khái niệm nhân quyền và liên hệ của nó với dân chủ, đồng
thời cố gắng nhận định xem thế giới, và nhất là Việt Nam, đang ở đâu
trong cuộc hành trình về tự do.
Nội dung như sau - Mời quí vị cùng nghe:
Trần Quang Thành: Xin chào ông Nguyễn Gia Kiểng.
Nguyễn Gia Kiểng: Xin chào ông Trần Quang Thành.
TQT: Thưa ông Nguyễn Gia Kiểng, cách đây 67 năm, vào ngày 10
tháng 12 năm 1948, tai Paris – Thủ đô Pháp Quốc – Bản Tuyên ngôn Quốc tế
Nhân quyền đã ra đời. Theo ông Nguyễn Gia Kiểng sau 67 năm bản Tuyên
ngôn đã được thực thi như thế nào ạ?
NGK: Trước hết tôi nghĩ thế giới đã tiến một bước rất xa về nhân
quyền. Vào giờ này chúng ta có thể lạc quan. Mặc dầu chúng ta có thể
chưa thể hài lòng bởi vì quyền con người vẫn chưa được trọn vẹn tôn
trọng, nhưng nếu so sánh với 67 năm về trước thì chúng ta đã tiến một
bước rất xa.
Phải nói là bản Tuyên ngôn này dã ra đời trong một hoàn cảnh rất khó
khăn. Chúng ta cần nhắc lại hoàn cảnh ra đời của nó. Đó là nó không được
dự trù là sẽ có.
Khi Chiến Tranh Thế Giới Thứ Hai sắp kết thúc vào mùa Xuân 1945, một số quốc gia đã họp lại tại San Francisco (Mỹ) để dự định thành lập một tổ chức mới thay cho Hội Quốc Liên đã tỏ ra bất lực trong việc phòng ngừa Thế Chiến II xảy ra. Mục tiêu của họ là thành lập một tổ chức - mà sau này chúng ta được biết là Liên Hợp Quốc - với mục đích chính là ngăn ngừa một cuộc thế chiến mới.
Trong khi nghiên cứu soạn thảo bản hiến chương Liên Hợp Quốc có một số trí thức tập trung trong các tổ chức NGO, tức là các tổ chức phi chính phủ, được mời tới vì uy tín cá nhân hay tổ chức của họ để làm tham vấn trong việc soạn thảo hiến chương cho Liên Hợp Quốc. Những vị này trong khi thảo luận đã nhận ra một điều là nguyên nhân đã đưa đến hai cuộc thế chiến - thế chiến thứ nhất và thế chiến thứ hai - là ở chỗ người ta đã quá đề cao vai trò của quốc gia; hầu như người ta chỉ biết đến các quốc gia thôi mà không biết tới một yếu tố cốt lõi là con người. Bởi vậy họ đi đến kết luận là lần này muốn tránh một thảm kịch mới cho thế giới thì phải đặt con người là trung tâm của mọi ưu tiên chính trị. Nói một cách khác phải đề cao một luồng tư tưởng chính trị đã có từ thế kỷ 16, 17 nhưng luôn luôn bị chèn ép nên không phát triển được. Đó là chủ nghĩa cá nhân theo đó cá nhân mới là đối tượng phục vụ chính; nhà nước chỉ là một phương tiện bảo đảm cho cá nhân phát huy khả năng của mình và đóng góp vào xây dựng xã hội. Vì nhận định như vậy nên họ đã cố gắng đưa ngay vào Lời Nói Đầu của Hiến chương Liên Hợp Quốc là phải tôn trọng các quyền căn bản của con người trước khi nói tới sự liên hệ giữa các quốc gia với nhau. Dần dần họ đã thuyết phục được một phần dư luận.
Lúc ban đầu các quốc gia cũng không quan tâm lắm đến quyền con người. Lúc đó giá trị quan trọng nhất vẫn là quốc gia, là tổ quốc hay là giai cấp mà thôi. Ngay cả sự kiện bản tuyên ngôn này được ra đời cũng là kỳ công của một số trí thức. Phải nhớ lúc đó là đầu năm 1945, họ phải chờ đợi đến cuối năm 1948, nghĩa là hơn 3 năm rưỡi sau, mới hoàn tất được bản tuyên ngôn. Bản tuyên ngôn này dù vậy chỉ có giá trị nguyên tắc thôi. Nó còn cần được bổ túc bằng những điều khoản cụ thể trong hai công ước sau này được gọi là Công ước về các quyền dân sự và chính trị và Công ước về quyền kinh tế xã hội và văn hóa. Để soạn thảo hai công ước này đã phải mất thêm 18 năm nữa. Cho tới năm 1966 mới hoàn tất xong. Tuy hoàn tất xong, những các quốc gia quan trọng nhất, hai siêu cường lúc đó là Liên Xô và Mỹ, không đồng ý. Mỹ thì biểu quyết bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền Phổ Cập nhưng mãi đến năm 1977 mới ký hai công ước. Còn Liên Xô thì vắng mặt trong khi biểu quyết bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền Phổ Cập và đến khi sụp đổ vẫn không ký thông qua hai công ước về quyền con người. Hoàn cảnh khó khăn như thế nhưng ý niệm nhân quyền càng ngày càng lớn lên. Đến năm 1976, khi nhiều nước đã ký vào hai công ước về quyền con người, ba tài liệu Tuyên Ngôn Nhân Quyền Phổ Cập và hai công ước đính kèm được coi là luật quốc tế và từ nay có gia trị của công pháp quốc tế. Phải nói là chúng ta đã tiến một bước dài.
Khi Chiến Tranh Thế Giới Thứ Hai sắp kết thúc vào mùa Xuân 1945, một số quốc gia đã họp lại tại San Francisco (Mỹ) để dự định thành lập một tổ chức mới thay cho Hội Quốc Liên đã tỏ ra bất lực trong việc phòng ngừa Thế Chiến II xảy ra. Mục tiêu của họ là thành lập một tổ chức - mà sau này chúng ta được biết là Liên Hợp Quốc - với mục đích chính là ngăn ngừa một cuộc thế chiến mới.
Trong khi nghiên cứu soạn thảo bản hiến chương Liên Hợp Quốc có một số trí thức tập trung trong các tổ chức NGO, tức là các tổ chức phi chính phủ, được mời tới vì uy tín cá nhân hay tổ chức của họ để làm tham vấn trong việc soạn thảo hiến chương cho Liên Hợp Quốc. Những vị này trong khi thảo luận đã nhận ra một điều là nguyên nhân đã đưa đến hai cuộc thế chiến - thế chiến thứ nhất và thế chiến thứ hai - là ở chỗ người ta đã quá đề cao vai trò của quốc gia; hầu như người ta chỉ biết đến các quốc gia thôi mà không biết tới một yếu tố cốt lõi là con người. Bởi vậy họ đi đến kết luận là lần này muốn tránh một thảm kịch mới cho thế giới thì phải đặt con người là trung tâm của mọi ưu tiên chính trị. Nói một cách khác phải đề cao một luồng tư tưởng chính trị đã có từ thế kỷ 16, 17 nhưng luôn luôn bị chèn ép nên không phát triển được. Đó là chủ nghĩa cá nhân theo đó cá nhân mới là đối tượng phục vụ chính; nhà nước chỉ là một phương tiện bảo đảm cho cá nhân phát huy khả năng của mình và đóng góp vào xây dựng xã hội. Vì nhận định như vậy nên họ đã cố gắng đưa ngay vào Lời Nói Đầu của Hiến chương Liên Hợp Quốc là phải tôn trọng các quyền căn bản của con người trước khi nói tới sự liên hệ giữa các quốc gia với nhau. Dần dần họ đã thuyết phục được một phần dư luận.
Lúc ban đầu các quốc gia cũng không quan tâm lắm đến quyền con người. Lúc đó giá trị quan trọng nhất vẫn là quốc gia, là tổ quốc hay là giai cấp mà thôi. Ngay cả sự kiện bản tuyên ngôn này được ra đời cũng là kỳ công của một số trí thức. Phải nhớ lúc đó là đầu năm 1945, họ phải chờ đợi đến cuối năm 1948, nghĩa là hơn 3 năm rưỡi sau, mới hoàn tất được bản tuyên ngôn. Bản tuyên ngôn này dù vậy chỉ có giá trị nguyên tắc thôi. Nó còn cần được bổ túc bằng những điều khoản cụ thể trong hai công ước sau này được gọi là Công ước về các quyền dân sự và chính trị và Công ước về quyền kinh tế xã hội và văn hóa. Để soạn thảo hai công ước này đã phải mất thêm 18 năm nữa. Cho tới năm 1966 mới hoàn tất xong. Tuy hoàn tất xong, những các quốc gia quan trọng nhất, hai siêu cường lúc đó là Liên Xô và Mỹ, không đồng ý. Mỹ thì biểu quyết bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền Phổ Cập nhưng mãi đến năm 1977 mới ký hai công ước. Còn Liên Xô thì vắng mặt trong khi biểu quyết bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền Phổ Cập và đến khi sụp đổ vẫn không ký thông qua hai công ước về quyền con người. Hoàn cảnh khó khăn như thế nhưng ý niệm nhân quyền càng ngày càng lớn lên. Đến năm 1976, khi nhiều nước đã ký vào hai công ước về quyền con người, ba tài liệu Tuyên Ngôn Nhân Quyền Phổ Cập và hai công ước đính kèm được coi là luật quốc tế và từ nay có gia trị của công pháp quốc tế. Phải nói là chúng ta đã tiến một bước dài.
Liên Hợp Quốc ra đời như là một định chế để ngăn cản một cuộc thế chiến
mới, để ngăn cản chiến tranh lạnh giữa hai khối tư bản và cộng sản không
biến thành thế chiến nóng. Bây giờ chiến tranh lạnh không còn là một
nguy cơ nữa Liên Hợp Quốc bắt đầu có một vài trò mới là thăng tiến nhân
quyền. Cho nên chúng ta thấy có một định chế mới là Rà Soát Phổ Cập Định
Kỳ UPR như kỳ kiểm điểm tông quát năm 2014 ở Genève. Đây là một tiến
bộ. Năm 2014 cuộc kiểm điểm phổ quát định kỳ trong đó Việt Nam phải trả
lời, phải đưa báo cáo về nhân quyền. Cho tới ngày hôm nay khái niệm về
nhân quyền là một khái niệm được nhìn nhận và được sự tôn trọng của mọi
người, kể cả những người không thực hiện nó như các chế độ độc tài. Các
chế độ này không còn dám phủ nhận nhân quyền như trước nữa. Họ chỉ có
biện luận một cách lúng túng để trì hoãn việc thực thi nhân quyền mà
thôi.
Phải nói về mặt tư tưởng đã có một thắng lợi lớn. Và ngay cả về mặt thực
tế thì nhân quyền cũng đã trở thảnh ưu tư hàng đầu và trở thành áp lực
đối với các chính quyền độc tài còn lại. Như vậy chúng ta nhìn nhận tiến
bộ rất là lớn.
Nhưng bên cạnh những tiến bộ lớn cũng phải cảnh giác vì cũng có nguy cơ,
đặc biệt đối với người Việt Nam, bởi vì khi nhân quyền đã trở thành giá
trị phổ cập, đã được nhìn nhận như một giá trị tự nhiên thì người ta
không còn cảm thấy nhu cầu phải đào sâu để hiểu rõ hơn nữa, trong khi đó
người Việt Nam chúng ta có khuyết điểm là rất thiếu sót về nhận thức
chính trị. Nhưng chúng ta không thể bảo vệ một khái niệm khi chúng ta
chưa hiểu rõ được, chúng ta sẽ hành động một cách thiếu thuyết phục và
thiếu hiệu quả.
Tôi xin nêu một vài ngộ nhận lớn mà chúng ta chưa vượt qua được.
Thứ nhất là ngộ nhận cho rằng nhân quyền khác với dân chủ trong khi hai
khái niệm này là một. Nhân quyền là một vấn đề chính trị chứ không phải
là một vấn đề từ thiện như người ta nghĩ.
Điều thứ hai, cũng là một ngộ nhận rất lớn, là chúng ta nên sửa lại tên
gọi bản "Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền". Trước đây tôi nghĩ người ta đã
quen gọi như vậy nên cũng đành phải chấp nhận, nhưng sau này tôi thấy nó
sai quá đi, không những sai mà còn nghịch lý, còn ngược ngạo nữa, cho
nên tôi thấy cần phải sửa lại. Tôi đề nghị từ nay trở đi chúng ta gọi
một cách chính xác bản tuyên ngôn 10/12/1948, là bản Tuyên Ngôn Nhân
Quyền Phổ Cập chứ không phải là bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền nữa.
"Quốc tế" và "phổ cập" là hai khái niệm khác nhau, thậm chí còn đối chọi
với nhau nữa.
TQT: Ông vừa đề cập bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền Phổ Cập này như
là một văn kiện rất trong sáng, rất thuyết phục. Nhưng tại sao lúc đó Mỹ
và Liên Xô là hai siêu cường kiên quyết chống lại?
NGK: Họ chống lại vì hai lý do khác hẳn nhau:
Chúng ta đều biết nước Mỹ từ ngày thành lập đã theo chủ nghĩa cá nhân;
họ đã có dân chủ ngay từ ngày thành lập. Tôi xin nhấn mạnh là Hoa Kỳ từ
ngày thành lập đến nay không biết một chế độ nào khác ngoài chế độ dân
chủ. Cho nên Hoa Kỳ không cần dân chủ nữa vì họ đã có rồi và họ không
muốn bị ràng buộc vào một thế giới cũ, thế giới mà họ nghĩ còn nhiều
phức tạp và nhất là chưa có dân chủ. Họ không muốn ràng buộc với các
nước vào một tuyên ngôn hay hiệp ước về dân chủ. Đó là lý do của Hoa Kỳ.
Chúng ta nên nhớ là Hoa Kỳ chỉ ký nhận hai công ước nhân quyền năm 1977
sau khi Liên Hợp Quốc tuyên bố hai công ước này trở thành luật quốc
tế.
Lý do khiến Liên Xô chống lại hoàn toàn khác. Liên Xô chống dân chủ,
chống lại chủ nghĩa cá nhân. Liên Xô không muốn bị phê phán trong vùng
lãnh thổ thuộc quyền kiểm soát của mình. Lúc đó chúng ta đừng quên
Churchill gọi biên giới của các nước cộng sản là bức màn sắt. Tức là họ
không muốn ai can thiệp vào công việc nội bộ của họ. Họ muốn được quyền
tự tung, tự tác trong biên giới của họ, họ coi biên giới như là qui định
một vùng lộng hành tự do của họ. Vì thế họ không chấp nhận ký vào bản
Tuyên Ngôn Nhân Quyền cũng như hai công ước. Họ không muốn bị ràng buộc.
Cho tới ngày sụp đổ họ vẫn không ký các văn kiện này.
Khó khăn do đâu mà có? Chúng ta hãy trở lại bối cảnh chính trị lúc đó.
Trong dự án chính trị Khai Sáng Kỷ Nguyên Thứ Hai của Tập Hợp Dân Chủ Đa
Nguyên chúng tôi đã nhận định lịch sử thế giới như là cuộc hành trình
của các dân tộc về dân chủ. Dân chủ không tiến tới một cách đều đặn vì
bị chống đối rất là dữ dội của các thế lực cầm quyền thống trị. Cho nên
có lúc tiến, có lúc lùi và tiến tới theo từng đợt mà chúng tôi gọi là
những làn sóng dân chủ. Trong lịch sử nhân loại dã có những làn sóng dân
chủ. Làn sóng dân chủ thứ nhất đến với cuộc cách mạng Hoa Kỳ và cuộc
cách mạng Pháp cuối thế kỷ 18. Làn sóng đó nhắm đánh đổ chủ nghĩa thần
quyền và các chế độ quân chủ đặt trên nền tảng trên thần quyền.
Sau làm sóng dân chủ thứ nhất, các chế độ thần quyền bị đánh đổ, chủ
nghĩa quốc gia trở thành thời thượng. Chủ nghĩa tập thể đó cho rằng quốc
gia, tổ quốc là trên hết, con người chỉ là một thành phần và có thể bị
hy sinh cho tập thể. Tập thể đó có thể là quốc gia trong trường hợp Quốc
Xã Đức hay Quân Phiệt Nhật. Cũng có thể là một thế giới vô sản, có thể
là một giai cấp theo quan niệm của chủ nghĩa cộng sản. Thế chiến thứ
nhất đã xảy ra là vì chủ nghĩa quốc gia trở thành quá khích. Hồi đó
người ta cho rằng các quốc gia xung đột với nhau, thanh toán lẫn nhau là
lẽ tự nhiên vì quốc gia nào cũng đương nhiên phải mở rộng lãnh thổ và
bành trướng thế lực của mình. Nó đã dẫn tới cuộc thế chiến thứ nhất. Và
thế giới cũng chưa biết rút ra kết luận nguyên nhân sâu xa đó và đã để
xảy ra Thế Chiến II. Chúng ta thấy có sự gần gũi giữa hai cuộc thế
chiến. Thế Chiến I chấm dứt năm 1918 thì 21 năm sau vào năm 1939 Thế
Chiến II bắt đầu. Khi họp lại và thảo luận người ta mới khám phá ra điều
này, và cũng không phải không phải là các quốc gia khám phá ra mà một
số trí thức. Họ khám phá ra rằng nguyên nhân sâu sa là vì tư tưởng chính
trị của nhân loại đã dành cho quốc gia một vị trí quá lớn và đã dành
cho cá nhân một chỗ đứng quá nhỏ. Bởi vì thế cần phải tuyên bố long
trọng những quyền con người.
Đến đây chúng ta phải nhắc lại công ơn của một thiểu số trí thức này.
Chính những cố gắng bền bỉ và thuyết phục của họ đã đem lại cho nhân
loại nền văn minh mới ngày hôm nay.
TQT: Ông Nguyễn Gia Kiểng vừa nói chúng ta cần phải gọi chính
xác văn kiên ngày 10/12/1948 là Tuyên Ngôn Nhân Quyền Phổ Cập chứ không
nên gọi là bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền. Tại sao phải gọi cho chính
xác như vậy thưa ông?
NGK: Phổ cập và quốc tế là khái niệm khác nhau. Sự lẫn lộn đưa
tới hậu quả là một sai lầm không thể chấp nhận được. Khi nói Tuyên ngôn
Quốc tế Nhân quyền người ta coi nhân quyền là vấn đề giữa các quốc gia
với nhau. Điều đó rất là sai. Vì nhân quyền là các quyền cá nhân. Chúng
ta hãy đọc lại bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền Phổ Cập. Không bao giờ họ đề
cập đến quyền của các nhà nước. Họ chỉ đề cập quyền của các cá nhân mà
thôi. Và vấn đề nhân quyền là một vấn đề phổ cập, nghĩa là một vấn đề mà
mọi người, mọi định chế, mọi quốc gia phải tôn trọng ở mọi nơi, mọi lúc
chứ không phải là một vấn đề trong bang giao giữa các quốc gia. Khi
chúng ta nói bản "Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền" vô hình chung chúng ta
coi nhân quyền là vấn đề giao thiệp giữa các nước và như vậy mỗi nước có
thể giải thích quyền con người một cách tùy tiện theo sở thích của
mình. Điều đó tai hại.
Tôi cho rằng nguyên nhân là trí thức Việt Nam không đầu tư nhiều vào tư
tưởng chính trị cho nên chúng ta đã dịch Universal thành ra "quốc tế"
nhưng Universal không bao giờ là "quốc tế" cả, nó có nghĩa là "phổ cập"
nghĩa là đúng mọi nơi mọi lúc. Dịch cái gọi là The Universal Declaration
of Human Rights hay Déclaration Universelle des Droits de l'homme thành
"Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền" là sai. Phải dịch là bản Tuyên Ngôn
Nhân Quyền Phổ Cập, nghĩa là các quyền con người phải được hiểu như nhau
và tôn trọng ở mọi nơi, mọi lúc chứ không phải là chuyện giữa các quốc
gia với nhau. Các quốc gia không được tự tiện giải thích nhân quyền theo
ý của mình. Tôi nghĩ gọi tên là "Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền" không
chỉ là một sai lầm mà là một sai lầm nguy hiểm. Nhân cuộc nói chuyện này
tôi đề nghị một lần cho tất cả chúng ta đổi lại cho đúng tên của nó,
chúng ta gọi một cách chính xác là bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền Phổ Cập.
TQT: Chúng ta nói về quyền con người vậy phải nói đến con
người. Hiện nay định nghĩa con người là thế nào trong triết lý chính trị
để đưa ra những tiêu chuẩn về quyền con người. Ông nghĩ sao?
NGK: Vẫn đề này hết sức phức tạp. Những tư tưởng về con người đã
xuất hiện từ thời Phục Hưng nghĩa là từ thế kỷ 16 trở đi, nhưng nó luôn
bị các thế lực thống trị, trước là các vua chúa và sau đó là các chính
quyền phủ nhận. Bởi vì định nghĩa con người đó không đơn giản. Ngay cả
nhiều triết gia nổi tiếng cũng không đồng ý lúc ban đầu. Người ta định
nghĩa một con người rất trừu tượng. Nó không phải là bất cứ ai mà là một
phần chung hiện diện trong tất cả mọi người. Nó rất trừu tượng nhưng nó
lại hiện diện một cách rất cụ thể trong tất cả mọi người. Đó là một lập
luận đúng về mặt triết lý nhưng rất khó hiểu đối với người bình thường.
Nói chung nó dựa trên một niềm tin rằng mọi con người đều có những cấu
tạo giống nhau, có những ưu tư, dằn vặt, những khả năng bẩm sinh như
nhau và đều chia sẻ với nhau một số nguyện vọng và một số giá trị nền
tảng. Như vây giữa các con người nó có một cái gì chung. Cái gì chung đó
người ta gọi là con người phổ cập. Nó không là ai cả, nhưng nó là tất
cả mọi người. Đồng thời chủ nghĩa cá nhân khi đưa ra con người này thì
cũng nhận định con người này mới là đối tượng phục vụ cao nhất; các nhà
nước, các chính quyền có sứ mạng phục vụ con người này chứ không được
quyền đàn áp con người này. Có thể nói việc khám phá ra con người chung,
con người phổ cập, này như vậy là một khám phá rất lớn. Về mặt tư tưởng
ngay cả các nhà tư tưởng lớn như Socrates, Plato, Aristottle cũng không
nghĩ tới. Đó là một khám phá về sau này. Có thể nói về mặt tư tưởng
khám phá lớn nhất của con người đã là khám phá ra chính mình. Ngay cả
những triết gia lớn như Edmund Burke và Joseph de Maistre, hai triết gia
có uy tín trong thế kỷ 18 và 19, cũng không hiểu con người trừu tượng
làm sao có thể có. Đối với họ chỉ có những con người chỉ là thành viên
của một đất nước, chỉ có người Pháp, Đức, người Việt Nam. Một trong
những người phản bác sự hiện hữu của con người phổ cập này là Karl Marx,
ông cho rằng con người định nghĩa như vậy là một con người tách khỏi xã
hội, là con người vị kỷ, không sống vì xã hội. Đối với Marx con người
là thành phần của một giai cấp và phải đấu tranh cho giai cấp của mình.
Chính vì những khó khắn đó mà khái niệm về con người phổ cập -nền tảng
cho chủ nghĩa cá nhân- và chủ nghĩa cá nhân - đến lượt nó nền tảng cho
dân chủ - vẫn chưa phát triển được cho đến khi có hai sự kiện trùng hợp.
Sự kiện thứ nhất là các khảo cứu về sinh vật học đều xác nhận mọi con người có những DNA như nhau, đều có khả năng như nhau.
Hai là các nước dân chủ, đặt nền tảng trên chủ nghĩa cá nhân đã thành
công hơn hẳn các nước độc tài, nhất là độc tài cộng sản, và chứng tỏ con
người cần phải được tôn trọng để có thể phát huy hết khả năng của mình
và khi phát huy được khả năng của mình thì đồng thời họ cũng đóng góp
tạo ra một xã hôi giàu mạnh. Đó là lý do khiến sau sự sụp đổ của bức
tường Berlin, của chủ nghĩa cộng sản, không còn ai chối cãi được quyền
con người, và sự cần thiết phải tôn trọng con người. Và gián tiếp họ
công nhận quyền con người phổ cập cần phải được kính trọng hiện diện
trong mọi con người.
TQT: Vậy những quyền của con người phổ cập là những quyền nào thưa ông?
NGK: Đó là những điều đã được qui định trong hai bản công ước đính kèm với Tuyên Ngôn Nhân Quyền Phổ Cập.
Tuyên Ngôn Nhân Quyền Phổ Cập đề ra nguyên tắc đề cao con người. Một đặc
điểm là bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền Phổ Cập đó không hề nói vai trò của
các quốc gia. Nó chỉ đề cao con người thôi chứ các chính quyền không hề
được dành cho một quyền nào mà chỉ được giao trách nhiệm phục vụ con
người thôi. Tuy vậy nó chỉ nói chung chung trên nguyên tắc về phẩm giá
con người và sự bắt buộc phải tôn trọng con người; những quyền con người
cụ thể được qui định cụ thể trong hai công ước đính kèm.
Trong hai công ước này họ chia ra những quyền dân sự và chính trị, hay
là quyền sống hàng ngày, quyền sinh hoạt trong xã hội, rồi loại quyền
thứ hai là những quyền kinh tế, xã hội và văn hóa. Nhiều quyền lắm. Có
đến mấy chục quyền.
Tuy nhiên về phương diện triết học chúng ta có thể chấp nhận sự phân
biệt của Isaiah Berlin một triết gia lớn nghiên cứu về các quyền tự do.
Ông ấy chia ra hai loại quyền. Thứ nhất là những quyền không bị và thứ
hai là những quyền được có.
Những quyền không bị là những quyền căn bản tối thiểu không bị xúc phạm
trong bất cứ trường hợp nào. Thí dụ như không bị xúc phạm đến cơ thể;
không bị xúc phạm trong đời sống gia đình; không bị xúc phạm tài sản;
không bị cấm đoán suy nghĩ và phát biểu một cách tự do lập trường của
mình; không bị cấm đoán bầu cử và ứng cử; không bị kỳ thị về chủng tộc,
về màu da, về tôn giáo hay về chính kiến. Những quyền này qui định trong
một không gian cá nhân mà tất cà mọi người, kể cả nhà nước, không được
xâm phạm. Đây là những quyền rất căn bản.
Còn những quyền được có là những quyền cá nhân có thể đòi hỏi cộng đồng,
thí dụ nhà nước, phải cung cấp cho mình và nhà nước hay cộng đồng phải
cung cấp trong khả năng có thể. Nước giàu thì trợ cấp xã hội nhiều, nước
nghèo thị trợ cấp xã hội ít, nhưng không được quyền bỏ rơi những người
yếu kém. Những quyền được có này chúng ta thường hiểu một cách cụ thể
như là mức sống và thực phẩm ở mức độ chấp nhận được, được bảo vệ sức
khỏe, được có nhà ở, được có công ăn việc làm, giáo dục miễn phí, được
trợ cấp sinh đẻ và nuôi con v.v…
Những quyền này được ghi trong hai công ước đính kèm Tuyên Ngôn Nhân
Quyền Phổ Cập. Điều chúng ta cần nói là hai loại quyền này đã từng bị
đem ra đối chọi với nhau, phủ nhận lẫn nhau thay vì bổ túc cho nhau như
đáng lẽ phải thế. Thí dụ như phong trào cộng sản và các chế độ cộng sản
hứa hẹn một tương lai rất huy hoàng, một thiên đường ở hạ giới trong đó
mỗi người làm theo khả năng, hưởng theo nhu cầu, mọi người đều sung túc
và có của cải gần như ngang hàng với nhau. Đó là những quyền được có và
họ nhân danh những quyền được có mà họ chỉ hứa hẹn nhưng không bao giờ
thực hiện để phủ nhận những quyền căn bản. Họ cấm đoán bầu cử tự do;
người dân không được đi lại tự do ; không được phát biểu ý kiến; không
được kết hợp với nhau thành những hội đoàn hay đảng phái.
Tới đây cũng phải nhấn mạnh một điều: nhân quyền và dân chủ chỉ là một.
Rất nhiều người đấu tranh cho dân chủ nhưng lại không chịu bỏ thì giờ
tìm hiểu thế nào là một chế độ dân chủ. Đây là dịp để chúng ta nhắc lại
một cách cụ thể và chính xác rằng một chế độ được coi là dân chủ nếu có
ít nhất ba quyền sau đây:
- Thứ nhất là quyền tự do ngôn luận và báo chí.
- Thứ hai là quyền tự do kết hợp, nghĩa là tự do thành lập và tham
gia các tổ chức nghề nghiệp cũng như các tổ chức chính trị, hay các
cộng đồng tôn giáo.
- Thứ ba là quyền tự do bầu cử và ứng cử. Tức là được quyền tham
gia ứng cử các chức vụ công cử cũng như được quyền chọn lựa người đại
diện của mình trong các chức vụ công cử.
Cả ba quyền này được định nghĩa trong Công Ước Về Các Quyền Dân Sự và Chính Trị.
Hai điều 18 và 19 qui định quyền tự do tư tưởng, ngôn luận và báo chí,
Điều 22 qui định tự do kết hợp.
Điều 25 qui định quyền tự do bầu cử và ứng cử.
Bạn nào có thời giờ đọc lại bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền Phổ Cập sẽ thấy
trong những điều tôi vừa nói trên đây, những điều qui định những quyền
tự do căn bản, đều có một câu giống hệt nhau. Câu đó viết như thế này: "Không
thể có một hạn chế nào cho quyền này, trừ những hạn chế do luật pháp
qui định và cần thiết trong khuôn khổ của một nhà nước dân chủ để bảo vệ
an ninh quốc gia, trật tự công cộng, sức khỏe của công chúng và tự do
của người khác."
Nghĩa là quyền này được qui định một cách rõ rệt trong bản Tuyên Ngôn
Nhân Quyền Phổ Cập và hai công ước đính kèm. Chúng qui định rất rõ ràng
ba quyền được dùng để định nghĩa về một chế độ dân chủ. Thế thì dân chủ
và nhân quyền chỉ là một thôi. Dân chủ là nhân quyền trên qui mô quốc
gia. Nhân quyền là dân chủ trên qui mô cá nhân.
Một số bạn mà tôi gặp thường nói: "tôi chỉ hoạt động nhân quyền thôi chứ tôi không muốn tham gia hoạt động chính trị".
Nói như vậy là sai. Vấn đề nhân quyền trước hết là một cuộc đấu tranh
chính trị cam go theo định nghĩa chính xác của nó. Nhân quyền và dân chủ
chỉ là một. Chỉ khác nhau trên qui mô áp dụng mà thôi.
TQT: Ông vừa đề cập đến các quyền của con người. Vậy cơ chế
nào bắt buộc mọi người, mọi quốc gia, mọi định chế phải thực thi một
cách đúng đắn nhất những quyền mà người dân được hưởng như vậy?
NGK: Tôi thấy chúng ta cần phải nhắc lại một lần nữa khái niệm chính đáng vì đó luôn luôn là cốt lõi của mọi luật pháp.
Một luật pháp cần phải có hai yếu tố thì mới là luật pháp:
Trước hết nó phải đúng. Bơi vì, như Socrates đã nói, luật không đúng
không phải là luật. Nhưng đúng chưa đủ, luật còn phải được ban hành bởi
một định chế có thẩm quyền.
Câu hỏi về tính chính đáng cũng đặt ra cho Tuyên Ngôn Nhân Quyền Phổ Cập và hai công ước đính kèm khi chúng ta đã gọi nó là luật quốc tế như bây giờ. Câu hỏi đặt ra là người tuyên bố quyền đó có thẩm quyền hay không?
Cho tới ít nhất là đến thế kỷ 18 các tôn giáo đã đóng vai trò quyền lập
pháp trong các chế độ quân chủ. Mười điều giáo lệnh là bộ luật dân sự
đầu tiên mà Moses nói là ông đã lên núi Sinai và được Thượng Đế ban cho
mang về. Và bởi vì Thượng đế là cao nhất, là tối thượng nên mọi người
phải nghe theo. Thượng Đế đã nói, và như thế là đã có sự chính đáng Cho
đến thế kỷ 18 sự chính đáng thuần túy dựa trên Thượng Đế. Và các tôn
giáo đóng vai trò lập pháp trong xã hội. Cho đến ngày hôm nay hiến pháp
của Hoa Kỳ vẫn nói Thượng Đế sinh ra con người bình đẳng với nhau và vì
thế phải có quyền ngang nhau.
Cuộc cách mạng Pháp 1789 là cuộc cách mạng chống chế độ quân chủ, nhưng
đồng thời cũng là cuộc cách mạng ít nhiều chống lại Thiên Chúa Giáo. Nó
phủ nhận vai trò tối cao của Thượng đế, phủ nhận sự tuân lệnh Thượng đế.
Vì thế trong bản tuyên ngôn được gọi là "Tuyên Ngôn Nhân Quyền và Dân
Quyền" họ nói là các đại biểu của nhân dân Pháp họp thành đại hội với
nhau và quyết định như vậy. Họ cho rằng các đại biểu của nhân dân có
quyền quyết định. Thế nhưng như vậy có ít nhất hai giới hạn:
- Thứ nhất là nếu đại hội này có thể quyết định như vậy thì đại hội khác cũng có thể quyết định khác đi
- Thứ hai là nếu một đại hội nhân dân Pháp đã chấp nhận bản Tuyên
ngôn Nhân quyền và Dân quyền thì một dân tộc khác như dân tộc Việt Nam,
dân tộc Congo, dân tộc Bỉ cũng có thể có một bản tuyên ngôn khác, và như
vậy không có giá trị phổ cập.
Bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền Phổ Cập mà chúng ta đang kỷ niệm lúc này - Bản
Tuyên ngôn đã được ký kết đêm hôm 10/12/1948 - lấy sự chính đáng dựa
trên đại diện của các dân tộc, của cộng đồng các quốc gia đại diện cho
toàn thể nhân loại để khẳng định các quyền cơ bản của con người. Tức là
đông đảo các quốc gia tự nhận là đại diện của nhân loại - nếu không phải
là tất cả nhân loại thì cũng là phần lớn của nhân loại- lấy quyền nhân
danh nhân loại để ban hành các quyền cho cá nhân. Đó là nền tảng chính
đáng. Có lẽ cũng vì thế bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền Phổ Cập có một sự
chính đáng mà không ai có thể phủ nhận.
Sự chính đáng của bản Tuyên Ngôn Nhân quyền phổ cập là do các đại biểu
của cộng đồng các quốc gia đại diện cho toàn thể nhân loại tuyên bố nên
nền tảng chính đáng của nó có lẽ là rộng nhất và phù hợp nhất trong lúc
này.
TQT: Xin cảm ơn ông Nguyễn Gia Kiểng.
NGK: Xin cảm ơn ông Trần Quang Thành.