Cao-Đắc Tuấn (Danlambao)
- Nhạc sĩ Nguyệt Ánh viết ca khúc "Cái Cò" nói về sự hy sinh
và nỗi cực nhọc của những người vợ chiến sĩ Việt Nam Cộng
Hòa (VNCH) sau khi chồng bị bắt đi tù cải tạo hoặc khi chồng
tuẫn tiết trong trận chiến khi quân cộng sản Bắc Việt xâm chiếm
miền Nam Việt Nam vào năm 1975. "Cái Cò" là một tác phẩm có
giá trị văn chương và lịch sử cao. Là một tác phẩm văn chương,
"Cái Cò" gói ghém những tinh hoa của các kỹ thuật thi ca và
văn học truyền thống Việt Nam như ca dao và thành ngữ, nói lên
những đức tính hy sinh, cần cù, can đảm, tháo vát, và chịu
đựng của phụ nữ Việt Nam. Là một tác phẩm lịch sử, "Cái Cò"
ghi nhận cuộc sống đen tối của dân miền Nam sau năm 1975, nhất
là vào cuối thập niên 1970 cho tới suốt thập niên 1980, và sự
tàn bạo của cộng sản Bắc Việt đối với quân cán chính VNCH và
thân nhân họ sau ngày cộng sản chiếm đóng miền Nam Việt Nam
vào năm 1975.
Nguyệt Ánh biểu lộ một tài năng khác thường trong "Cái Cò" qua
kỹ thuật xếp đặt giai điệu nhẹ nhàng với những thay đổi lên
xuống thích hợp cho những hành động hy sinh và cần cù của
người vợ, và cách dùng các kỹ thuật mô tả dung hòa việc tạo
sống động và gây cảm xúc cho người nghe. Ngoài việc dùng những
ẩn dụ tuyệt vời, Nguyệt Ánh phối hợp cách dùng từ ngữ theo
kiểu thành ngữ truyền thống Việt Nam với những từ ngữ mô tả
mạnh mẽ rất hiệu quả. Qua những kỹ thuật tinh vi, câu chuyện
của những người vợ chiến sĩ VNCH được kể trung thực rất cảm
động và tạo tác dụng mạnh trên người nghe.
Tôi có dịp nói chuyện với nhạc sĩ Nguyệt Ánh qua điện thoại
vào ngày 27-4-2015. Cô chia sẻ với tôi về ca khúc "Cái Cò" và
trả lời vài câu hỏi của tôi về bài hát. Cô cho biết cô viết
"Cái Cò" trong 4 năm, từ khoảng năm 1995 cho tới năm 1999, và đó
là bài hát cô bỏ nhiều thì giờ nhất. So với những bài cô chỉ
mất 5, 10 phút để viết, 4 năm quả thật là một thời gian dài.
Nhưng ta phải hiểu điều đó không có nghĩa Nguyệt Ánh suy nghĩ
viết "Cái Cò" liên tục trong 4 năm. Những người viết nhạc, làm
thơ, viết văn, vẽ, hoặc làm những công trình sáng tạo đều biết
tầm quan trọng của cảm hứng. Không có cảm hứng, một nhạc sĩ,
thi sĩ, hoặc văn sĩ khó lòng mà tiếp tục. Nguyệt Ánh cho tôi
biết quá trình viết "Cái Cò" thường bị gián đoạn vì cô thấy
vài chỗ "không ổn" và do đó phải sửa đổi. Cô tiếp tục thâu
lượm những mẩu chuyện có thật do những người trong cuộc, những
người vợ chiến sĩ VNCH hoặc con cháu họ, kể lại. Chính những
câu chuyện có thật rất thương tâm và cảm động này cho Nguyệt
Ánh cảm hứng để viết lời cho bản nhạc. Ngoài ra, vì "Cái Cò"
ghi nhận những mẩu chuyện có thật này, nó còn là tài liệu
ghi nhận của lịch sử truyền khẩu (oral history).
Sau đây là tiểu sử vắn tắt của tác giả.
Nhạc
sĩ và ca sĩ Nguyệt Ánh tên thật là Nguyễn Thị Nguyệt Ánh. Cô
là con của Đại Tá Nguyễn Văn Y, người chỉ huy cơ quan tình báo
VNCH đầu tiên. Năm 1975 khi cộng sản chiếm đóng miền Nam Việt Nam,
cô cùng cha mẹ và anh chị em di tản bằng đường biển, sau đó qua Mỹ
và định cư tại tiểu bang Virginia (Việt Báo 2012). Cùng với Việt
Dzũng và các ca/nhạc sĩ khác, Nguyệt Ánh tổ chức phong trào
Hưng Ca tại hải ngoại, hiện có các chi nhánh Đoàn Hưng Ca tại
Âu Châu, Úc Châu, và Hoa Kỳ. Qua những hoạt động văn nghệ trên
khắp thế giới, nhạc sĩ Nguyệt Ánh tích cực tham gia nhiều
hoạt động xã hội và tranh đấu cho tự do dân chủ tại Việt Nam
trong suốt mấy chục năm qua.
Nguyệt Ánh là tác giả nhiều ca khúc đấu tranh (Xem, Phong trào
Hưng ca Việt Nam), thí dụ như: Anh Vẫn Mơ Một Ngày Về (Em Vẫn Mơ Một
Ngày Về), Cái Cò, Bài Ca Hội Ngộ, Bài Ca Nhân Bản, Bài Hát Chống
Xâm Lăng, Biển Đông Dâng Sóng Tự Do, Chào Little Sài Gòn, Coi
Chừng Cái Lũ Công An, Dậy Mà Đi, Đêm Thương Nhớ Người, Mơ Tự Do,
Không Ai Ngăn Được Lời Ca, Một Góc Quê Nhà, Mưa Trên Quê Hương Tôi
(thơ: Đào Trường Phúc), Nước Cuốn Hoa Rơi, Nước Mắt Biển Đông,
Tình Ca Cho Nhau, Hát Cho Ngày Sài Gòn Quật Khởi, Một Lần Đi, Mưa Sài
Gòn Còn Buồn Không Em, Mưa Sài Gòn Nắng Cali, Nắng Quê Hương, Nước Trôi
Mồ Mẹ (thơ: Võ Đại Tôn), Sao Đành Xa Em (Sao Đành Xa Anh, Xin Đừng Bỏ
Anh), Tiến Quân, Trả Ta Sông Núi, Việt Nam Muôn Năm, Xuống Đường,
v.v...
Nguyên văn lời bài hát "Cái Cò" như sau, theo lời hát của chính tác giả Nguyệt Ánh (Nguyệt Ánh):
Cái cò lặn lội bờ sông, gánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non.
Thương em dạ sắt lòng son, một thân đơn chiếc nuôi con thăm chồng
Bàn tay ai tốt vàng ròng, bàn tay em nứt máu hồng tuôn rơi
Nhìn nhau muốn nói vạn lời, mà tim se thắt rối bời tâm can.
Cái cò ngày nay không còn gánh gạo
Gạo đã thành một quá khứ xa xôi
Cái cò ngày nay xuống biển tìm mồi
Ngô sắn khoai sùng ăn cầm chừng, nước mắt tuôn rơi.
Cái cò lặn lội bờ ao, bán giọt máu đào nuôi dưỡng đàn con.
Thương em lội suối trèo non, vùng kinh tế mới nuôi con thay chồng
Biển dâu đã hóa ruộng đồng, nhà tan nước mất vợ chồng chia ly
Chồng đi cải tạo không về, vợ đi tay cuốc tay cày đất hoang.
Cái cò ngày nay mơ tìm chén gạo
Giọt máu đào dành để bán nuôi con
Cái cò ngày nay gối mỏi chân mòn
Vai gánh vai gồng đi thăm chồng, cách núi ngăn non.
Cái cò lặn lội bờ đê, đói khổ trăm bề nước mắt đầy vơi.
Thương em tuổi mới đôi mươi, vì cơn quốc biến hoa trôi hương tàn
Chiều trên quốc lộ kinh hoàng, chồng em tuẫn tiết máu tràn như sông
Chồng em chiến sĩ anh hùng, vì dân chiến đấu thác cùng muôn dân.
Cái cò ngày nay đã thành góa phụ
Tay dắt mẹ chồng tay dắt đàn con
Muốn về làng quê, quê cũ không còn
Giặc bắt lên rừng đi vào vùng, chướng khí lam sơn.
Cái cò lặn lội bờ mương, vét cống đào đường gió rét lạnh căm.
Chồng em giặc bắt biệt tăm, tù Nam tù Bắc biết thăm nơi nào
Một đêm gió lộng mưa gào, được tin anh đã đi vào thiên thu
Chồng em chết giữa ngục tù, khổ sai đói rét cộng thù giết anh.
Cái cò một thân lên vùng đất lạ
Đến trại tù tóc quấn vành tang
Đếm từng mồ hoang máu lệ hai hàng
Đau xót cho chồng không mộ phần, không khói không nhang.
Trong bài này, tôi sẽ trình bày nhận xét về nội dung và hình
thức của "Cái Cò." Ngoài ra, như trong các bài viết về âm nhạc
trước, tôi sẽ chú trọng thảo luận chi tiết về các khía cạnh
văn chương của lời nhạc. Tôi dùng "khán giả" để chỉ người nghe,
người đọc, và người xem.
A. Bối cảnh lịch sử và văn chương của ca khúc "Cái Cò" về vợ người tù cải tạo và ý nghĩa con cò:
Ca khúc "Cái Cò" kể nỗi đau khổ và sự hy sinh của người vợ
tù nhân trong các trại tù cải tạo tại Việt Nam sau ngày cộng
sản chiếm đóng miền Nam năm 1975. Ngoài khía cạnh lịch sử về
trại tù cải tạo, bài hát còn dựa vào hình ảnh con cò để mô
tả người vợ tù nhân cải tạo. Hai khía cạnh lịch sử và văn
chương này đem những sắc thái đặc biệt cho "Cái Cò" ít thấy
trong những ca khúc khác.
1. Tù nhân trong tù cải tạo bị đối xử dã man và vợ con họ sinh sống cực khổ vì bị kỳ thị:
Sau sự xụp đổ miền Nam Việt Nam vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, cộng sản
Bắc Việt bắt đầu chiến dịch đàn áp có hệ thống và tàn bạo trên những
người Việt Nam, đặc biệt là những người thuộc chế độ Việt Nam Cộng Hòa
(VNCH) cũ. Hàng trăm ngàn nhân viên quân sự miền Nam và công chức dân
sự chính phủ VNCH bị đưa đến các trại cải tạo, một danh từ ngụy
trang cho ngục tù, nơi từ hàng chục ngàn tới hàng trăm ngàn
người chết vì đói, lạm dụng, bệnh, và hành quyết (Courtois 1999, 572;
Duiker 1995, 110; Duiker 1996, 363; Freeman 1995, 23; Sorley 1999, 383;
Võ 2004, 32). Cải tạo thực hiện bởi cộng sản Việt Nam vừa là
một phương tiện trả thù vừa là một phương pháp áp bức và
nhồi sọ (Sagan và Denney 1982).
Theo Lewis Sorley (1999), một sử gia Hoa Kỳ có uy tín, có lẽ
"65.000 người bị xử tử bởi những người giải phóng họ" và "có
đến 250.000 người bỏ mạng trong những trại cải tạo tàn bạo"
(Sorley 1999, 383). Có hàng trăm trại tù cải tạo, rải trên khắp
toàn thể Việt Nam cả ba miền Nam, Trung, Bắc (Nguyen 1983,
201-203). Những ước tính khác cho thấy 1 triệu nạn nhân đã bị giam
giữ không bị chính thức kết tội hay xét xử, 165.000 nạn nhân chết tại
các trại tù cải tạo, và có ít nhất 150 trại tù cải tạo sau khi Sàigòn
xụp đổ (Đỗ Ngọc Uyển; Đỗ 2010). Trong các trại tù cải tạo, tù nhân
bị đối xử vô nhân đạo qua những kỹ thuật như bỏ đói, thiếu
thốn chăm sóc y khoa, khủng bố, tra tấn, và xử tử tức khắc
(Nguyen 1983, 210-217; Vo 2004, 121-126; 133-142; 151-158). "Bị thường
xuyên bỏ đói và khổ sai, những tù nhân VNCH trong các trại cải
tạo chịu đựng đủ loại bệnh hoạn, đưa đến hàng ngàn cái chết
không ghi sổ" (Wiest 2008, 284). Hành quyết tù nhân trong tù cải
tạo thường xảy ra tại chỗ và không theo thể lệ thích đáng
hoặc chỉ là hình thức đại khái (Vo 2004, 139; Hồ 2008). Việc
không chôn cấ̉t người chết cũng dùng để nhục mạ gia đình nạn
nhân (Vo 2004, 141). Rất nhiều vụ hành quyết xảy ra bất hợp
pháp và luôn được che giấu. Do đó, rất nhiều tù nhân mất tích,
không rõ sống chết thế nào. Xác họ không bao giờ được trả về
cho gia đình, và khiến cho biết bao nhiều gia đình đau khổ vì
nạn nhân không được chôn cất tử tế để được cúng kiến cho siêu
thoát (sđd., 142). "Và bằng lối hành xử dã man, rừng rú này,
cộng sản đã phạm 5 trong số 11 Tội Ác chống Nhân Loại (Crimes against
Humanity) theo luật pháp quốc tế" (Đỗ Ngọc Uyển).
Thành viên gia đình của những người phục vụ cho Việt Nam Cộng Hòa hoặc
QLVNCH bị đối xử như là chia tội họ (Denney 1990). Con cháu các viên
chức chính phủ và sĩ quan quân đội chế độ cũ bị kỳ thị trầm trọng (sđd.).
Các thành viên gia đình bị từ chối việc làm và con cái họ không được
phép hoàn thành cấp độ giáo dục cao hơn (Freeman 1995, 93; Nguyễn
2012, 529).
Thăm nuôi tù cải tạo rất quan trọng cho tù nhân. Ngoài chuyện
được người thân yêu "thăm," người tù còn được thực sự "nuôi" vì
người đến thăm mang theo thực phẩm (Sagan và Denney 1982). Vợ
của những người tù cải tạo thường là những người đàn bà
không có nghề nghiệp chuyên môn và là nội trợ thuần túy. Khi
chồng bị đi tù cải tạo, họ và con cái phải làm việc cực
nhọc, nhiều khi phải xin xỏ, từ thức ăn tới quần áo. Con cái
họ phải lo thân như bán báo, xin ăn, hoặc mò thùng rác. Họ làm
việc cực khổ đêm ngày tại vùng kinh tế mới cho hai bát cơm
mỗi ngày (Vo 2004, 126). Với những người có khả năng ̣đi thăm
nuôi, chuyến đi tới trại tù thường nguy hiểm vì trại tù ở xa
xôi, thiếu thốn đường xá và an ninh ở vùng quê (sđd., 127).
Vùng kinh tế mới là sáng kiến của đảng cộng sản để cô lập
và kiểm soát dân. Trên lý thuyết, các vùng kinh tế mới gia tăng
sản xuất thực phẩm; nhưng trên thực tế chỉ là các trại tập
trung nằm tại các nơi núi rừng sốt rét, đất đai khó trồng
trọt, và chỉ là các dự án lao động cưỡng bách (Sagan và
Denney 1982; Nguyen 1983, 222). Gia đình những người tù cải tạo
bị ép buộc phải tới vùng kinh tế mới (Sagan và Denney 1982).
"Để bắt buộc dân đến vùng kinh tế mới, đảng cộng sản Việt Nam
dùng những thủ đoạn như hăm dọa tống họ đến trại tù cải
tạo, thu hồi thẻ khẩu phần để họ không còn có thể mua nhu yếu
phẩm hàng ngày như gạo và quần áo ở giá chính thức, vả
không cho phép con cái họ đi học" (Nguyen 1983, 219).
Ngoài những tài liệu nghiên cứu khách quan do các học giả lịch
sử có tên tuổi, có rất nhiều hồi ký, lời tường thuật, của
các tù nhân cải tạo và những người vợ của các tù nhân cải
tạo (Xem, thí dụ như, Chúc Thuần, Hồ 2008, Kale 2002, Nguyễn 2003,
Thanh Minh, Trần 2015) nói về cách đối xử tàn nhẫn vô nhân đạo
của cộng sản với tù nhân trong các trại tù và cuộc sống nhọc
nhằn của những người vợ tù cải tạo. Sự ngược đãi và chính
sách tàn bạo của nhóm cầm quyền cộng sản với các tù nhân
cải tạo và thân nhân họ là một sự thật không thể chối cãi
được. Tuy nhiên, vào tháng tư năm 2015, giáo sư Vũ Quang Hiển của
Đại học Quốc gia Hà Nội tuyên bố rằng không có ngược đãi các quân
cán chính VNCH sau 1975 và không có tù đày tại các trại tập
trung cải tạo (BBC 2015). Sự chối bỏ một sự thật hiển nhiên qua
một sử gia quốc doanh cộng sản cho thấy tâm địa gian manh và
đầu óc ngu xuẩn của nhóm cầm quyền cộng sản tại Việt Nam
hiện nay. Gian manh vì chúng muốn ếm nhẹm và bao che tội ác
chúng. Ngu xuẩn vì việc ếm nhẹm và bao che đó có phản tác
dụng mạnh mẽ, vì người dân sẽ tự hỏi, "Với những việc hiển
nhiên rõ ràng như vậy mà chúng còn chối bỏ, thì với những
việc chưa được phanh phui, chúng còn bao che và lấp liếm như thế
nào?"
2. Con cò được dùng để ám chỉ người đàn bà Việt Nam cho sự cần cù làm việc và lòng dạ trong sạch:
Văn chương Việt Nam, nhất là ca dao tục ngữ, thường dùng thú
vật làm biểu tượng hoặc ẩn dụ cho nhân vật hoặc khái niệm
nào đó. Có những hình ảnh thông thường được nhiều dân tộc
khác trên thế giới dùng. Thí dụ như chim bồ câu tiêu biểu cho
hòa bình, ong bướm cho chuyện ái tình liên hệ tình dục trai
gái, chó cho lòng trung thành. Có những con vật đặc biệt dùng
trong văn chương Việt Nam cho các biểu tượng đặc thù. Thí dụ,
con cá cho con cái trong nhà ("Cá không ăn muối cá ươn/ Con cãi cha mẹ trăm đường con hư"), con chim cho con gái ("Chim khôn lót ổ lựa nhành/ Gái khôn lựa chốn trai lành gửi thân").
Tuy nhiên, một biểu tượng đặc sắc nhất trong văn chương Việt Nam
là con cò dùng làm biểu tượng cho phụ nữ Việt Nam dưới vai
trò người mẹ hoặc người vợ (Wikipedia 2015). Biểu tượng con cò
cho phụ nữ Việt rất có ý nghĩa vì nhiều lý do như sau.
Trước hết, con cò là một sinh vật thường thấy trong vùng đồng
quê Việt Nam. Do đó, con cò mang nặng hình ảnh đất nước Việt
Nam và liên hệ đến cuộc sống hàng ngày của dân Việt vì đồng
quê là phần quan trọng của đời sống dân Việt.
Thứ nhì, con cò có hai chân khẳng khiu, cánh cò mỏng manh, thân
hình nhỏ bé, cho thấy thể chất yếu đuối của người phụ nữ.
Tuy nhiên, hình ảnh mỏng manh đó tương phản với ý chí kiên trì
và nhẫn nại của cò và do đó nói lên được sức mạnh tinh thần
của người phụ nữ Việt Nam.
Thứ ba, con cò đi kiếm ăn hoặc lấy mồi nuôi con với một mức độ
kiên trì, cần cù, và nhẫn nại thật đáng kể (Sue 2014). Cò săn
mồi theo cơ hội, dò dẫm qua các vũng nước cạn nơi đồng ruộng
ao hồ, ngoặm mồi bằng mỏ nhọn. Bản chất cần cù, kiên trì
thường có với người phụ nữ Việt Nam qua việc nuôi con, tần tảo,
làm lụng, trong việc quán xuyến mọi việc trong gia đình. Người
mẹ, người vợ Việt Nam hy sinh cho con, cho chồ̀ng, cặm cụi kiếm
sống, chịu đựng mọi muôn ngàn đắng cay cho con, cho chồng như
được thể hiện qua câu ca dao sau (Wikipedia 2015):
Con cò lặn lội bờ sông,
Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non.
Thứ tư và đặc biệt nhất, con cò có lông màu trắng, tượng trưng
cho sự tinh khiết và trong sạch, một đặc điểm của phụ nữ
Việt Nam. Ý nghĩa này được nổi bật trong câu ca dao sau (Huy
2014; Wikipedia 2015):
Con cò mà đi ăn đêm,
Ðậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao.
Ông ơi ông vớt tôi nao!
Tôi có lòng nào, ông hãy xáo măng.
Có xáo thì xáo nước trong,
Ðừng xáo nước đục đau lòng cò con.
Đã có nhiều thảo luận cho việc dùng "con" và "cái" cho giống
đực và giống cái. (Xem thí dụ như, Ngô 2009; Nguyễn 2007; Nguyễn
2010). Tuy vẫn còn nhiều tranh cãi, thông thường, chữ "cái" khi
dùng ̣để ám chỉ giới tính thường ngụ ý phái nữ. Tuy "con cò"
là danh từ chung có thể dùng cho cả giống đực và giống cái,
"cái cò" đặc thù dùng cho giống cái một cách nhấn mạnh.
B. Bài hát
kể cuộc đời nhọc nhằn của người vợ lính VNCH và tù cải tạo
dưới sự đối xử tàn nhẫn vô nhân đạo của cộng sản
Ca khúc "Cái Cò" kể những nỗi khổ đau và cực nhọc của những
người vợ chiến sĩ VNCH và tù nhân tại các trại cải tạo sau
năm 1975. Bài hát không nói về câu chuyện của một người vợ
nào, mà là câu chuyện tổng quát về cuộc đời những người vợ
của quân cán chính VNCH sống trong chuỗi ngày lầm than dưới sự
áp bức của nhóm cầm quyền cộng sản sau 1975.
Bài hát mở đầu bằng cuộc gặp gỡ ngắn giữa người chồng trong
tù cải tạo và người vợ đi thăm nuôi chồng. Người vợ trèo non
lội suối đi thăm nuôi chồ̀ng là tù cải tạo trong trại tù xa
xôi. Nàng thương nhớ chồng và khóc cho thân phận bị ngược đãi ("Cái cò lặn lội bờ sông, gánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non"). Câu mở đầu này lấy từ câu ca dao, tạo nên nền tảng của câu chuyện về người vợ tần tảo nuôi chồng.
Gặp nhau trong giây phút ngắn ngủi, người chồng thương xót cho
vợ mình kiên tâm trì chí, chung thủy với chồng. Chỉ có một
thân một mình, nàng tận tụy nuôi con và thăm viếng chồng bị tù
đày xa xôi ("Thương em dạ sắt lòng son, một thân đơn chiếc nuôi con thăm chồng").
Trong khi tay những người đàn bà khác đẹp đẽ tươi tốt như vàng
bạc, tay của nàng nứt nẻ khô cằn rướm máu vì làm lụng cực
khổ ("Bàn tay ai tốt vàng ròng, bàn tay em nứt máu hồng tuôn rơi").
Hai người nhìn nhau trong cuộc hội ngộ ngắn ngủi, muốn nói
với nhau biết bao nhiêu lời kể lể tâm sự, nhưng nỗi tái tê và
hỗn loạn tâm hồn khiến họ không nói nên lời ("Nhìn nhau muốn nói vạn lời, mà tim se thắt rối bời tâm can").
Người vợ bây giờ không còn gánh gạo nữa vì lúa gạo không có,
là thứ xa xỉ phẩm, và thuộc về quá khứ. Nàng bòn thức ăn
từng chút một, như ngô sắn khoai sùng, để ăn sống qua ngày trong
nỗi khổ đau buồn thảm ("Cái cò ngày nay không còn gánh gạo/ Gạo
đã thành một quá khứ xa xôi/ Cái cò ngày nay xuống biển tìm mồi/ Ngô sắn
khoai sùng ăn cầm chừng nước mắt tuôn rơi"). Cảnh thiếu ăn,
thiếu gạo là thực trạng xảy ra tại Việt Nam sau ngày cộng sản
Bắc Việt chiếm đóng miền Nam. Sau khi thu chiếm miền Nam, nhóm
cầm quyền cộng sản Bắc Việt phá hoại kinh tế đất nước và đem
mức sản xuất nông nghiệp của miền Nam có thời cao nhất Đông
Nam Á xuống thấp nhất, đến độ phải vay mượn thực phẩm từ các
quốc gia khác. Trong cuối thập niên 1970 và đầu thập niên 1980,
dân Việt không còn được ăn gạo thường xuyên nữa. Tại Sài Gòn,
"đô thị lớn nhất miền Nam từ thừa mứa gạo trong suốt 300 năm qua, lần
đầu phải ăn độn khoai mì, khoai lang, kể cả bo bo, thứ hạt cứng ngắc mà
Liên Xô viện trợ" (Quốc 2015a). "Loại bo bo mà dân Việt một thời phải
trệu trạo nhai để sinh tồn còn gọi lúa miến (sorghum)" (Quốc 2015b).
Khoai sùng là loại khoai lang bị sùng ăn và phá hoại. Sùng,
còn gọi là sùng đất hoặc bọ dím, hà, là ấu trùng của bọ
hung. Chúng ăn và phá ruột củ khoai khiến củ khoai thay đổi mùi
vị, trở thành đắng và không thể ăn được, ngay cả cho gia súc.
Người vợ không quản khó nhọc, vẫn ráng làm lụng cực khổ để
nuôi đàn con nheo nhóc. Tài sản đã mất hết, không còn gì để
bán nữa, nàng chỉ còn những giọt máu đào trong cơ thể phải
bán đi để có tiền hoặc tem phiếu cho thực phẩm mang về nuôi
con. Nàng bị ép buộc phải lội suối trèo non đi tới vùng kinh
tế mới xa xôi, cố gây dựng cuộc sống nơi đất đai cằn cỗi, làm
lụng thay chồng nuôi đàn con ("Cái cò lặn lội bờ ao, bán giọt máu đào nuôi dưỡng đàn con/ Thương em lội suối trèo non vùng kinh tế mới nuôi con thay chồng").
Hình ảnh người dân bán máu để sinh sống không xa lạ gì với
dân Việt Nam, ngay cả hiện nay. Trong cuối thập niên 1970 và đầu
thập niên 1980, dưới thời bao cấp, cuộc sống người dân rất cực
khổ, thức ăn thiếu thốn. Do đó, dân nảy ra nhiều kế sinh nhai.
Một trong những kế sinh nhai đó là "nghề" bán máu. "Những
người bán máu là những người dân nghèo nhất; họ không còn gì
khác để bán nữa" (Thành 2002). Ngoài ra, như trình bày ở trên,
các vùng kinh tế mới chỉ là biện pháp nhóm cầm quyền cộng
sản phân tán và kiểm soát dân. Người dân, nhất là thân nhân của
những tù nhân cải tạo, bị ép buộc phải đi tới những nơi đất
đai cằn cỗi, rất khó trồng trọt. Nhiều người phải bỏ vùng
kinh tế mới, trở về thành phố đô thị, sống lây lất với người
quen.
Cuộc đời dâu bể bây giờ biến thành cuộc đời sống còn. Đất
nước đã bị cộng phỉ chiếm đóng, nhà cửa, tài sản bị chúng
cướp đoạt, vợ chồng ly tán. Chồng bị bắt đi tù cải tạo biết
bao nhiêu năm không thấy về. Vợ bị ép buộc đi vùng kinh tế xa
xôi hẻo lánh, cày sâu cuốc bẫm đất đai cằn cỗi hoang vu, cố
gắng trồng trọt ("Biển dâu đã hóa ruộng đồng, nhà tan nước mất vợ chồng chia ly/ Chồng đi cải tạo không về, vợ đi tay cuốc tay cày đất hoang").
Nàng bây giờ chỉ ước mơ có được chén cơm bát gạo để nuôi con
và sống qua ngày. Nàng phải lấy sức, để dành giọt máu đào
để bán khi cần phải nuôi con. Nhưmg cuộc sống quá gian nan, nàng
kiệt lực vì làm lụng vất vả, bây giờ đầu gối chân và gót
chân mòn mỏi vì phải lê bước khắp nơi. Thêm vào đó, nàng phải
gồng gánh gói kiện thức ăn mang đến thăm nuôi chồng đi qua những
nơi xa xôi hiểm trở, núi non ngăn trở ("Cái cò ngày nay mơ tìm
chén gạo/ Giọt máu đào dành để bán nuôi con/ Cái cò ngày nay gối mỏi
chân mòn/ Vai gánh vai gồng đi thăm chồng cách núi ngăn non").
Nàng kéo lê cuộc đời cực khổ đói khát với nỗi đau buổn tức
tưởi. Nàng còn quá trẻ, chỉ mới đôi mươi mà phải trải qua
biết bao nhiêu đau thương trong cuộc đời vì biến cố quốc gia
khiến cuộc đời nàng trôi nổi lầm than, nhan sắc phai tàn ("Cái cò lặn lội bờ đê, đói khổ trăm bề nước mắt đầy vơi/ Thương em tuổi mới đôi mươi, vì cơn quốc biến hoa trôi hương tàn").
Nàng tiêu biểu cho những người vợ của chiến sĩ VNCH đã anh
dũng hy sinh cho tổ quốc hoặc bị cộng sản bắt giam trong những
trại tù cải tạo tàn bạo sau ngày 30 tháng 4 năm 1975.
Chồng nàng là người chiến sĩ tuẫn tiết trên quốc lộ khi chống
trả quân thù, không chịu đầu hàng trước lũ giặc xâm lăng. Máu
anh tuôn ra lai láng như nước sông lan tràn. Anh ngã gục chết
cùng với hàng ngàn người dân mà anh cố bảo vệ ("Chiều trên
quốc lộ kinh hoàng, chồng em tuẫn tiết máu tràn như sông/ Chồng em chiến
sĩ anh hùng, vì dân chiến đấu thác cùng muôn dân"). Hình ảnh
người lính VNCH tuẫn tiết không đầu hàng giặc cộng sản là
hình ảnh oai hùng nhất trong cuộc chiến, vì họ bảo tồn Danh
Dự họ, theo đúng ba điều Trách Nhiệm, Danh Dự, và Tổ Quốc của
QLVNCH. Trong cuộc chiến, có rất nhiều trường hợp lính VNCH
tuẫn tiết trong trận. Bài hát "Anh không chết đâu anh"của Trần
Thiện Thanh nói đến viên đạn cuối cùng mà trung úy Nhảy Dù
Nguyễn Văn Đương dùng để tuẫn tiết năm 1971. Vào những ngày cuối
cùng của miền Nam Việt Nam, biết bao nhiêu chiến sĩ VNCH đã
tuẫn tiết, từ binh sĩ tới năm vị tướng (Nguyễn 2015a; Nguyễn
2015b).
Chồng chết, nàng trở thành góa phụ, nhưng nàng vẫn không quên
bổn phận làm dâu và người mẹ. Nàng dắt díu mẹ chồng và các
con đi về quê. Nhưng quê nàng đã tan hoang. Nhà cửa tài sản đã
bị lũ cộng sản chiếm đoạt. Nàng bị ép buộc đi lên nơi rừng
sâu nước độc vùng kinh tế mới ("Cái cò ngày nay đã thành góa
phụ/ Tay dắt mẹ chồng tay dắt đàn con/ Muốn về làng quê, quê cũ không
còn/ Giặc bắt lên rừng đi vào vùng chướng khí lam sơn").
Nàng là thiếu phụ lặn lội kiếm ăn, vét cống đào đường làm
lụng cực nhọc, trong cơn gió lạnh rét căm căm. Chồng nàng bị
giặc cộng sản bắt đi tù cải tạo, thay đổi trại tù từ Nam ra
Bắc biệt tăm tin tức, khiến nàng không biết anh ở đâu để đi thăm
nuôi ("Cái cò lặn lội bờ mương, vét cống đào đường cái rét lạnh căm/ Chồng em giặc bắt biệt tăm, tù Nam tù Bắc biết thăm nơi nào").
Thế rồi, vào một đêm mưa giông bão tố, có người đến báo cho
nàng một hung tin. Chổng nàng bị giặc cộng giết trong trại tù
khi anh bị đói rét lao động cực hình ("Một đêm gió lộng mưa gào, được tin anh đã đi vào thiên thu/ Chồng em chết giữa ngục tù, khổ sai đói rét cộng thù giết anh").
Chuyện tù cải tạo bị giết trong tù được biết rõ. Những vụ
giết người có đủ mọi lý do: tù nhân trốn thoát, tù nhân làm
loạn, theo dự tính trước với những tù nhân không có hành động
phản kháng, bắn giết khơi khơi không có lý do (Vo 2004, 139-140).
Đau đớn cùng cực, nàng đi tới trại tù xa xôi, nơi vùng đất xa
lạ. Đầu quấn khăn tang, nàng cố tìm mộ chồng. Nàng đi qua từng
ngôi mộ hoang, hy vọng tìm được mộ bia khắc tên chồng, nhưng
không tìm được mộ anh. Nước mắt dầm dề, nàng thương xót cho
người chồng bất hạnh, chết đi mà không được chôn cất mộ phần
để được khói nhang thờ phụng ("Cái cò một thân lên vùng đất lạ/
Đến trại tù tóc quấn vành tang/ Đếm từng mồ hoang máu lệ hai hàng/ Đau
xót cho chồng không mộ phần không khói không nhang"). Đối với
truyền thống văn hóa Việt Nam, không có mộ phần, nhang khói cho
người chết là một nỗi đau đớn tủi nhục nhất cho thân nhân
người quá cố. Như đã trình bày trên, có rất nhiều vụ hành
quyết xảy ra tại trại tù và xác nạn nhân thường không được
trả về cho thân nhân. Đây là một hành động tàn ác nhất của
cộng sản, tạo đau thương cho gia đình nạn nhân cho biết bao năm.
Tóm lại, "Cái Cò" không phải là một câu chuyện đặc biệt về
một người vợ lính VNCH nào đó, mà là các câu chuyện tiêu biểu
cho những người vợ chiến sĩ VNCH. Những người vợ này phải
làm việc cần cù, thăm nuôi chồng nơi tù cải tạo xa xôi, đi tới
các vùng kinh tế mới với đất đai hoang dã, nuôi đàn con và săn
sóc cha mẹ chồng, làm tròn bổn phận của người con dâu, người
vợ, và người mẹ. Họ phải chịu đựng nhọc nhằn, đói lạnh, và
nỗi thống khổ khi người chồng chết trong chiến trận hoặc bị
cộng sản giết trong ngục tù cải tạo.
C. Bài hát
có giai điệu chậm buồn nhưng thay đổi, và lời ca có cấu trúc
thăng bằng với cách dùng chữ có hiệu quả:
Ca khúc "Cái Cò" là lời kể cuộc đời cực khổ lầm than của
người vợ chiến sĩ VNCH. Bài hát thể hiện nỗi niềm thê lương
này với giai điệu chậm buồn, được đưa đẩy khéo léo qua vần
điệu của thể loại thơ lục bát, và có những đoạn thơ theo thể
thức cố định tạo nên âm điệu và tiết tấu thay đổi.
Một đặc điểm của "Cái Cò" là cách dùng điệp ngữ để nhắc đi
nhắc lại lời ca đi sâu vào tâm trí khán giả. Đây là hình thức
của tiểu điệp khúc (refrain), rất thường dùng trong nhạc và thơ
khi một hình ảnh quan trọng nào đó được nhắc đi nhắc lại
nhiều lần. Tiểu điệp khúc là một hay hai câu trong một phiên
khúc, thường nằm ở cuối hoặc ở giữa phiên khúc, và được lập
lại để tạo một tác dụng nào đó (thí dụ, tóm tắt, nhấn
mạnh, vần điệu) cho phiên khúc đó. Tiểu điệp khúc không mang ý
chính của toàn thể bài hát như điệp khúc, và thường chỉ có
tác dụng trên phiên khúc đó mà thôi.
Bài hát gồm có bốn phiên khúc chính. Mỗi phiên khúc có hai
phần. Mỗi phần khởi đầu bằng "cái cò" cho thấy hình ảnh con
cò xuất hiện liên tục, khiến âm hưởng này được vang vang trên
khắp bài và khán giả liên tục duy trì hình ảnh này trong suốt
bài hát. Hình ảnh cái cò lặn lội săn mồi cũng được lập đi
lập lại nhiều lần: "lặn lội bờ sông," "lặn lội bờ ao," "lặn lội bờ đê," và "lặn lội bờ mương." Trong
cách dùng tiểu điệp khúc này, Nguyệt Ánh cho chút thay đổi,
giúp cho hình ảnh được linh hoạt: con cò không bỏ sót chỗ nước
nông nào để tìm thức ăn: sông, ao đê, mương. Con cò đi tìm thức
ăn ở khắp nơi, nói lên sự cực nhọc của người vợ, lội suối
trèo non, đi thăm nuôi chồng, đi làm lụng ở vùng kinh tế mới.
Bốn phiên khúc của bài hát theo quy luật khá chặt chẽ.
Phần đầu của mỗi phiên khúc là tám câu thơ lục bát. Câu thứ
hai (câu tám chữ) của tám câu này phá luật gieo vần lục bát:
vần gieo vào chữ thứ tư thay vì chữ thứ sáu:
Cái cò lặn lội bờ sông,
gánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non.
...
Cái cò lặn lội bờ ao,
bán giọt máu đào nuôi dưỡng đàn con.
...
Cái cò lặn lội bờ đê,
đói khổ trăm bề nước mắt đầy vơi.
...
Cái cò lặn lội bờ mương,
vét cống đào đường gió rét lạnh căm.
Cách gieo vần biến thể này giúp cho âm điệu bài hát thêm phần
linh động và tránh sự buồn tẻ đều đều khi mô tả những hoạt
động đi kiếm ăn, làm lụng của con cò. Các câu thơ lục bát sau
đó trong phiên khúc đa số gieo vần rất chỉnh, không gượng ép,
giúp hình ảnh mô tả được trôi chảy một cách tự nhiên.
Phần thứ hai của mỗi phiên khúc là bốn câu với thể thức cố
định: ba câu đầu có bảy hoặc tám chữ/ âm tiết có cùng trường
độ và câu thứ tư có mười một chữ/ âm tiết. Thể thức cố định
này tạo nên cấu trúc đặc thù cho bài hát và giúp cho giai
điệu có được sự thay đổi để tránh âm điệu đều đều buồn tẻ.
Ta biết những ca khúc được phổ thành nhạc từ thơ thường mắc
phải một vấn đề là có tiết điệu đều đều, thiếu linh động,
và do đó chỉ thích hợp cho một số câu chuyện hoặc tình tiết.
Khi bài thơ gốc là thơ theo thể loại lục bát, vấn đề này lại
càng trầm trọng hơn. Một thí dụ điển hình là ca khúc "Tưởng
Như Còn Người Yêu" ("Ngày mai đi nhận xác chồng/ Say đi để thấy mình không là mình...")
do Phạm Duy phổ nhạc từ bài thơ lục bát của thi sĩ Lê Thị Ý
(Đinh 2009). Bài hát này có tiết điệu đều đều, thích hợp với
lời than khóc của một thiếu phụ mất chồng. Ngược lại, ca khúc
"Cái Cò" không phải là lời than vãn thở than của người vợ có
chồng đi tù cải tạo mà là câu chuyện về cuộc đời cực khổ
và những hy sinh lớn lao của người vợ chiến sĩ VNCH. Câu chuyện
đó cần có những sắc thái linh động và giai điệu thay đổi để
vẽ ra hình ảnh sống động của người vợ. Do đó, phần hai của
mỗi phiên khúc cho nét thay đổi đó và giúp câu chuyện thêm phần
xúc động.
Câu chót của phần hai là câu dài, gồm 11 chữ/ âm tiết. Nguyệt
Ánh dùng câu dài này để diễn tả ý tưởng có chút phức tạp,
giúp giai điệu thêm linh động và tiết tấu kéo dài tạo âm hưởng
lan rộng. Ta hãy nghe âm hưởng của các câu dài này:
Ngô sắn khoai sùng ăn cầm chừng, nước mắt tuôn rơi.
...
Vai gánh vai gồng đi thăm chồng, cách núi ngăn non.
...
Giặc bắt lên rừng đi vào vùng, chướng khí lam sơn.
...
Đau xót cho chồng không mộ phần, không khói không nhang.
Trong mỗi câu, 7 chữ đầu mô tả hành động hoặc cảm xúc, 4 chữ
sau đưa ra một khía cạnh tổng quát của hành động hoặc cảm xúc
đó như ̣để tóm tắt. Do đó, 4 chữ này có tiết tấu kéo dài
vì tác dụng là tạo âm hưởng trên người nghe. Thí dụ, câu 7 chữ
"Ngô sắn khoai sùng ăn cầm chừng" mô tả hành động ăn cầm chừng ngô sắn khoai sùng. Câu 4 chữ "nước mắt tuôn rơi"
cho thấy hình ảnh tổng quát về hành động đó, và câu này cần
được tạo tác dụng trên người nghe nên được kéo dài.
Nguyệt Ánh dung hòa kỹ thuật "cho thấy" và "kể" một cách điêu
luyện, khiến khán giả vửa được lôi cuốn vào câu chuyện vừa có
cảm xúc mạnh mẽ. Những từ ngữ "cho thấy" súc tích nhưng rất
sống động, khiến câu ca càng tạo tác dụng mạnh mẽ trên khán
giả. Thí dụ, "lặn lội," "tay . . .nứt," "tuôn rơi," "se thắt," "rối
bời," "lội suối trèo non," "tay cuốc tay cày," "vai gánh vai gồng,"
"tuẫn tiết," "máu tràn," "tay dắt," "vét cống đào đường," "biệt tăm,"
"gió lộng mưa gào,"và "máu lệ hai hàng." Bên cạnh những từ ngữ
"cho thấy" này, những từ ngữ "kể" giúp dung hòa hình ảnh và
tạo nên giao động lên xuống một cách cân bằng cho người nghe: "đói khổ trăm bề," "kinh hoàng," "thác cùng muôn dân," "đi vào thiên thu."
Ngoài ra, Nguyệt Ánh vận dụng nhóm chữ có bốn chữ có hai vế
đối chiếu, thông dụng trong thành ngữ tiếng Việt, tạo nên hương
vị dân tộc của lời ca, giúp khán giả liên tưởng ý nghĩa của
con cò trong ca dao và tục ngữ. Các nhóm chữ bốn chữ này còn
giúp câu thơ trôi chảy và tượng hình: "dạ sắt lòng son," "lội
suối trèo non," "nhà tan nước mất," "tay cuốc tay cày," "gối mỏi chân
mòn," "vai gánh vai gồng," "cách núi ngăn non," "hoa trôi hương tàn,"
"chướng khí lam sơn," "vét cống đào đường," "gió lộng mưa gào."
Nguyệt Ánh dùng mỹ từ rất hiệu quả. Với ẩn dụ cái cò cho
người vợ bao trùm cả bài hát, Nguyệt Ánh khéo léo tiếp tục
dùng những hoạt động của con cò là ẩn dụ cho các hành động
của người vợ. Thí dụ, "xuống biển tìm mồi" cho thấ́y
sự táo bạo của con cò, thường chỉ săn mồi nơi vùng nước cạn,
đi săn tới tận biển là nơi rất khó kiếm mồi. Câu đó là ẩn dụ
cho sự liều mạng của người vợ lao đầu vào những nơi khó khăn
kiếm sống vì bị quẫn túng. Các ẩn dụ khác cũng rất có tác
dụng mạnh. Thí dụ "hoa trôi" cho cuộc đời trôi nổi, "hương tàn" cho nhan sắc tàn phai.
Nguyệt Ánh có biệt tài dùng ngôn từ đơn giản nhưng mạnh mẽ,
gây cảm xúc mãnh liệt trên khán giả. Những từ ngữ này gợi
hình và vẽ ra những hình ảnh quen thuộc. Thí dụ như "Vai gánh vai gồng," "Tay dắt mẹ chồng tay dắt đàn con," "tù Nam tù Bắc biết thăm nơi nào," "Đếm từng mồ hoang."
Với những nhóm chữ đơn giản nhưng gợi hình tạo cảm xúc mãnh
liệt, người nghe tưởng tượng hình ảnh nàng dắt mẹ chồng và
đàn con, hai vai gồng gánh, chạy đôn chạy đáo từ Nam tới Bắc,
bước đi đếm từng ngôi mộ hoang, hai hàng lệ rơi lả chả. "Cái
Cò" khiến người nghe cảm thấy mũi lòng, xót thương cho người
vợ, và ngậm ngùi cho cuộc sống đau thương của nàng.
Tóm lại, các phiên khúc trong "Cái Cò" có cấu trúc thăng bằng,
xen lẫn các câu có âm tiết và thể thức không đồng đều với
các câu lục bát êm ái, tạo nên nét linh hoạt và sống động cho
câu chuyện buồn thảm cảm động của những người vợ lính VNCH có
chồng hy sinh anh dũng hoặc bị bắt làm tù cải tạo. Kỹ thuật
dung hòa giữa "cho thấy" và "kể," cách dùng chữ mạnh mẽ và
những nhóm bốn chữ, tạo nên một bức tranh sống động bộc lộ
hình ảnh người vợ miền Nam Việt Nam cần cù, hy sinh cho chồng
con.
Những câu chuyện có thật của những người vợ chiến sĩ VNCH
được kể qua ca khúc "Cái Cò" một cách rất cảm động. Qua những
chi tiết rõ rệt và mạnh mẽ, khán giả không thể không bùi
ngùi và xúc động về cuộc đời đau thương và sự hy sinh to tát
của những thiếu phụ miền Nam sống dưới sự đối xử tàn bạo
của nhóm cầm quyền cộng sản.
D. Kết Luận:
Ca khúc "Cái Cò" nói lên các đức tính hy sinh, cần cù, tháo
vát, và chịu đựng của những người vợ lính VNCH qua cuộc sống
nhọc nhằn của họ trong việc làm lụng nuôi con khi không có
chồng vì chồng chết trong chiến trận hoặc bị đi tù cải tạo.
Bài hát ca ngợi lòng dạ sắt son chung thủy của những thiếu
phụ chờ chồng trong ngục tù, và những cực khổ trong việc thăm
nuôi chồng trong tù cải tạo xa xôi. Bài hát diễn tả ý tưởng
hữu hiệu qua giai điệu êm ả nhẹ nhàng gây cảm xúc, cấu trúc
thăng bằng, và cách dùng chữ linh động.
Tuy có những người vợ bỏ chồng vì không đủ kiên nhẫn chờ đợi
hoặc vì có những cám dỗ khác, đa số người vợ miền Nam chờ
đợi chồng trong tù đày, làm lụng nuôi con, và chăm lo cha mẹ
chồng. Những hy sinh to tát này thường không được biết ơn đầy
đủ và không được nhắc nhở nhiều. Ca khúc "Cái Cò" đem lại
những công lao thường bị bỏ quên đó và là lời chứng cho một
quãng thời gian đen tối nhất trong lịch sử Việt Nam dưới sự
đàn áp vô nhân đạo của nhóm cầm quyền cộng sản Bắc Việt.
*
CẢM TẠ
Tôi xin có lời cảm tạ nhạc sĩ Nguyệt Ánh đã bỏ thì giờ quý
báu trong lúc bận rộn với các hoạt động văn nghệ để chia sẻ
với tôi về việc viết ca khúc "Cái Cò" và trả lời những câu
hỏi của tôi. Ngoài ra, tôi cám ơn các bạn trên trang mạng Dân
Làm Báo đã có lời khích lệ trong các bài về âm nhạc trước
và giúp tôi có ý định viết bài này, đặc biệt là lời yêu cầu
của bạn Thanh niên Việt.
Tài Liệu Tham Khảo:
BBC. 2015. 'Không có ngược đãi sau 30/4'. 18-4-2015.
Chúc Thuần. Không rõ ngày. Tâm Sự Của Một Người Vợ Tù Nhân "Cải Tạo". Không rõ ngày.
Courtois, Stéphane et al. 1999. The Black Book of Communism, Crimes, Terror, Repression, translated by Jonathan Murphy and Mark Kramer, Harvard University Press, Massachusetts, U.S.A.
Denney, Stephen. 1990. Human Rights and Daily Life in Vietnam.
Duiker, William J. 1995. Vietnam: Revolution in Transition, Second Edition, Westview Press, Colorado, U.S.A.
_________. 1996. The Communist Road to Power in Vietnam, Second Edition, Westview Press, Colorado, U.S.A.
Đỗ Ngọc Uyển. Không rõ ngày. Tù Cải Tạo: Tội ác chống nhân loại của Cộng sản VN. Không rõ ngày.
_________. 2010. Tội Ác Thủ Tiêu Mất Tích 165,000 Quân Dân Cán Chính Việt Nam Cộng Hòa. 1-2010.
Freeman, James M. 1995. Changing Identities: Vietnamese Americans, 1975-1995. Allyn and Bacon, Massachusetts, U.S.A.
Hồ Phú Bông. 2008. Cái Chết Của Chiến Sĩ. 28-10-2008.
Huy Phương. 2014. Bài thơ Con Cò và luận điệu áp đặt của văn học miền Bắc. 21-12-2014.
Kale. 2002. Hồi Ký Tù Cải Tạo - 17 năm trong các trại Tù Cải Tạo của Cộng Sản Việt Nam. 21-3-2014.
Ngô Nguyên Dũng. 2009. Nỗi băn khoăn của "con" và "cái" trong tiếng Việt. 19-11-2009.
Nguyen Van Canh. 1983. Vietnam Under Communism, 1975-1982. Hoover Institution Press, California, U.S.A.
Nguyễn Công Luận. 2012. Nationalist in the Viet Nam Wars: Memoirs of a Victim Turned Soldier. Indiana University Press, Indiana, U.S.A.
Nguyễn Hưng Quốc. 2010. Tiếng Việt: Cái và Con. 11-5-2010.
Nguyễn Hữu Lễ. 2003. Tôi Phải Sống.
Nguyễn Lộc Yên. 2015a. Chiến Sĩ VNCH, dù tử danh bất tử (Phần 1). 17-4-2015.
_________. 2015b. Chiến Sĩ VNCH, dù tử danh bất tử (Phần 2). 21-4-2015.
Nguyễn Sơn Hà. 2007. Cái Cò và Con Cò. 28-6-2007.
Nguyệt Ánh. Không rõ ngày. Cái Cò.
Phong trào Hưng ca Việt Nam. Không rõ ngày. Vườn Nhạc. Không rõ ngày.
Quốc Việt. 2015a. Nỗi ám ảnh... bo bo trong "đêm dài" đói kém. 4-4-2015.
_________. 2015b. Bo bo từ đâu ra? 8-4-2015. Tuổi Trẻ On-line.
Sagan, Ginetta và Denney, Stephen. 1982. Re-education in unliberated Vietnam: loneliness, suffering, and death. The Indochina-Newsletter, October-November 1982.
Sorley, Lewis. 1999. A Better War - The unexamined Victories and final tragedy of America’s last years in Vietnam. Hartcourt, Florida, U.S.A.
Sue. 2014. The patient hunter. 6-9-2014.
Thanh Minh. Không rõ ngày. Thân Phận Vợ Của Một "Tù Cải Tạo". Không rõ ngày.
Thành Văn. 2002. Nghề Lạ Ở Sài-gòn sau 75. 31-1-2002.
Trần Văn Giang. 2015. Đi thăm Chồng. 25-4-2015.
Việt Báo. 2012. Người Chỉ Huy Cơ Quan Tình Báo VNCH Đầu Tiên Đã Qua Đời. 8-2-2012.
Vo, Nghia M. 2004. The Bamboo Gulag: Political Imprisonment in Communist Vietnam, McFarland & Co Inc, North Carolina, U.S.A.
Wiest, Andrew. 2008. Vietnam's Forgotten Army - Heroism and Betrayal in the ARVN. New York University Press, New York, U.S.A.
Wikipedia. 2015. Hình tượng con Cò trong văn hóa. Thay đổi chót: 7-4-2015.
© 2015 Cao-Đắc Tuấn