23/4/15

Nhà Chính Trị và Nhà Thơ

Chính trị và Thơ
                                  Nhà Chính Trị và Nhà Thơ
                                   (để tưởng niệm Luật sư Lê Ngọc Chấn, phu quân nữ sĩ Vân Nương)
                                       nt   
          Trên chính trường VN từ 1940 đến 1986, có một nhà chính trị được nhắc nhở nhưng cũng là nhà thơ mà rất ít người biết đến. Ðấy là Luật sư Lê Ngọc Chấn, một đảng viên VNQDÐ. Làm tri huyện tại Thanh Hóa, bỏ về Hà Nội, tham gia VNQDÐ, hoạt động chống Pháp và chống cả Cộng sản. Sau vụ Ôn Như Hầu (1), Lê Ngọc Chấn vào Nam mở Văn phòng Luật sư (đã cùng Luật sư Vương Quang Nhường biện hộ cho Ba Cụt Lê Quang Vinh) nhưng hoạt động chính trị là chính,  phó hết việc nhà, việc gia đình cho vợ tận tụy đêm ngày để chồng yên tâm lo  chính trị.
          Lê Ngọc Chấn vốn không có khiếu thơ. Anh không làm thơ trong thời gian hoạt động chính trị, không làm thơ trong nhà tù. Anh chỉ bắt đầu làm thơ sau khi ra khỏi tù Cộng sản, trong cảnh nhà và cảnh tình đất nước héo hon, tan nát, lúc tuổi đời đã quá 60. Chỉ trong vòng không đầy hai năm, thơ của anh liên tiếp ra đời, so ra không mấy thua kém thơ của bao người sành sõi.
         Thơ của anh có thể tập trung vào hai chủ đề chính.
         A.- Tình tự Quê hương, Dân tộc.
          Lớp người của anh nào Phan Văn Hùm, Tạ Thu Thâu, Trần Văn Ân, Trần Văn Tuyên, Hồ Hữu Tường, Trương Tử Anh, Nguyễn Bảo Toàn, Nguyễn Ngọc Huy, Lương Trọng Nhân, Hoàng Tăng, Trình Minh Thế và bao bao nữa, tiêu biểu cho cả một giai đoạn dài loạn ly, đen tối của dân tộc. Bao nhiêu biến chuyển dập dồn liên tiếp hầu như thoat khỏi tầm tay và năng lực của người VN. Họ đã phải trải qua liên tiếp nào từ thời Pháp thuộc đến Nhật thuộc đến thời Việt Minh cướp chính quyền rồi cuộc kháng chiến chống Pháp,  thời bao chính phủ khập khiễng ở Miền Nam do ý đồ của Thực dân (chính phủ Lê Văn Hoạch, Nguyễn Văn Xuân, Trần Văn Hữu, Nguyễn Văn Tâm, Bữu Lộc)  rồi đất nước phải cảnh chia đôi, tiếp theo là nền Ðệ Nhất Công Hòa, rồi rồi nền Ðệ Nhị Cộng Hòa với tập đoàn tướng lãnh chuyên quyền, rồi Mỹ rút quân, Dương Văn Minh đầu hàng, cuối cùng Cộng sản chiếm trọn Miền Nam, phủ trùm lên dân tộc một chế độ sắt máu, đưa dân nước từ Bắc đến Nam vào cùng độ bi đát, điêu linh, có thể sắp sửa mất nước về tay giặc Tàu một khi tập đoàn Cộng sản còn thống trị đất nước như suốt 70 năm qua.
          Lớp người đó đã từng chứng kiến, vừa là chứng nhân vùa là nạn nhân của bao tấn tuồng thời cuộc đổi thay, đã tiếp xúc với bao tầng lớp nhân dân, với bao nhân vật tiêu biểu cho bao khuynh hướng Chính trị, Tôn giáo ; một số đã tham dự biết bao phong trào, hội nghị quốc nội cũng như quốc tế, nhìn ra được những cơ mưu xảo trá cùng những thủ đoạn bất nhân, những chủ trương, chính sách, những chiêu bài ma mị, những nhân danh quỷ quyệt, những trò tráo trở lật lường của quốc tế cũng như của bao tập đoàn trong nước giỡn đùa trên máu trên xương người dânViệt, trên mảnh đất nhỏ hẹp Việt Nam điêu tàn vì hận thù và bom đạn. Một quyển tiểu thuyết ‘Chiến tranh và Hòa bình VN’  hẳn phải dày bốn năm lần hơn tác phẩm của Léon Tolstoi. Có lẽ nên có một ‘Tòa án Dân tộc’ hay rộng hơn một ‘Tòa án nhân loại’ gấp mấy lần hơn Tòa án Nuremberg để xử lại tất cả từ Chủ nghia, Lý thuyết, Chủ trương, Chính sách, Ðường lối, Chiến lược, Chiến thuật đến âm mưu, thủ đoạn, ý đồ, mánh khóe, thủ thuật, toan tính, mưu đồ của quốc tế (Liên Xô, Trung quốc, Pháp, Anh, Mỹ, Nhật,…) và quốc nội (Chính phủ, tập đoàn, đảng phái, tôn giáo, phong trào,…) ; từ nhũng kẻ chủ chốt trách nhiệm đến những kẻ tay sai, a tòng ; từ Tư bản, Cộng sản, Quốc gia, tài phiệt,  đảng phiệt, giáo phiệt, quân phiệt đến những kẻ hoạt đầu, cơ hội, đầu cơ, tích trử, lợi dụng chiến tranh ; những tên con buôn nhỏ lớn, kể cả những nhà triết, nhà kỹ thuật, nhà văn, nhà thơ, nhà nhạc, kịch sĩ, ca sĩ, diễn viên điện ảnh, phóng viên báo chí, truyền thanh, truyền hình, những phong trào phản chiến, tả khuynh, hữu khuynh,…Vâng, thiết nghĩ nên có một Tòa án nhu thế, nên có ‘Cuộc Phán xét cuối cùng’  của lịch sử  để ‘trả lại cho César những gì của César’, để trả lại Công nghĩa cho người VN, minh oan cho dân tộc VN.
          
                      -Hành tinh kiệt sức dạt về đâu….(LNC)
          
          Cả hành tinh nầy, trái đất nầy kiệt sức vì hỗn mang của một VN điêu tàn, nơi tranh hùng tranh bá của số người ‘không óc tim vì không xót đau’ (LNC).

          Thơ Lê Ngọc Chấn không sôi nổi rộn ràng, không u uất, buồn đau, ngào nghẹn, không mang chở những ẩn ức, bi lụy, thê thiết dậy dàng cũng không hoài cảm xót xa về quá khứ mình hay ray rứt, ngậm ngùi dĩ vãng vàng son của dân tộc. Lê Ngọc Chấn đã từng tranh đấu, đã nếm chua cay, đã thấy mình thất bại, dân tộc mình thất bại, Lê Ngọc Chấn có ngậm ngùi nhưng không bi thương như một Ðặng Dung, cũng không ngạo mạn vì u uất như một Nguyễn Bính (trong ‘Bài Hành Phương Nam’).
                    Thấp thoáng giai nhân miền ảo giác
                    Muôn đời trần thế cháy tâm can
                    Ðược thua cũng chuyện thời cơ cả
                    Ta luận anh hùng giữa thế gian
  
                    Ngồi đây gát kiếm nhìn thiên hạ
                    Dĩ vãng trôi vào ánh mắt xanh
                    Thế sự âu đành cơ chuyển nước
                    Phong trần một kiếm nhục hòa vnh
                                           L.N.C. (Gió lộng bốn phương)
          Sài-Gòn vỡ, Miền Nam rơi, chế độ VNCH sụp,.., chế độ VNCH, một chế độ mà LNC cùng bao đồng chí và người yêu nước thương nòi không mấy ưa thích nhưng nghìn lần dễ chịu, tốt đẹp hơn so với chế độ của đối phương, và thân mình bắt buộc phải năm năm trong trại tù Cộng sản ‘Ðêm khuya khoắc lũng sâu vuợn hú, Sáng tinh mơ đầu rú cọp gầm, Bốn bề hiu hắt lạnh câm, Ðất xông khí đá trời ngâm sa mù’ (nt & tmx : VN tânhuyết sử diễn ca). Rồi ngày ra khỏi trại tù, bệnh tật, đau lên đau xuống, đôi chân từng lúc run run, nhìn nhà quạnh quẽ, nhìn vợ héo hon, nhìn dân nước rũ mòn kiệt quệ, con người chiến sĩ ấy thấy không còn khả năng gầy dựng lại giữa điêu tàn Ðau cho mình, đau cho đất nước, cái phong độ chiến sĩ vẫn âm ỉ từng cơn. Không thể thể hiện cái phong độ ra cho đời được nữa thì gởi vào thơ -bắt đầu làm thơ- để trấn át cô đơn, để giải bày, trao gởi với chính mình. Thơ làm chỉ cho mình đọc với người vợ hiền trong căn nhà đìu hiu, mõi mòn ngày lên đường đoàn tụ với con cái tại Pháp. Nhưng chế độ mới dễ gì buông tha. Ðối với họ, năm năm tù của anh quá ít, cái giá trả quá thấp cho nỗi căm hờn của họ trút đổ vào anh, vào bao người yêu nước, yêu dân. Họ biết rõ rằng với hiểu biết và khả năng của anh, với quá trình tranh đấu của anh, với sự yêu thương và kính mến của đồng chí, đồng bào và với uy tín cùng quen biết của anh với nhiều nhân vật ngoại quốc, sang xứ người, nhất định anh không ‘gát kiếm’ ngồi yên mà lại gây ra bao điều khó khăn cho chúng. Những người như anh, như Trần Văn Tuyên và bao bao nữa, chúng không làm cho sớm chết thì cũng phải điêu đứng, đọa đày ngay trong ‘tù ngục quê hương’(!). Và họ đã toại nguyện, anh đã phải chết trong lạnh buồn, tê tái sau khi ra khỏi tù không quá hai năm.
          Trong những ngày quạnh quẽ, vô tích sụ đó, còn biết làm gì hơn là ‘làm thơ’ như một Phan Bội Châu một thời bị thực dâm giam lỏng ở Huế. Làm thơ để phần nào tự mình ‘giải thoát’ cho mình vì rằng : ‘Phong vũ hoài nhân dư ý chí, Trần ai hại ngã đản văn chương’ - Nguyễn Thượn Hiền –(Mưa gió nhớ người thừa ý chí, Trần ai hại tớ, có văn chương – Dương Hồng Ngọc dịch – Trích trong ‘Thơ Nguyễn Du’ của Dương Hồng Ngọc, Institut du Sud Est ấn hành Paris 1983).
                    Thấp thoáng giai nhân miền ảo giác
                 Muôn đời trần thế cháy tâm can             (L.N.C.)
          Người viết liên tưởng đến lời thơ Nguyễn Du : ‘Trắc thân bất khuất hữu hình ngoại, Thiên tuế trường ưu vị tử tiền’ (tạm dịch : Hữu hình thân ấy không tồn tại, Vẫn nghĩ nghìn sau chuyện thế trần). Trước khi chết vẫn lo nghĩ chuyện nghìn sau nhân thế, Nguyễn Du thao thức về tấm lòng nhân đạo và lẽ chuyển dịch trớ trêu của Lẽ Ðạo đối với diễn tiến nhân sinh. Lê Ngọc Chấn gần gũi hơn, xót xa vì tình dân cảnh nước, không thể nào thanh thản, yên vui trước lầm than của dân tộc, giống nòi.
          Nỗi buồn cho vận nước, vận mình lắng đọng vào tim, âm ỉ đêm ngày nhưng Lê Ngọc Chấn không âm thầm chịu chết trong nỗi buồn đó. Cho dù trong thời còn sức lực, khả năng và điều kiện đấu tranh hay lúc ván bài ngã ngũ mà mình là kẻ thua cuộc  để cả đất nước, dân tộc phải bầm giập, tái tê thì vẫn nuôi mãi ‘muôn đời trần thế cháy tâm can’. Cái ‘cháy tâm can muôn đời trần thế’ đó, lúc nhìn lại mình không còn chút điều kiện vẫy vùng nào, đành gát kiếm luận anh hùng về mình, về người, chuyển thành lời nhắn nhủ với bạn bè và vói chính cả lòng mình :
                    -Quê hương mãi ở lòng ta đó
                     Vàng đá là đây nhắn nhủ lời
          Lời thơ không bi lụy, không xót xa. Lời thơ man mác ngân vang âm hưởng, mênh mang niềm tin và hướng vọng. ‘Nhắn nhủ’, vâng, nhắn nhủ, không đóng vai một ‘kẻ đi trước’, ‘kẻ đàn anh’ để chuyển giao, phó thác trách nhiệm cho người sau mà chỉ muốn chia sẻ, gởi trao trong thân thương, cảm thông, giao ngộ.
          Lê Ngọc Chấn không chán nản, tuyệt vọng. Anh âm thầm nhận chịu niềm đau và nỗi thất bại của mình. Trong tình thế không cho phép mình làm đuợc bất cứ gì, anh vẫn nuôi niềm tin và gây niềm tin đó nơi người, nơi đời :
                    -Ðoàn người lại thấy nắm tay nhau
                     Ca hát vui tươi khắp địa cầu
                     Chung sức chung lòng xây hạnh phúc
                     Từ ngày nay cho đến ngàn sau…
          Cái ‘nhìn’ của anh không còn giới hạn nơi người, nơi mảnh đất Việt Nam mà mở rộng đến nhân loại, đến toàn thể địa cầu. Do đâu ? Do tù Thơ :
                    -Nhưng có hồn thơ bỗng hiện về….
          Việt Nam hồi sinh, nhân loại hồi sinh do từ Thơ. Thơ, thứ rẻ tiền nhất thế giới, thứ không cần mua sắm bất cứ phương tiện vật liệu nào, thứ không có gía trị thực dụng nào cho cuộc sống thường nhật, thứ không là loại hàng hóa tiêu dùng, không tạo ra văn minh,..nhưng Thơ là ‘Tính thể’, là cái ‘Hồn’, là chất ‘Lửa thiêng’. Không có chất Lửa thiêng đó, con người bên ngoài phình ra nhưng bên trong teo lại chẳng khác tên khổng lồ múa may, hò hét mà không óc tim hay chỉ có óc tim của loài hổ sói.
          Thơ, vâng, Thơ là chất sống của người Việt Nam dù trí thức hay bình dân, dù xưa hay nay. Trong lúc thế giới ngày nay hầu như quên Thơ, không lắm tha thiết với Thơ thì người Việt Nam vẫn tiếp tục thích Thơ, nghe Thơ, ngâm Thơ, yêu Thơ và làm Thơ. Thơ để phản ảnh, để đề kháng, để giải tỏa, để trao gởi, cảm thông, để hướng vọng, dựng xây một trí tuệ hòa nhập khối óc với con tim,  đức tin và lý trí, tình và lý, con người với con người, con người với cuộc sống, với cuộc đời, con người với thiên nhiên, với Thuợng Ðế, với Lẽ Ðạo huyền vi để Văn minh và Văn hóa, tiến bộ và tiến hóa luôn luôn đồng hành, kết hợp, luôn luôn thăng hoa mình và xã hội.
                    -…Cùng nhau vào hội thơ nầy
                     Núi sông quy tụ, cỏ cây ngát mùa
                     Khúc đàn tuyệt diệu năm xưa
                     Dư âm đẹp mãi bến bờ trăng sao
                     Tâm tư cô đọng thưở nào
                     Lời thơ châu ngọc gởi vào thiên thu.
          Và Lê Ngọc Chấn làm thơ dù không năng khiếu về Thơ. Trước tiên có thể do nhu cầu của chính mình. Trong tình thế không tể ẩn náu vào một nơi nào bình an thì ẩn náu vào Thơ, sau đó để trao gởi, nhắn nhủ và tạo cảm thông.
                   -…Có những phút giây tứ dạt dào
                    Chuyện đời, chuyện nước, chuyện chiêm bao
                    Suối nguồn êm ả trôi ngoài nội
                    Ðể thấy người người nét nhã tao..

                    Ðô thị giờ đây vàng nắng úa
                    Mây trời lãng đãng giữa rừng thông
                    Ngồi đây gom lại niềm tâm sự
                    Nghe rộn lòng vui nỗi cảm thông..
          Thơ là để cảm thông, cảm thông những trắc trở, truân chuyên của phận người, của dòng đời nhân thế, cảm thông dòng lịch sử hưng phế, thăng trầm của dân tộc, của nhân loại nói chung. Có cảm thông mới có ‘hồi đầu’ để chung sức, chung lòng xây dựng những gì tốt đẹp cho nhau.
          Sống bên người vợ từng làm thơ trước anh lâu lắm, tiếp xúc với bạn bè cũng là những nhà thơ, bạn của vợ và bạn của mình (Mộng Tuyết, Uyển Hương, Như Hiên, Thu Nga, Tuệ Nga, Hoàng Hoa Trang, Cao Mỵ Nhân, Trần Thiện Hiếu,…), anh làm thơ tặng họ vì chỉ có họ mới cảm thông được tâm sự anh nhưng thật ra để ‘tự mình cảm thông, tâm sự với mình’ và trao gởi nguồn cảm thông đó đến mọi người vừa gây tin tưởng vừa như khuyến khích :
                    -…Từng lớp biển dâu từng lớp sử
                     Dòng đời  lặng lẽ buớc kiên trinh
                     Tơ vàng sợi óng thương thân kén
                     Bàng bạc hương trời tâm hướng linh..
                                            L.N.C.(Hoa thơ từng lớp rụng trang đời)
                       -…Mặc cho vật đổi với sao dời
                    Lời thơ tao nhã
                                             Niềm chung thủy
                    Mãi với thời gian, với đất trời !
                                             L.N.C.(Tô vẻ đẹp)
          Như đã nói, Lê Ngọc Chấn không hề phản ảnh cuộc sống chìm nổi của mình, không hề nhắc đến thời ‘oanh liệt’ (tạm gọi thế) của thuở làm quan, cáng đáng bao trách vụ trọng yếu,  không phản ảnh giai đoạn bi đát của lịch sử, cũng không nói đến thời gian khổ lụy nơi tù ngục, không hề đả động đến Cộng sản một lời nào. Anh không hoài cảm, tiếc nuối, không phẫn nộ, hờn căm, không quy lỗi cho ai. Hầu như nơi anh, vấn đề là do lịch sử, do cuộc đời thử thách chí hướng và can trường của kẻ trượng phu. Vì thế, có phải cảnh ‘Ngồi đây gát kiếm nhìn thiên hạ’ thì cái chí của kẻ anh hùng, cái hoài bảo ‘xoay bạch ốc lại lâu đài’ như một Cao Bá Quát xưa kia cũng không lúc nào không sôi động nơi tấm lòng con người ‘muôn đời trần thế cháy tâm can’ :
                    -…Nợ sông hồ ai trả ai vay
                     Trải bước thăng trầm cuộc tĩnh say !
                     Chí cả vươn theo dòng thế sự
                     Ðường trần đâu mõi cánh Bằng bay !
                                                   (Nợ sông hồ)
          ‘Cánh Bằng không mõi cánh’, tấm lòng trung dũng với ước non, dân tộc, không vì gian nan mà lịm tắt. Anh đem cất giữ vào tim, vào óc, chờ lúc lại sãi cánh tung bay. Từng đêm, từng đêm, nhìn lại quãng đời đầy gảy đổ của mình, anh có ray rứt vì thế sự mang mang thì vẫn vang vang lời hò hẹn với non sông ;
                    -…Mộng hồng một thưở hương gay gắt
                     Rượu đắng thiên thu khó cạn sầu
                     Vũ trụ mang mang vòng ảo ảnh
                     Giang sơn hò hẹn trắng canh thâu !
                                                  (Nợ sông hồ)
          Nhìn chung, tình tự dân tộc, quê hương, đất nước nơi Lê Ngọc Chấn rộn ràng, sôi nổi nhưng lắng chìm vào bên trong , thể hiện ra bên ngoài bằng nỗi niềm cảm thông trao gởi, nhắn nhủ một cách nhẹ nhàng trong lúc  thâm tâm vẫn trĩu nặng thương đau cùng lúc với lời ‘vàng đá sắt son’ cùng dân tộc, giống nòi. Dù không gặp mặt Lê Ngọc Chấn, chỉ riêng qua thơ anh, ta thấy rõ cái ‘sĩ khí trượng phu’ của tinh thần Nho giáo nơi một kẻ tân học, có vấp ngã, có khổ lụy nhưng nhận chịu, không trách mình, không oán người, không tìm cách đổ lỗi và biện hộ, luôn luôn nưôi dưỡng cái chí khí nơi mình dù thời thế đảo điên không cho mình cơ duyên thực hiện.
          Chỉ một lần, một lần duy nhất, qua bài ‘Kiếp đọa đày’, anh mới phản ảnh ít nhiều số kiếp lầm than của nhân dân, cái hiện thực bi đát của lịch  sử bấy giờ vì không thể ‘nén’ đau thương trước cảnh những em bé bị giập giồi vì sóng biển trên nhũng mảng bè vuợt biển mỏng manh, èo ụt, phải làm  mồi cho kình ngư hay vùi sâu vào đáy đại duơng.
          Anh có oán trách, phẫn nộ không vì phận mình trôi nổi, thân mình bị kẻ thù tra khảo mà chỉ vì ‘lòng nhân đạo’ nơi con người, lòng nhân đạo mà ít nhiều ai cũng có –ngoài bọn Cộng sản- Lòng nhân đạo đã kết tụ nơi anh tấm ‘tình nhân loại’ mà anh diễn tả trong một số bài thơ khác.‘tình nhân loại’ đó lại là động lực để anh tin tưởng, đồng thời cũng là động cơ để anh tranh đấu.
          Tình tự dân tộc còn được phản ảnh nơi anh về truyền thống lịch sử của giống nòi. Anh gợi lại vẻ đẹp của đất nước và lịch sử dựng nước, giữ nuớc mà tất cả đều rõ, không cần thiết trích ra nơi đây. Cái quê hương đó, cái lịch sử đó đang bị xéo dày, tiêu tan hết mọi vẻ đẹp, mọi nét kiêu hùng bỡi lũ người chạy theo ngoại bang, bán đứng giang san, tổ quốc :
                    -..Cuộc đời dâu bể đa đoan
                     Bao năm đất mẹ lầm than rối bời
                     …..
                     Rừng sâu biển thẳm một trời đau thương
                     Giáo điều áp đặt từ chương
                     Phuơng trình xứ lạ, Quê Hương điêu tàn..
                                                      L.N.C. (gia tài của Mẹ)
          Nhưng, mọi người Việt Nam đang nơi quê hương lầm than hay nơi hải ngoại tha phương vẫn
                    -..Cùng nhau nghĩa nặng đất trời
                     Hồn thiêng quê Mẹ khôn rời tấc gang
thì rồi
                    -…Mai nầy khơi lại niềm tin
                     Gia tài Mẹ đấy nhịp tim phục hồi !
          Niềm tin đó luôn sống động nơi anh để càng truân chuyên, càng bị đày đọa, anh càng thấy NÓ rực sáng thêm lên.

          B.- Lòng nhân đạo của loài người. Lòng nhân đạo, dễ hiểu thôi, đấy là tình thương giữa người và người ra tay đùm bọc, giúp đỡ, cứu vớt người qua cơn hoạn nạn, tai ương. Lòng nhân đạo trở thành cái ‘Tình nhân loại’ nơi con người, nơi tất cả mọi người, nơi tất cả mọi dân tộc, ngoại trừ số người ‘không óc tim vì không xót đau’. Chính đấy là yếu tố đưa con người từ trạng thái dã thú sang trạng thái con người có văn minh, văn hóa :
                    -Trong đêm dày tăm tối
                     Thời huyền sử mịt mùng
                     Bỗng con dã thú rùng mình đứng dậy
                     Ði hai chân, ngửa mặt nhìn trời
                     Và do một phép màu nhiệm nào
                     Một ánh trí tuệ, một tia nhân đạo
                     Ðã chói chang vào tim óc
                     Cho dã thú biết suy nghĩ, yêu thương
                     Ðể trở thành CON NGƯỜI ! 
                                                (Tia nhân đạo)
          Không có lòng nhân đạo đó, con người mãi mãi là dã thú dù có văn minh đến mấy. Ngày nay, ta thường gọi một kẻ nào đó, một nhóm nguời, một bộ tộc nào đó là  ‘dã man’, ‘man rợ’ vì đã thiếu lòng nhân đạo kia, dù họ có văn minh, tiến bộ như ta hoặc còn hơn ta nữa. Thế giới nầy đã phải trải chịu bao lần -đến nay vẫn còn- cái ‘dã thú’, cái ‘dã man’ của con người, không riêng từng người mà cả một lớp người tự khoác vào mình những nhân danh, nhãn hiệu tốt đẹp để thẳng tay bóc lột, đàn áp, sát hại, giết chóc bằng mọi thủ đoạn tàn ác, bất nhân hàng ngàn, hàng triệu sinh linh bằng mọi cách công khai hay ám tàng. Những kẻ đó, xét cho cùng, dù văn minh, tiến bộ gấp nghìn lần hơn ta thì cũng chỉ là những ‘dã thú’ thôi. Lịch sử thế giới đã phải trải qua bao chế độ ‘văn minh man rợ’ cùng cái ‘man rợ của văn minh’. Và Việt Nam đã là địa bàn phải gánh chịu cùng lúc cả hai thứ ‘man rợ’ đó, than ôi ! Vì thế, nhân loại chỉ thực sự đáng gọi là tiến bộ, đáng gọi là văn minh, văn hóa, thực sự trưởng thành khi lòng nhân đạo càng lúc càng nẩy nở tốt tươi. Lê Ngọc Chấn không cần triết lý, không cần dài dòng, không cần chứng minh qua bao thuyết tiến hóa, qua bao nguồn triết lý, tôn giáo, đạo đức, xác nhận ngay :
                    -Và từ đó mỗi lần hoa Nhân Ái bừng nở
                     Là một lần nhân loại LỚN thêm lên ! 
                                              (Tia nhân đạo)
          Lê Ngọc Chấn có thể đem kiến thức luật học của mình vào đây nhưng không cần thiết. Vì đây là Thơ không là luận thuyết về luật pháp. Ðối tuợng phục vụ của luật pháp là Công bình và sự Bình đẵng giữa nhau nhưng cứu cánh của Công bình, Bình đẵng chẳng là Tình thương sao, tình thương giữa từng người với từng người rồi mở rộng đến tất cả mọi người.
          Tình  thương đã khiến con người thực sự là người. Tình thương thể hiện nơi một người đối với một người không quen biết được gọi là ‘lòng nhân đạo’. Ðẹp biết bao việc làm của bao tấm lòng thiện nguyện, của các cơ quan từ thiện, của các Hội thiện nguyện quốc tế cùng bao kẻ vì lòng nhân đạo, vì tình yêu người, yêu đời đã cam chịu bao nhiêu gian khổ, thiếu thốn để cứu trợ, đùm bọc bao nhiêu nạn nhân bị bão lụt, động đất, sóng thần, bị bệnh dịch hoành hành, bị chiến tranh, bị khủng bố,…vì đã phần nào giảm thiểu đau khổ, đói nghèo, …cho bao nhiêu người chưa hề quen mặt, biết tên. Ðấy là điều mà Ðức Phật và Chúa Jésus đã căn dặn đệ tử mình ‘bố thí tay trao mà mắt nhắm’, ‘Tay phải trao mà không cho tay trái biết’.

          Tình Nhân loại đó đã đến với một phần nhân dân Việt Nam đã phải trải chịu cảnh đoạn trường lệ máu, bi thảm do cái ‘dã thú’ của một số người VN khác đang cầm quyền thẳng tay chà đạp đồng bào mình :
                    -Tôi viết ra đây khúc đoạn trường
                     Nước non tôi sống, nguời tôi thương
                     Một cơn bão táp mờ sông núi
                     Ðể giống nòi tan tác bốn phương..
          Lòng nhân đạo đó đã cứu sống hàng trăm ngàn, hàng triệu người VN thoát khỏi tử thần và đã cho họ cuộc sống yên bình nơi những xứ sở tự do. Họ đã từ cõi chết trở về cõi sống :
                     -… Vòm trời cao rộng
                     Ánh sáng tự do
                     Bàn tay người xoa dịu vết thương đau…
                                                        (Ðất Lành)
          Cảm tạ Thượng Ðế ! Cảm tạ loài người văn minnh có lòng nhân ái. Lời cảm tạ đó đã được người  Việt hải ngoại khắp năm châu đã nói, đã phổ vào Thơ, vào Truyện qua những trang thư, những bài báo tri ân và cũng đã dựng tượng đài kỷ niệm những tấm lòng cao quí tuyệt vời.
          Lê Ngọc Chấn không vượt biển, không là nạn nhân của bão tố, cuồng phong, không làm mồi cho kình ngư, hải tặc. Lê Ngọc Chấn chỉ nghe nói, nghe kể nhưng anh đã ‘sống’ cái kiếp bi thảm, thê lương của số đồng bào mình. Lê Ngọc Chấn đã xúc động trước lòng nhân đạo của loài nguời, cảm tạ và tri ân. Lòng cảm tạ không gởi riêng ai, riêng nhân dân và chính phủ nước nào mà gởi chung cho tất cả. Thực ra không riêng là lời cảm tạ mà là ‘Tiếng thốt’ cao lên từ cõi lòng sung sướng, từ nỗi xúc động dâng tràn bằng một cử chỉ, thái độ mạnh hùng, kính cẩn, nghiêm trang, bằng một lời tôn vinh mạnh mẽ về cái tính ‘Nhân Bản’ sâu dày nơi bao người không quen mặt biết tên, những con người thực sự văn minh và có văn hóa :
                    -Tôi đứng lên ! Cúi đầu chào thế kỷ
                     Ðẹp là đây ! Cao quí cũng là đây !
                     Người giúp chúng tôi thoát khỏi đọa đày
                     Ðể thực sự làm con người mãi mãi… 
                                                     (Ðất Lành)
          Lê Ngọc Chấn ‘cúi đầu chào thế kỷ’ vì chỉ ở thế kỷ nầy mới có sự ‘ra đi’ của người Việt Nam bất hạnh lũ lũ, đoàn đoàn, hàng hàng, lớp lớp trong bi thảm, tuyệt vọng, một cuộc ‘liều tử sinh’ nguy hiểm, một phiêu lưu vào hiểm họa, một mạo hiểm lao mình vào cõi chết để mong tìm được tự do sau những tháng ngày lệ đỏ, xương phơi nơi quê nhà.
        Lê Ngọc Chấn đã ‘cúi đầu chào thế kỷ’, nhân cách hóa thế kỷ nầy (Người giúp chúng tôi) với tất cả niềm sung sướng và niềm tin. Niềm tin vào cái tình nhân loại đó là một trong những điều mà anh đã đấu tranh  không riêng cho đất nước mình mà cho Con Người, cho nhân loại nói chung. Ðấy là một điều căn bản trong lý tưởng chiến đấu của anh. Tiếc thay anh đã phải hiu hắt ‘ra đi’ do cố tình, cố ý của Cộng sản để chúng ta u uất đau buồn vì mất đi một chiến sĩ đấu tranh cho nhân quyền, nhân bản.

        Cũng nên nói qua về ‘hình thức’ nơi thơ anh.
        Thơ người lớn tuổi và chỉ chuyên làm chính trị thường chú ý về nội dung, về ý, về tình hơn là về kết cấu, bố cục và lời thơ. Từ đó, Thơ không mắc phải tính cách cân nhắc từng chữ, từng lời sao cho trau chuốt, bóng bẩy, văn hoa. Ta không tìm thấy nơi thơ anh một hình ảnh nào nên thơ, thi vị, không một từ ngữ nào màu mè, không một biện pháp tu từ nào sinh động ; không đảo ngữ, ẩn dụ, thậm xưng, tỷ giảo, đảo ngữ, ngoa ngôn,…
        Thơ Lê Ngọc Chấn rất ‘hiền’, rất thật, dung dị, tự nhiên, không ‘phấn son’, đẻo gọt.Thơ anh, nhìn chung, bình dị, thật thà, gọn ghẽ, đôi khi như nói, không mang tính nhạc, không đập mạnh vào nhãn quan, thính giác của ta. Ðây là thơ của người chiến sĩ bị ‘gảy kiếm cung’ nên chỉ ẩn chứa cái khí phách hào hùng trang trải với mình, với đời, thường mang tính ‘tự sự’, nói với mình, nói riêng mình nghe thôi. Ðừng tìm cái hoàn toàn cả ý và lời nơi thơ anh. Thơ nếu được cả hai thì quá đẹp nhưng nếu lời hay mà ý rỗng thì chỉ là kỹ thuật ; ngược lại ý hay mà lời không đẹp thì cũng là một khuyết điểm nhưng ít ra còn khá hơn là lời hay mà ý rỗng vì mang chở cái giản dị, thành thật chứ không cố ý ‘làm đỏm’, phô trương. Nếu trong Văn, ý thường đi trước lời thì trong Thơ nhiều khi Lời đi trước Ý. Với thơ Lê Ngọc Chấn, lời buộc phải theo ý mà ý của anh lại là ý của người chiến sĩ chứ không là ý của nhà thơ đã quen sống với thơ.       
        Không thể đòi hỏi  quá nhiều  về cách toàn bích nơi thơ một người như anh, người làm thơ với hồn thơ sẵn có. Tuy nhiên, một người đã viết những câu :
                    -Muôn đời trần thế cháy tâm can
                    -Một thưở ra đi đổi đất trời
                    -Hành tinh kiệt sức dạt về đâu
                    -Tôi đứng lên ! Cúi đầu chào thế kỷ….
thì tâm hồn hẳn phải sâu đậm, cao quí và ý chí hào hùng biết mấy. Ðiều cốt yếu, khi đọc thơ, đọc văn là ‘thấy được, nhìn ra’ cái tâm hồn của tác giả qua thơ văn. Mà cái sâu đậm của hồn chính là cái súc tích của thơ.

Anh Chấn,
Cảm tạ thơ anh đã cho tôi nhìn ra anh rõ hơn. Anh đã ra đi, đáng tiếc ! Bên kia thế giới, hẳn anh vẫn ngậm ngùi về đất nước còn lầm than, điêu đứng ; hẳn anh vẫn kỳ vọng bao người đem sức đem lòng dựng xây xứ sở cho toàn dân no ấm, hưởng đủ mọi quyền người ; hẳn anh cầu nguyện cho tất cả mọi người phát huy tinh thần bao dung, nhân ái. Và cánh cửa thế giới bên kia chỉ ‘khép hờ’ lại thôi chứ không đóng hẳn để anh và bao bao người như anh nhìn về bên nầy, thấy được một Việt Nam vào ngày tuơi sáng như anh từng mong.

Gởi anh đôi dòng về anh và về Việt Nam sớm đến giờ thực sự vinh quang :
                     -Hỡi Người, biết nói gì đây
                      Gần nhau gang tấc, xa dài trùng dương
                      Mây ngàn, gió núi, trăng sương
                      Thơ reo lửa dậy, tình vương tim hồng
                      Bao giờ cánh én qua sông
                      Theo vòng nhật nguyệt, thuận dòng luân lưu
                      Cho người được ở bên người
                      Tình vui lại ấm cõi trời Việt Nam
                      Trùng trùng thế sự đa đoan
                      Xa vời con nuớc, mênh mang bến bờ
                      Cánh thuyền lạc nẻo bơ vơ
                      Hỏi Người, Người có đợi giờ triều lên !?
                     
                     Mỗi lần nghe gọi tên Em (Việt Nam)
                          Chừng như vũ trụ trở đêm vào ngày…
                     ……..
                     Bài thơ viết dở.., nào hay
                     Cửa kia dẫu đóng nào cài được then !
Cảm tạ Anh và Thơ anh.
nt

(Bài nầy được trích có rút gọn đôi đoạn trong tập ‘Nhớ Một Nguời Ði’ của nữ sĩ Vân Nương thực hiện, để kỷ niệm 10 năm giỗ anh Chấn, sau khi nhận được bài viết của tôi về thơ hai nguời)