Saigon xưa
Tôi lớn
lên tại Sài Gòn, tại
số 148 đường Colonel Boudonnet dọc
theo đường rầy xe lửa, sau nầy đổi tên là Lê Lai tới nay, đường lấy tên của Đại Tá Théodore Boudonnet thuộc Sư Đoàn 2 Bộ
Binh Thuộc-Địa và Tư lệnh Sư Đoàn Bộ Binh An Nam, tử trận bên Pháp hồi 1914. Mặt đất đường nầy thấp hơn các đường Frère Louis, Phan Thanh Giản
và Frères Guillerault nên mỗi khi mưa lớn là đường bị ngập: “nhờ vậy” mà sau khi tạnh mưa, dọc theo bức
tường ngăn đường rầy và đường lộ những con dế từ đất chui ra hang để khỏi bị ngộp, nên tôi đi bắt đến khuya mới
về ít lắm là ba bốn
con và thường bị mẹ tôi quở trách.
Sau khi “chạy
giặc” hồi 1945 vì máy bay đồng
minh oanh tạc nhà ga và đường
rầy xe lửa để chận tiếp tế cho quân Nhựt, gia đình tôi trở về
sống tạm trước Nhà thờ “Huyện Sỹ” đường Frères Guillerault và năm sau rồi
dọn trở về lại hẻm 176/11 đường
Colonel Boudonnet.
Nhà thờ
Huyện Sỹ xây cất năm 1905, ông là
người giàu có vùng Gò Công, tên thật
là Lê Phát Đạt và là Ông ngoại
của Nam Phương Hoàng Hậu,
vợ của Hoàng Đế
Bảo Đại.
Gần nhà thờ Huyện Sỹ có hai đường mang tên Frère nhưng nếu Frère Louis là để tưởng
nhớ đến Thầy Louis Gaubert lập ra trường Taberd, đường
Frères Guillerault (có chữ “S” sau Frères) là để tưởng nhớ đến hai anh em Roland và Léon Guillerault sinh trưởng tại Sài Gòn và tử
trận trong Đệ Nhứt Thế Chiến bên Pháp.
Trong lúc “tản
cư” tôi đi học lớp chót trường làng tại quận Hóc Môn và vì một
sự tình cờ mà Ba tôi ghi cho tôi học tiếp miển phí lớp “Douzième” trường Chasseloup-Laubat,
thay vì Petrus Ký như Ba tôi. ”Trường Chasseloup” xây cất trong ba năm nơi rạp hát bội
của Tả Quân Lê Văn Duyệt,
lúc đầu mang tên Collège Indigène de Saigon, nhưng khi khánh thành năm 1877 thì đổi
lại là Collège Chasseloup-Laubat và từ
1928 trở thành Lycée có nghĩa
là luyện thi đến
lớp Tú Tài, mang tên của Hầu Tước Justin De Chasseloup Laubat, Bộ Trưởng Bộ Hải Quân và Thuộc Địa dưới thời Napoléon III, người quyết tâm chiếm
và giữ Nam Kỳ. Hồi 1946 quân đội Pháp mới trở lại Việt Nam nên ít có gia đình và trẻ
con Pháp sống tại Sài Gòn nên dư giáo viên mà thiếu học trò! Lớp 12è niên khoá 1946-1947 trai và gái học chung tại Collège Calmette gần đó, sau đó vài năm trường nầy đổi tên là Lycée Marie Curie cho đến ngày nay. Tôi còn nhớ lúc ra về tôi chạy nhanh ra cổng,
không phải để tìm Ba tôi, thường người ra sở
trễ và đi xe đạp từ “Toà Tân Đáo” (Sở Ngoại Kiều) ở đường Georges Guynemer dưới Chợ Cũ lên rước tôi, mà là để tranh thủ thời gian để cạo mủ cao su!
Thật vậy, giữa trung tâm thành phố Sài Gòn không hiểu ông Tây nào có ý kiến trồng cây cao su theo hai bên đường Jauréguiberry cho có bóng mát? Bernard Jauréguiberry là một Đề Đốc Pháp đã đánh vào Đà Nẳng và chiếm thành Gia Định, về sau giữ chức Thượng Nghị Sĩ và Bộ Trưởng Bộ Hải Quân, mà tại sao lại đặt tên cho một đường nhỏ bên hông trường Calmette. Nhưng dù sao đi nữa những cây cao su đó, sau khi lấy đá đập vào vỏ thì chảy ra mủ trắng rất nhiều. Tôi trét mủ ấy trên cập táp da của tôi rồi khi mủ khô thì cuốn tròn quanh một cục sỏi và ngày qua ngày trở thành một trái banh nhỏ.
Thật vậy, giữa trung tâm thành phố Sài Gòn không hiểu ông Tây nào có ý kiến trồng cây cao su theo hai bên đường Jauréguiberry cho có bóng mát? Bernard Jauréguiberry là một Đề Đốc Pháp đã đánh vào Đà Nẳng và chiếm thành Gia Định, về sau giữ chức Thượng Nghị Sĩ và Bộ Trưởng Bộ Hải Quân, mà tại sao lại đặt tên cho một đường nhỏ bên hông trường Calmette. Nhưng dù sao đi nữa những cây cao su đó, sau khi lấy đá đập vào vỏ thì chảy ra mủ trắng rất nhiều. Tôi trét mủ ấy trên cập táp da của tôi rồi khi mủ khô thì cuốn tròn quanh một cục sỏi và ngày qua ngày trở thành một trái banh nhỏ.
Như vậy tôi thuộc vào thành phần “Nam Kỳ chánh cống”
và “dân Sài Gòn một trăm phần
trăm”, lớp tuổi gần 70 và và sống tại Saigon trong 34 năm. Những bạn lớn hơn tôi vài tuổi và những bạn gốc “Bắc trước năm mươi tư” mới biết tên đường cũ như tôi, các bạn khác ráng mà tìm các tên
trong trang sau cùng! Không phải tôi bị “tây hóa” nên không chịu dùng tên Việt Nam, nhưng các tên đường cũ đả khắc sâu vào trí nhớ tuổi thơ của tôi, hơn nửa lúc trẻ
tôi hay tìm tòi trong tự điển Larousse coi ông nầy là ai mà họ đặt tên đường,
sau thế hệ của chúng tôi, ít còn ai nhớ đến tên những con đường
Sài Gòn năm xưa…
Mẹ tôi có thuê một cyclo để đi làm và đưa tôi đi học tại trường Chasseloup, “Chú Ba Xích Lô” mỗi ngày chạy ra phía nhà ga Sài Gòn theo đường Colonel Boudonnet, sau khi qua rạp hát Aristo, nay là New World Hotel, quẹo trái qua đường Chemin des Dames và băng qua đường Lacote (chớ không phải Lacotte, Moïse Lacote là cựu Trưởng Ban Hành Chánh vùng Gia Định và Giám Đốc Thuế Vụ Nam Kỳ vào năm 1896) hoặc theo đưòng Amiral Roze (người đã từng tấn công Nam Hàn) để đi thẳng tới đường Gia Long, tên của đường La Grandière vào khoảng ấy (Đề Đốc Pierre De La Grandière thay thế Đề Đốc Bonard là một trong những Thống Đốc đầu tiên của Nam Kỳ, Ông tự động đi chiếm xứ Cambodge năm 1863 mà không có lệnh của Hoàng Đế Napoléon III và cũng chính Ông đã chiếm ba tỉnh miền Tây năm 1867 làm cho Cụ Thống Tướng Phan Thanh Giản phải đầu hàng và sau đó tự vận, dưới thời Đề Đốc De La Grandière Sài Gòn phát triển mạnh mẻ.
Mẹ tôi có thuê một cyclo để đi làm và đưa tôi đi học tại trường Chasseloup, “Chú Ba Xích Lô” mỗi ngày chạy ra phía nhà ga Sài Gòn theo đường Colonel Boudonnet, sau khi qua rạp hát Aristo, nay là New World Hotel, quẹo trái qua đường Chemin des Dames và băng qua đường Lacote (chớ không phải Lacotte, Moïse Lacote là cựu Trưởng Ban Hành Chánh vùng Gia Định và Giám Đốc Thuế Vụ Nam Kỳ vào năm 1896) hoặc theo đưòng Amiral Roze (người đã từng tấn công Nam Hàn) để đi thẳng tới đường Gia Long, tên của đường La Grandière vào khoảng ấy (Đề Đốc Pierre De La Grandière thay thế Đề Đốc Bonard là một trong những Thống Đốc đầu tiên của Nam Kỳ, Ông tự động đi chiếm xứ Cambodge năm 1863 mà không có lệnh của Hoàng Đế Napoléon III và cũng chính Ông đã chiếm ba tỉnh miền Tây năm 1867 làm cho Cụ Thống Tướng Phan Thanh Giản phải đầu hàng và sau đó tự vận, dưới thời Đề Đốc De La Grandière Sài Gòn phát triển mạnh mẻ.
Chú Ba Xích Lô xuyên qua vườn “Bờ Rô” để có bóng mát rồi ra đường Larégnère, sau nầy
là đường Đoàn Thị Điểm. Tôi không biết tại sao người ta kêu công viên đó bằng tên ấy, có thể
là phiên âm của chữ “préau (sân lót gạch) nhưng theo học
giả Trần Văn Xướng
thì do Ông “Moreau”, tên của người quản thủ Pháp đầu tiên chăm nom vườn nầy; thuở trước các người lớn tuổi còn gọi là “vườn Ông Thượng”,
có thể là vì trước
kia Tả Quân Lê Văn Duyệt
là người tạo ra vườn nầy. Dưới thời Pháp thuộc vườn “Bờ Rô” nằm trong khu đất của dinh Thống
Đốc nhưng vào năm 1869 Phó Đề
Đốc Hector Ohier, người thay thế Đề Đốc De La Grandière, cắt chia đất và tặng thành phố vườn nầy mang tên Parc
Maurice Long. Mười năm sau đường
Miss Cavell được tạo ra, lúc đó mang
tên rue de la Pépinière, để biệt lập với dinh Thống Đốc mà sau nầy
là Palais Norodom và sau 1954 trở thành Dinh Độc Lập rồi Dinh Thống Nhứt sau 1975. Cũng
có thể tên “Ông Thượng”
là Ông Ohier, có tên đường dưới chợ cũ, nhưng tới đời tôi chỉ gọi vườn đó là “vườn Bờ Rổ”, sau nầy mang tên vườn Tao Đàn. Ra vườn Bờ Rô gặp đường Chasseloup-Laubat rồi đi thẳng trên đường Larégnère, sau đó tới đường Testard: hai tên nầy
ở gần nhau cũng
đúng vì Trung Tá Bộ Binh Jules Testard và Thiếu Úy Hải Quân Etienne Larégnère, 31 tuổi (chớ không phải
Lareynière hay Laraignère) tử vong cùng một trận đánh ác liệt
tại Đồn Kỳ Hòa, ở vùng trường đua Phú Thọ,
giữa lực lượng của Thống Tướng Nguyễn Tri Phương và Đô Đôc Victor Charner năm 1861. Ai cũng biết đường Chasseloup-Laubat,
một đường chiến
lược rất dài đi từ
Chợ Lớn, từ đường 11è R.I.C (Régiment d’Infanterie Coloniale) đến Thị Nghè, sau 1955 đường
nầy đổi tên là Hồng
Thập Tự.
Đi thẳng đến đường Testard, chú Ba quẹo mặt và bỏ tôi xuống ở góc đường Barbé vì học sinh vào trường Chasseloup bằng cửa sau. Góc đường nầy sẽ liên hệ nhiều với tôi sau nầy khi tôi trở thành sinh viên y-khoa. Đường Barbé (chớ không phải Barbet ) có từ lâu và mang tên của Đại Úy Nicolas Barbé thuộc Sư Đoàn 3 Thủy Quân Lục Chiến Pháp bị Ông Trương Định cho tên Nguyễn Văn Sất ám sát vào năm 1860 gần chùa Khải Tường, nơi vua Minh Mạng sanh ra năm 1791 lúc Nguyễn Ánh chạy lọan vào miền nam để tránh anh em Tây Sơn. Chùa nầy do Nguyễn Ánh sau khi trở thành vua Gia Long ra lệnh xây cất để tạ ơn Phật Trời đã che chở cho con trai là Nguyễn Phúc Đàm (vua Minh Mạng sau nầy), sau đó chùa được lập làm đồn chống Pháp nên bị lính Pháp phá dẹp hồi 1880, pho tượng Phật hiện còn lưu niệm trong Viện Bảo Tàng Sài Gòn, trong Sở Thú. Trên nền chùa bỏ hoang nầy về sau có cất lên một biệt thự lầu lớn kiểu âu-châu tại số 28 đường Testard mà Bà Bác Sĩ Henriette Bùi (con gái thứ ba của Ông Bùi Quang Chiêu) mướn lại của người chủ là một luật sư người Pháp làm dưỡng đường sản-phụ khoa vào thập niên 1940. Ông Bùi Quang Chiêu (1872-1945) là kỹ sư canh nông Việt Nam đầu tiên tốt nghiệp bên Pháp năm 1897 và bị Trần Văn Giàu (phong trào Việt Minh) ám sát cùng ba người con trai vào tháng 9 năm 1945. Còn Bà Henriette Bùi Quang Chiêu sanh năm 1906 là người đàn bà Việt Nam đầu tiên tốt nghiệp y-khoa bác sĩ tại Paris năm 1929, nay Bà đã 103 tuổi và hiện còn minh mẩn và sống tại ngoại ô Paris: Bà kể lại rằng vào năm 1943 nhà nầy được bán lại cho một người Do Thái tên là David chủ của nhiều biệt thự tại Sài Gòn; vào đầu năm 1945 chánh phủ Pháp trưng dụng nhà nầy và cho Bà thuê một biệt thự khác ở đưởng Blancsubé để dời dưỡng đường đến đấy. Tháng 3 năm 1945 Nhựt đảo chánh Pháp và tịch thu căn villa nầy, và khi Pháp trở lại thì trao cho Viện Đại Học Sài Gòn để rồi năm 1947 nơi nầy trở thành chi nhánh của Đại Học Y-Dược Khoa Hà Nội rồi năm 1954 thành Đại Học Y-Dược Khoa Saigon, nơi tôi được đào tạo trong sáu năm với GS Phạm Biểu Tâm làm Khoa Trưởng. Nơi đầy kỷ niệm nầy nay là Bảo Tàng chứng tích chiến tranh.
Đi thẳng đến đường Testard, chú Ba quẹo mặt và bỏ tôi xuống ở góc đường Barbé vì học sinh vào trường Chasseloup bằng cửa sau. Góc đường nầy sẽ liên hệ nhiều với tôi sau nầy khi tôi trở thành sinh viên y-khoa. Đường Barbé (chớ không phải Barbet ) có từ lâu và mang tên của Đại Úy Nicolas Barbé thuộc Sư Đoàn 3 Thủy Quân Lục Chiến Pháp bị Ông Trương Định cho tên Nguyễn Văn Sất ám sát vào năm 1860 gần chùa Khải Tường, nơi vua Minh Mạng sanh ra năm 1791 lúc Nguyễn Ánh chạy lọan vào miền nam để tránh anh em Tây Sơn. Chùa nầy do Nguyễn Ánh sau khi trở thành vua Gia Long ra lệnh xây cất để tạ ơn Phật Trời đã che chở cho con trai là Nguyễn Phúc Đàm (vua Minh Mạng sau nầy), sau đó chùa được lập làm đồn chống Pháp nên bị lính Pháp phá dẹp hồi 1880, pho tượng Phật hiện còn lưu niệm trong Viện Bảo Tàng Sài Gòn, trong Sở Thú. Trên nền chùa bỏ hoang nầy về sau có cất lên một biệt thự lầu lớn kiểu âu-châu tại số 28 đường Testard mà Bà Bác Sĩ Henriette Bùi (con gái thứ ba của Ông Bùi Quang Chiêu) mướn lại của người chủ là một luật sư người Pháp làm dưỡng đường sản-phụ khoa vào thập niên 1940. Ông Bùi Quang Chiêu (1872-1945) là kỹ sư canh nông Việt Nam đầu tiên tốt nghiệp bên Pháp năm 1897 và bị Trần Văn Giàu (phong trào Việt Minh) ám sát cùng ba người con trai vào tháng 9 năm 1945. Còn Bà Henriette Bùi Quang Chiêu sanh năm 1906 là người đàn bà Việt Nam đầu tiên tốt nghiệp y-khoa bác sĩ tại Paris năm 1929, nay Bà đã 103 tuổi và hiện còn minh mẩn và sống tại ngoại ô Paris: Bà kể lại rằng vào năm 1943 nhà nầy được bán lại cho một người Do Thái tên là David chủ của nhiều biệt thự tại Sài Gòn; vào đầu năm 1945 chánh phủ Pháp trưng dụng nhà nầy và cho Bà thuê một biệt thự khác ở đưởng Blancsubé để dời dưỡng đường đến đấy. Tháng 3 năm 1945 Nhựt đảo chánh Pháp và tịch thu căn villa nầy, và khi Pháp trở lại thì trao cho Viện Đại Học Sài Gòn để rồi năm 1947 nơi nầy trở thành chi nhánh của Đại Học Y-Dược Khoa Hà Nội rồi năm 1954 thành Đại Học Y-Dược Khoa Saigon, nơi tôi được đào tạo trong sáu năm với GS Phạm Biểu Tâm làm Khoa Trưởng. Nơi đầy kỷ niệm nầy nay là Bảo Tàng chứng tích chiến tranh.
Lớn lên tôi đi xe đạp về một mình nhưng thích đi theo đường Testard hơn vì có bóng mát dưới hàng cây me, song song
với đường Richaud (sau đổi
lại đường Phan Đình Phùng) và thường ghé biệt thự số 6 đường Eyriaud des
Vergnes (sau là Trương Minh Giảng)
chơi với một bạn học cùng lớp,
nhứt là vào mùa các cây trứng cá có trái. Ông
Etienne Richaud là một Toàn Quyền Đông Dương hồi cuối thế kỷ XIX, còn Ông Alfred
Eyriaud Des Vergnes người gốc Châteauroux là Kỹ Sư
Trưởng Nha Công Chánh Nam kỳ (Cochinchine), Ông
là một thần đồng tốt nghiệp trường Polytechnique tại Paris lúc 17 tuổi sau đó học trường Ponts et Chaussées, ra lệnh lấp kinh Charner, tạo
hệ thống cống dài 7 km, cất 12 cầu theo “Kinh Tàu” (Arroyo chinois nối liền với rạch Bến Nghé chảy
ra sông Sài Gòn). Ông Eyriaud Des Vergnes là người
đầu tiên có ý lập ra đường sắt tại Việt Nam chạy lên Cambodge nhưng
kế hoạch không thành, về
sau nhờ Kỹ Sư Thévenet Giám Đốc Nha Công Chánh Nam Kỳ và sự hỗ trợ của Cố Vấn chánh phủ Paul Blanchy mà Việt Nam có đường sắt đầu tiên đi từ
Sài Gòn đến Mỹ Tho năm 1885. Hai
người nầy cũng có tên đường và sau 1955 đổi lại là Tú Xưong (Thévenet) và Hai Bà
Trưng (Paul Blanchy).
Sau khi qua đường
Pierre Flandin (tên của một “đứa con” của
Sài Gòn tuy sanh tại vùng Vaucluse và tử
trận tại Noyon, tỉnh
Oise, miền bắc nước Pháp vào năm 1917), đến cuối đường gặp rạp hát Nam Quang (nay vẫn còn), tôi quẹo trái ra đường Verdun (khoảng đó tên là đường Thái Lập Thành), đến ngã sáu Sài Gòn thì tôi
lại đi qua đường Frère Louis để về nhà bằng đường d’Ypres cho vắng xe. Đường nhỏ nầy ở sau “Mả Lá Gẫm”, đúng hơn là của Ông Mathieu Lê Văn Gẫm,
có bức tượng trong nhà thờ
Huyện Sỹ, tử đạo thời vua Thiệu
Trị vì bị hành hình lối
năm 1847, mả đó nay vẫn
còn nguyên tuy bị che khuất,
và Ypres là tên một thành phố
nhỏ bên vương quốc Bỉ, như thành phố
Dixmude, nơi đã xẩy ra những trận đánh lớn
hồi Đệ Nhứt Thế Chiến.
Đi xích lô mỗi
ngày như vậy hoài cũng chán nên tôi thường đề nghị với Chú Ba đi về bằng ngả khác, thuở ấy đường phố ít xe hơn bây giờ
vì Sài Gòn và Chợ Lớn không hơn một triệu dân cư. Tôi thích nhứt đi về nhà qua chợ Sài Gòn: Chú Ba tránh đường Mac Mahon (sau 1952 đoạn nầy lấy tên De Lattre de Tassigny và sau đó là Công
Lý), đi đường Barbé và một
đoạn đường Chasseloup-Laubat, rồi quẹo trái qua đường
Miss Cavell với hàng cây cao bên hông Cercle Sportif
Saigonnais (tên không phải viết Cawell hay Cavel: Edith Cavell là một
nữ y-tá người Anh bị
quân Đức xử bắn tại Bỉ vào năm 1915 lúc 50
tuổi vì giúp tù binh Anh, Bỉ và Pháp trốn qua Hòa Lan) để trổ ra đường Aviateur Garros rồi
xuống chợ Sài Gòn, nơi
bán nhiều trái cây (Roland Garros là phi công Pháp đầu tiên bay xuyên biển Méditerranée hồi 1913 và tử trận năm 1918).
Rồi cứ đi theo mãi đường d’Espagne (sau là Lê
Thánh Tôn) vì vào 1859 quân lính Tây-Ban-Nha dưới
quyền chỉ huy của các Đề Đốc Pháp đóng tại
đó) để về Ngã Sáu (Phù Đổng) rồi về Colonel Boudonnet bằng ngã Amiral Roze. Đặc biệt Sài Gòn có rất nhiều tên đường mang tên các trận
đánh thời Đệ Nhứt Thế Chiến (Boulevard de la
Somme, Chemin des Dames, đường Verdun, đường Arras, đường Champagne, đường Dixmude, đường Douaumont, Quai de la
Marne….) và tên các đề đốc
Pháp vì dưới thời các vua Minh Mạng và Tự Đức tất cả quân Pháp đến
Việt Nam bằng tàu thủy
mà hai vị có tiếng nhứt là Charner và Bonard. Đô Đốc
Léopold Victor Charner người vùng Bretagne, gốc Thụy Sĩ là Tổng Tư Lệnh Lực Lượng Hải Quân Pháp tại Đông Nam Á, ngưòi đã chiếm Nam Kỳ, còn Đề
Đốc Adolphe Bonard (chớ không phải Bonnard ) là Thống Đốc đầu tiên của
Nam Kỳ do hoàng đế
Napoléon III bổ nhiệm vào năm 1861 dưói thời vua Tự
Đức.
Vào cuối
thế kỷ XIX kinh rộng
nhứt của Sài Gòn là “Kinh Lớn”
hay “Kinh Charner” đi từ sông Sài Gòn đến Tòa Thị Sảnh, có hai đường dọc hai bên: đường
chạy xuống bờ sông là đường Rigault de Genouilly, đường chạy lên là đường Charner. Vì mùi hôi
thúi người Pháp lấp
kinh lại sau nhiều
năm bàn cãi và khi “đường Kinh Lấp” thành lập thì đương nhiên lấy tên Boulevard Charner
vào năm 1861 nhưng Ba tôi vẫn
gọi là đường Kinh Lấp
vào những năm 1930. Trước
đó, có một kinh dẫn
nước sình lầy chảy ra Kinh Tàu từ chợ Bến Thành (người Pháp gọi là Les Halles Centrales), theo Học Giả Vương Hồng Sển vì gần rạch Bến Nghé và gần
Thành Gia Định, kinh đó mang tên kinh Gallimard. Thiếu Tá công binh Léon Gallimart có dự
trận đánh Kỳ Hòa, và đào kinh nầy
vào năm 1861 theo lệnh của Đô Đốc Charner. Kinh nầy sau khi lấp lại theo ý kiến
của kỹ sư Thiếu Tá Bovet năm 1867 lấy tên là Đại Lộ Bonard, vì thế
đường nầy mới rộng lớn như ngày nay. Lúc lấp kinh và bến đò họ thành lập một công trường lớn, đó là “Bùng Binh” trước
chợ Bến Thành mà người
Pháp gọi là Place Eugène Cuniac, tên của một Thị Trưởng Sài Gòn, nay vẫn còn tên Công Trường Quách Thị Trang, một nữ sinh thiệt
mạng lúc biểu tình dưới thời Ngô Đình Diệm
năm 1963. Trước Tòa Thị
Xã Sảnh, ở góc đường Charner và
Bonard cũng có một
bùng binh nhỏ với nước phun lên tên là Place Francis Garnier, nay là công trường Lam Sơn, để tưởng nhớ đến một sĩ quan hải
quân trẻ tuổi phiêu lưu trên đất bắc và tử thương tại Hà Nội hồi 1873. Nhiều
đường khác củng do lấp kinh mà ra như Boulevard de La Somme (rạch Cầu Sấu, sau nầy là đại lộ Hàm Nghi), đường Tổng Đốc Phương (hay Đỗ Hữu
Phương), đường Pellerin (tên của
một Giám Mục đã bênh vực
công giáo Việt Nam nhưng
khuyên lầm Đề Đốc Rigault De Genouilly lúc tấn
công Đà Nẳng vào 1858) sau nầy
đường Pellerin lấy tên là Pasteur.
Đường mà tôi thích nhứt, sang trọng nhứt và có tiếng nhứt Sài Gòn là đường Catinat, có trước khi người Pháp đến
và mang tên một thuyền lớn đã bắn đại bác vào Đà Nẳng (chớ không phải
tên của một Đề Đốc như nhiều người tưởng, thuyền “Le Catinat” lấy tên của Thống Chế Nicolas de Catinat,
sống hồi thế kỷ XVII dưới thời Louis XIV). Nơi đó có rất nhiều tiệm sang trọng,
đường phố sạch sẽ và có nhiều “Ông Tây” ngồi uống cà phê tại
khách sạn Continental, lúc đó chưa có tiệm Givral và nơi
đó là Nhà Thuốc Tây Solirène, thay thế
Pharmacie Centrale. Sau nầy có thêm tiệm Brodard ở gốc
đường Catinat và Carabelli, tên của
một Nghị Viên thành phố.
Tôi cũng có dịp
vô nhà sách Albert Portail (nay vẫn còn dưới tên Xuân Thu từ 1955) và đi dạo trong Passage Eden vì trong cùng có rạp
hát Eden, rạp nầy và rạp Majestic ở cuối đường Catinat là hai rạp
chiếu bóng sang nhứt Sài Gòn vào thuở đó; đi chơi vậy chớ có tiền đâu mà mua đồ, nhiều lắm thì lấy vài tấm hình mà các ông phó nhòm chụp dạo lúc đi trước
“Nhà Hát Tây”, cất theo kiểu
Opéra bên Paris. Đường Catinat là đường
tráng nhựa đầu tiên của Sài Gòn, khi mới tráng nguời ta kêu là đường “Keo Su” dài tới Nhà Thờ Đức Bà ; qua công trường Pigneau de Béhaine trước Bưu Điện có bức tượng Ông “Cha Cả” hay Evêque d’Adran dẫn Hoàng Tử Cảnh
ra trình diện Louis XVI tại
Versailles. Sau khi qua khỏi đường Norodom thì đường Catinat lấy tên của Cố Vấn chánh phủ và Nghị Viên Thị Xã Sài Gòn Blancsubé và tiếp theo công trường Maréchal Joffre với tượng đài chiến
si tử vong trong Đệ Nhứt Thế Chiến là đưòng Garcerie với những hàng cây cao, sau nầy mang tên Duy Tân
và công trường Quốc Tế hay “Hồ Con Rùa”.
Ba tôi có nhiều
bạn người Tàu và thừờng
vô Chợ Lớn chơi bằng xe lửa
điện (tramway) mà người ta thường gọi là “xe lửa
giữa” vì chạy giửa đường Gallieni, tới trạm gare de Nancy thì bạn của Ba tôi lên xe lửa đi cùng vì ở gần thành Ô Ma (Camp des Mares, sau nầy là Bộ Tư Lệnh Cảnh Sát Quốc
Gia). Tôi còn nhớ xe lửa giữa đó, với ghế cây theo kiểu của Métro xưa
bên Paris, chạy thẳng theo đường Gallieni nối liền Sài Gòn với Chợ Lớn. Ba tôi nói lúc trứớc
nơi đây toàn là đất hoang và sình lầy, sau khi lấp bưng thành đường đất gồ ghề rồi khi Ba tôi xuống Sài Gòn học vào năm 1928 thì đường mới được tráng nhựa
và năm sau điện giăng giữa
chia con đường làm hai chiều,
một bên chạy lên một
bên chạy xuống, đường rầy xe điện
đặt trung tâm đại lộ, đến năm 1953 mãn hạn
giao kèo khai thác mới dẹp. Đường nầy mang tên của Thống Chế lừng danh Joseph Gallieni chết năm 1916 nhưng phục vụ ngoài Bắc lúc còn Đại Tá Tư Lệnh Sư Đoàn 2 Bộ Binh và sách vở ghi công Ông về tổ chức hành chánh tại Đông Dương. Tên của
Ông viết với chữ “e” chớ không phải
với chữ “é” vì là người
gốc Ý Đại Lợi.
Xe điện
chạy thẳng vô đường
rue des Marins, qua khu Đại Thế Giới nay là khu Cát Tường
và đường Jaccario (vì lúc trước pháo hạm “Le Jaccario” đậu gần đó trên “Kinh Tàu” hay Arroyo chinois trong Chợ Lớn, và chắc
lính thủy lên bờ
nhiều nên mới gọi là rue des
Marins), ở góc đường có vũ trường Arc-En-Ciel, sau 1975 đổi tên là nhà hàng và khách sạn
Arc-En Ciel Thiên Hồng, đến đường Tổng Đốc Phương thì quẹo qua trái mới đến Bưu Điện Chợ Lớn, nhà ga cuối cùng là Gare Rodier, tại Kinh Tàu.
Lúc còn ở
đường Colonel Boudonnet tôi có nhiều
bạn ở khu nhà thờ
Huyện Sỹ và thường vô phía sau nhà
thờ bắn “giàn thun” trên mấy
cây soài nên bị “Ông Từ”
rượt nhiều lần! Ngoài đường Frères Guillerault trước nhà thờ, còn có đường Duranton và đường Léon Combes mà sau nầy đổi tên là Sương Nguyệt “Ánh”. Trung Sĩ Léon Combes là một đứa con của
Sài Gòn ở Giồng Ông Tố bên Cát Lái tử trận năm 1917 tại Craonne, thuộc tỉnh Aisne vùng Picardie phía Bắc Paris. Tôi nhớ, vì học “trường tây” nên tôi thắc
mắc và tự hỏi Bà nào mà mang họ Sương mà tôi tìm hoài trong sách vở không thấy? Sau nầy tham khảo mới biết đó là tên bút hiệu
của Bà Nguyễn Thị Ngọc Khuê (có sách nói là Nguyễn Xuân Khuê), con gái thứ tư của cụ Nguyễn Đình Chiểu, người đàn bà đầu tiên làm Chủ Bút báo “Nữ Giới Chung” cho phụ nữ
hồi 1918. Tuần báo nầy còn tên là Fémina Annamite và tòa soạn
ở 13 đường Taberd, trong sách kể là Sương Nguyệt
ANH (=Góa phụ Nguyệt Anh), nhưng tại sao hồi
1955 họ đổi tên đường Léon Combes thành Sương Nguyệt ÁNH?
Về sau, gia đình tôi dọn về Chợ Lớn ở đường Lacaze, nay là đường Nguyễn Tri Phương,
nổi tiếng vì “Mì La Cai”, đường
mang tên của Đô Đốc Lucien Lacaze, Bộ Trưởng Bộ Hải Quân từ 1915 đến
1917 hồi Đệ Nhứt Thế Chiến, nhưng chúng tôi ở khúc trên, gần gốc đường Pavie (nay là Lý
Thái Tổ chớ không phải đường 3 tháng 2 vì dường
nầy mới có vào lối
1957, lúc trước là trại
lính) dẫn lên trường
đua Phú Thọ. Khúc dưới
đường mang tên ông Auguste Pavie (lừng
danh trên đất Lào) dặc
biệt rộng lớn và rất dài, có nhiều cây và bên trong có đường dành cho xích lô và xe đạp. Nếu đi từ Ngã Bảy xuống công trường Khải Định, từ giữa đường nầy đến đường Frédéric Drouhet sẻ
thấy những biệt thự mà “Chú Hoả” cất cho con cháu ở (tên thường gọi của Jean-Baptiste Hui
Bôn Hoả một triệu phú người Tàu tham gia với
chánh quyền tặng thành phố Sài Gòn Policlinique Déjean De La Bâtie, tên của một bác sĩ
tận tụy lo cho người
Việt Nam, ngoài đường Bonard, sau nầy trở thành Bệnh
Viện Đô-Thành), sau 1954 các nhà nầy
dành cho Ủy Hội Kiểm Soát Quốc Tế Đình Chiến ở
và khúc đường nầy gọi là đường Hui Bôn Hoả.
Lúc đó đường
Pavie có xe nhà binh pháp chạy nhiều vì có thành lính gần đó và tại khu đường Cây Mai, trước
khi tới Phú Lâm. Khu đất
từ đường Lacaze đến
đường Ducos (sau đổi là đường Triệu Đà) là đồng
mả, đường hẻm tôi ở trước một mả đá lớn, mới phá hồi tháng 11 năm 2004: đó là mả
có từ thế kỷ thứ XVIII của một người đàn bà lối 50 tuổi và quan tài thứ nhì chắc là của một người đàn ông, chỉ có vài nữ trang chớ không có vàng bạc chôn theo như người ta tưởng.
Từ đường Lacaze đi ra trường Chasseloup Laubat xa hơn, tôi phải đạp xe xuống Ngã Bảy,
quẹo trái qua đường Général Lizé, rồi đạp thẳng hoài, qua khỏi đường Verdun đường
nấy lấy tên Legrand De La Liraye. Qua khỏi trường nữ sinh Gia Long (hồi xưa gọi là Collège des
Jeunes Filles Annamites, sau là Trường Aó Tím) và đến tận trường Marie Curie mới quẹo xuống đường Barbé. Đường Général Lizé là một đường chiến
lược rất dài lúc trước
gọi là đường Hai Mươi,
đi từ Ngã Bảy Chợ Lớn, nối dài đường
Pierre Pasquier, đến đường Albert Premier
trên Dakao, lấy tên của
Trung Tướng Lucien Lizé, xuất
thân từ trường Polytechnique,
Paris, Tư Lệnh Pháo Binh chiến trường Ý tử
trận hồi 1918, có phục
vụ bên Việt Nam lúc còn Đại
Tá, còn Legrand De La Liraye là một trong những linh mục thông ngôn cho Đề Đốc Rigaud De Genouilly và trở thành Thanh Tra phụ trách về các hồ sơ giưã người Việt và chánh quyền bảo hộ. Sau 1954 đường nầy đổi thành đường Phan Thanh Giản, một vị anh hùng sáng suốt
và can đảm của Việt Nam. Tiếc thay sau 1975 không còn
đường nào trên mảnh đất Việt Nam mang tên anh hùng dân tộc nầy, cũng như không còn đường vào mang tên Lê Văn
Duyệt và cũng không còn trường
học nào mang tên Petrus Ký! Cho tới
nay tôi chưa thấy một học giả Việt Nam nào giỏi hơn Petrus Trương Vĩnh Ký, tuy vài “Sử Gia” buộc tội vị nầy nhiều điều vô lý, họ quên rằng công lao lớn
nhứt của Ông Petrus Ký là truyền
bá cho dân chúng sử dụng chữ quốc ngữ có từ Alexandre de Rhodes vào thế kỷ XVII thay thế chữ Nôm khó học và khó viết. Tôi nghe nói ở Vĩnh
Long hiện nay có một
trường học mang tên Phan Thanh Giản và vào tháng 11 năm 2008 rạp
chiếu bóng Nguyễn Văn Hảo đường Trần Hưng Đạo tại Sài Gòn đang hát
tuồng “Tả Quân Lê Văn Duyệt”,
đó là điều đáng mừng
vì những vị anh hùng các triều nhà Nguyễn phải được hồi phục.
Hồi thời Pháp thuộc cũng có những tên đường
mang tên những anh hùng hay nhân tài Việt Nam như đường Paulus Của (Đốc Phủ Sứ Hùynh Tịnh Của) trên Dakao, đường Tổng Đốc Phương (Đổ Hữu Phương) trong Chợ Lớn,
đường Phủ Kiệt (Đốc Phủ Sứ Trần Văn Kiệt là Nghị
Viên thành phố trên 25 năm), Hùynh Quan Tiên, Nguyễn Văn Đưởm trên Tân Định
(cà hai là Nghị Viên Thuộc
Địa và Nghị Viên Thành Phố),
Nguyễn Tấn Nghiệm (Nghị Viên), và Trương Minh Ký, một trong những Nghị Viên đầu tiên của
thành phố, ông nầy
tên thật là Trương
Minh Ngôn cháu bốn đời của Trương Minh Giảng,
được ông Trương Vỉnh Ký đem về nuôi và đổi tên, cho đi Pháp học và là một trong những người sáng lập
viên ra Trường Thông Ngôn (Ecole des Interprètes) nằm trong Tòa Án, nhờ làm thông dịch viên lúc Traité de Patenôtre năm 1884 nên được vô quốc tịch Pháp, người mất lúc 55 tuổi
vì bệnh lao phổi.
Vị anh hùng Đại Úy phi công của quân đội Pháp, xuất thân từ trường Võ Bị
Saint-Cyr và là cựu sĩ quan Lê Dương mang tên Đỗ Hữu
Vị có tên trên một đường từ bùng binh chợ
Bến Thành đến đường Charner, trước đó đường nầy mang tên Hamelin sau nầy đổi lại là Huỳnh Thúc Kháng. Đại Úy Vị là con thứ năm của Tổng Đốc Đỗ Hữu Phương, sau khi học trung học tại trường nổi danh Janson De
Sailly tại Paris, nhập
học vô trường Saint-Cyr vào năm 1904. Trung Úy bên Bắc Phi, ông gia nhập vào binh chủng Không Quân vừa thành lập ; bị thương nặng Đại Úy Vị từ chối giải ngũ và trở về đơn vị Lê Dương và tử thưong tại mặt trận tỉnh Somme năm 1916.
Hài cốt được người anh cả là Đại Tá Đỗ Hữu Chấn đem về chôn cất trong nghĩa
trang gia đình tại Chợ Lớn.
Sài Gòn mất nhiều di tích ngày xưa, vì chiến tranh và vì sự thay đổi thời cuộc, tôi tiếc nhứt là hồi tháng ba năm 1983 đã sang bằng “Lăng Cha Cả”, có từ 1799 để lập một công trường mà chả thấy ai ngồi …. Hai người ngọai quốc đã ảnh hưởng Việt Nam nhiều nhứt là Alexandre de Rhodes va Pierre Joseph Pigneau de Béhaine, được dân Việt Nam biết dưới tên Bá Đa Lộc hay Evèque d’Adran, người đã giúp Nguyễn Ánh lên ngôi, đi với Hoàng Tử Nguyễn Phúc Cảnh qua triều đình vua Louis XVI để ký Hiệp Ước Versailles năm 1787. Tên thật là Pigneau, sau đó thêm vô sau tên ấp Béhaine của làng Origny-en-Thiérache mà gia đình có phần đất, thuộc tỉnh Aisne, trong vùng Picardie ở miền bắc nước Pháp. Vua Gia Long cất một ngôi nhà ở số 180 đường Richaud cho Bá Đa Lộc (nay vẩn là Tòa Tổng Giám Mục đường Nguyễn Đình Chiểu, Quận 3) và đọc điếu văn khi người mất năm 1799. Mộ ông người Sài Gòn gọi là Lăng Cha Cả là một trong những di tích xưa nhứt của Sài Gòn “ở Gia Định” vào thời Gia Long, sau nầy ở trước trại Phi Long trên Tân Sơn Nhứt. Cốt của Cha Pigneau de Behaine được đem về Pháp năm 1983 và chôn trong nhà thờ Séminaire des Missions Etrangères, rue du Bac tại quận XV Paris....
Sài Gòn mất nhiều di tích ngày xưa, vì chiến tranh và vì sự thay đổi thời cuộc, tôi tiếc nhứt là hồi tháng ba năm 1983 đã sang bằng “Lăng Cha Cả”, có từ 1799 để lập một công trường mà chả thấy ai ngồi …. Hai người ngọai quốc đã ảnh hưởng Việt Nam nhiều nhứt là Alexandre de Rhodes va Pierre Joseph Pigneau de Béhaine, được dân Việt Nam biết dưới tên Bá Đa Lộc hay Evèque d’Adran, người đã giúp Nguyễn Ánh lên ngôi, đi với Hoàng Tử Nguyễn Phúc Cảnh qua triều đình vua Louis XVI để ký Hiệp Ước Versailles năm 1787. Tên thật là Pigneau, sau đó thêm vô sau tên ấp Béhaine của làng Origny-en-Thiérache mà gia đình có phần đất, thuộc tỉnh Aisne, trong vùng Picardie ở miền bắc nước Pháp. Vua Gia Long cất một ngôi nhà ở số 180 đường Richaud cho Bá Đa Lộc (nay vẩn là Tòa Tổng Giám Mục đường Nguyễn Đình Chiểu, Quận 3) và đọc điếu văn khi người mất năm 1799. Mộ ông người Sài Gòn gọi là Lăng Cha Cả là một trong những di tích xưa nhứt của Sài Gòn “ở Gia Định” vào thời Gia Long, sau nầy ở trước trại Phi Long trên Tân Sơn Nhứt. Cốt của Cha Pigneau de Behaine được đem về Pháp năm 1983 và chôn trong nhà thờ Séminaire des Missions Etrangères, rue du Bac tại quận XV Paris....
BS Trần
Ngọc Quang