Cập nhật « Đâu là sự thật ? Mặt
trái của tấm huân chương Trung Cọng »
LS
Lê Trọng Quát
Tháng11, 2006, trước bản « hợp ca » của các nhà
quan sát quốc tế bốc thơm Trung Cọng một cách quá đáng trong mọi lãnh vực, kể
cả chính trị mà họ cố tình che đậy chế độ độc đảng toàn trị dưới cụm từ «
ổn định chính trị », tôi thấy cần phải phơi bày mặt trái của tấm «
huân chương » bất xứng dành cho tập đoàn lãnh đạo quốc gia này. Bài được
viết bằng Việt và Pháp ngữ ( Où en est la vérité ? Le revers de la
médaille chinoise ) đặng cho những con cháu chúng ta không đọc được chữ Việt và
một số đông người ngoại quốc có thể đọc được (đăng tiếp sau ).
Chín năm đã trôi qua, mặt trái của tấm huân chương vẫn
còn nguyên vẹn nếu không phải là xấu hơn và giờ đây, Trung Cọng đang chứng kiến một sự trụt
dốc quan trọng thường được gọi là một sự hạ cánh mạnh.
Được sắp số 2 trong nền kinh tế thế giới căn cứ trên tổng
sản lượng quốc gia (Produit Inteérieur
Brut- Gross Domestic Product ) vời 10.390 tỷ Mỹ Kim (MK) vào năm
2014 Trung Cọng đứng sau Hoa Kỳ với
17.418 tỷ.
Nhiều người, kể cả những kinh tế gia và quan sát viên
quốc tế xem sự sắp hạng này như một cái thang đo lường sức mạnh về kinh tế, có
người còn đi xa hơn nữa, xem Trung Cọng như cường quốc số 2 về mọi mặt.
Theo tôi, đây là một đánh giá
sai lầm, phiến diện
Thật vậy, một nền kinh tế thật sự mạnh,
chưa nói đến một cường quốc giàu mạnh bậc nhì
thế giới, không
thể chỉ dựa đơn thuần trên tổng sản lượng quồc gia ( TSLQG – PIB – GDP )mà
còn phải có một mức độ kỹ thuật cao, một tầng lớp nhân công dồi dào, đa năng,đa
hiệu, phải sản xuất được những sản vật có giá trị đem lại nhiều lợi nhuận, và
rất quan trọng, giới thợ thuyền lao động đa số trong lực lượng sản xuất phải
được đãi ngộ xứng đángvới những luật lệ lao động bảo đảm đầy đủ sự an toàn
trong lúc hành nghề và những quyền lợi chính đáng của họ.Những điều kiện tất yếu mà Tây
phương và một số quốc gia khác đã thực hiện từ lâu.
Và
còn quá xa để liệt Trung Cọng vào số hai của danh sách những quốc gia giàu mạnh khi TSLQG tính cho mổi người dân
chỉ có 7588 MK/năm xếp hạng 80 trong thê
giới và tính theo tương quan mãi lực nghĩa là vật phẩm có thể
mua được ( Parité de pouvoir d’achat – Purchasing power
parity ) là 12 879 MK còn tụt xuống thứ 90 vì vật giá còn rẻ hơn nữa ở
một số các nước khác.
Nhưng cần phân tách thêm vì – hết sức quan trọng – đại
đa số dân chúng không có được lợi nhuận trung bình ghi trên bởi thiểu số « tư bản đỏ » và
trung lưu đã chiếm hết phần lớn, để lại một phần khiêm tốn cho cả tỷ người dân
Trung Hoa còn
lại ở nông thôn và ngay cả ở thành thị. Hiện tượng
không còn che đậy được nữa là không hiếm người phải bán máu hay một bộ phận
trong người để tạm bợ nuôi thân, không đủ tiền để trả cho bệnh viện khi lâm
bệnh, và hàng trăm triệu người dân quê phải tìm đường lên thành thị kiếm việc
làm, sống trong « ổ chuột », suốt năm lao động cưc nhọc, dành
dụm chút tiền về giúp gia đình trong dịp Tết.
Trong lúc ấy, Trung Cọng vẫn lớn tiếng tuyên bố chỉ có
6,1% dân ở dưới mức nghèo ( seuil de pauvreté – poverty line) mà họ ấn đinh là 400 MK một người mổi tháng trong năm
2012. Lương tháng trung bính của người thợ có tay nghề chỉ khoảng 3 đến 4 trăm
nghĩa là dưới mức nghèo và như vậy thì không
phải 6,1% mà 61% dân nghèo mới đúng vì hơn 61% dân số Trung Hoa là thợ
thuyền, lao động và nông dân với thu nhập còn ít hơn.
Sự dối trá man khai của các chính quyền cộng sản Trung
Hoa, Việt Nam, Bắc Hàn là chuyện thông thường , trái với các định chế Tây
phương và quốc tế.
Tại Hoa Kỳ, nước thật sự giàu mạnh nhất địa cầu, tỷ số
chính thức năm 2015 được công bố là 14,5% dân số ở dưới mức nghèo khổ, được ấn
định là 981 MK và người nghèo còn được hưởng nhiều trợ giúp : phiếu thực phẩm, (food stamps), tiền thuê
nhà (housing), săn sóc y tế và diều trị ở bệnh viện miển phí,v.v……..
Việc ấn định ngưỡng nghèo khổ thuộc thẩm quyền của mổi
quốc gia nhưng không thể bất chấp những tiêu chuẩn chung căn cứ trên các nhu
cầu tối thiểu của một con người , được ăn đủ no, có chổ cư trú, được săn sóc và điều
trị khi ốm đau, để được xem là không ở dưới ngưỡng nghèo khổ.
Cái bệnh khai láo của Trung Cọng càng lộ liễu khi tự
hào với một tỷ lệ thất nghiệp 4,1% dân số ( trong dộ tuổi làm việc khoảng một
tỷ người ) quá xa với tỷ lệ 15% khoảng 150 triệu người không có việc làm do Quỹ
Tiền Tệ Quốc Tế (Fonds Monétaire International - International Monetary Funds )
ước định
cho nước này năm 2014. Nhiều sinh viên tốt nghiệp các trường đại học không tìm được việc làm tương xứng, sẳn sàng chấp
nhận mọi đề nghị công việc miễn là đủ sống. Một tình trạng tương tự nếu không
phải xấu hơn đã và đang diễn ra ở Việt Nam.
Vì bắt đầu với một nền kinh tế
tụt hậu, quá yếu kém thời Mao Trạch Đông, chỉ số tăng trưởng kinh tế trong hơn
hai thập niên qua liên tiếp trên 10%
3
nay giảm xuống còn 7% tạo thêm
nhiều chục triệu ngưới thất nghiệp
Nguyên
nhân chính là sự sút giảm đáng kể của khả năng cạnh tranh của nhân công Trung
Hoa do sự tăng lương
của họ khiến cho lương của họ cao hơn lương của nhân công các nước khác trong
vùng. Vì vậy, nhiều công ty quốc tề đã chấm dứt đặt hàng sản xuất ở Trung Cọng
và đặt hàng ở một số các nước Á, Phi và Đông_Âu.
Trong lúc ấy, thị trường chứng khoán sụt giảm mạnh.Từ
cuối tháng sáu, thị trường Thượng Hải sụt 41% trong hai tháng khiến nhiều triệu
ngưởi điêu đứng, đặc biệt những, người mua bán cổ phiếu hằng ngày như
chơi cờ bạc bằng cách vay tiền nặng lải của tư nhân. Chính phủ phải bỏ ra gần
150 tỷ để mua lại các cổ phiếu đang trụt dốc nâng nề.
Không vay được tiền ở
các ngân hàng Nhà Nước, nhiều chục triệu nhà đầu tư phải vay tiền
với lãi suất quá cao trên 10% là thường ở các cá nhân và tổ chức tư nhân, một
hoạt động ngoài luật pháp nhưng rất thông dụng ở Trung Cọng.Thị
trường địa ốc sụt mạnh, nhiều cư xá hạng đắt tiền hoang vắng vì
thiếu người mua, nhiếu doanh nhân phá sản vì lợi nhuận không đủ trả tiền lời
của vốn vay mượn. Nợ tư lên đến nhiều ngàn tỷ Mỹ kim.
Trong lúc ấy, các ngân hàng Nhà Nước gặp nhiều khó
khăn do những món nợ khổng lồ không đòi được ; các giới chức trách nhiệm
bị truy tố vì lạm dụng quyền hành, ăn chia với
con nợ.
Chủ tịch Tập Cận Bình tỏ ra cứng rắng, thanh trừng một
số nhân vật cao cấp trong guồng máy chính phủ và trong quân đội,về tội tham
nhũng mà không ai dám
đụng đến dưới thời chủ tịch Hồ Cẩm Đào.
Nguyên Phó Chủ Tịch Quân Ủy, một chức vụ
quan trọng nhất trong quân đội, tướng Xu Caihou đã bị tống giam.Y đã « bán
cả chức tướng lảnh » với giá từ 250.000 đến 300.000 tương đương Mỹ kim
trong thời gian tám năm y tại vị !
Ngoài ra có tin loan truyền cựu chủ tịch nước, tổng bí thư Giang
Trạch Dân và một số thân cận cũng vừa bị bắt giam dưới tội danh tham nhũng
nhưng cũng có thể là một cơ hội để Tập Cận Bình thanh toán những đàn anh củ
không cùng cánh với y mà
y xem như những chướng ngại vật trên con đường dẫn dắt y đến địa vị lãnh tụ độc
tôn chưa từng có từ thời Đặng Tiểu Bình.
Đồng thời họ Tập khai triển chánh sách bành trướng thế
lực của Trung hoa, mang màu sắc quốc gia cao độ để mong trấn áp, cả vú lấp
miệng em, các đòi hỏi dân chủ, tự do càng ngày càng nhiều. Các nhà đối kháng bị thường xuyên kiểm soát,
hăm dọa hoặc bắt giam.
Trước tình trạng nghẹt thở, thiếu tự do trong nước,
nhiều sinh viên du học ngoại quốc không muốn trở về nước. Nhiều người giàu ra
nước ngoài , đặc biệt
là Hoa Kỳ, Úc, Canada, một số ít ở Âu Châu để đầu tư lập nghiệp luôn, vừa
4
để được sống thoải mái, vừa kiếm đất lành chim đậu
trước khi xứ sở của họ bắt đầu trụt dốc.
Các vụ tin tặc Trung Cọng tấn công phá rối và trộm tin nhằm vào các cơ
quan Nhà Nước Hoa kỳ và các công ty quốc tế đã trở thành một trong những vấn đề
chính được Tổng Thống Obama đặt ra với họ Tập nhưng cũng như vấn đề an ninh và
tranh chấp trên Biển Đông và các vấn đề phá giá đồng yuan của Trung quốc,quyền
sở hữu trí tuệ, v.v…….đều
được họ Tập giải đáp một cách chiếu lệ, lưng chừng, không có gì rõ rệt. Các
vụ tiếp xúc với các giới lãnh đạo xí nghiệp cũng không có gì đặc biệt ngoài mục viếng thăm các đại
công ty đang hoạt động ở Trung Hoa. Cuộc viếng thăm chính thức Hoa Kỳ của họ
Tập không làm cho bang giao giữa hai nước bớt căng thẳng trong các lãnh vực an
ninh trong vùng Đông Á, tin tặc, ngoại thương.
Trong lúc ấy, Trung Cọng tăng cường cạnh tranh với Hoa
Kỳ, Nhật bản bằng nỗ lực đang vận dụng để thiết lập một ngân hàng lớn với sự góp vốn của nhiều quốc gia Á, Âu, nhằm
đầu tư và phát triển các hạ tầng cơ sở ở Á Châu, mệnh danh Ngân Hàng Á Châu Đầu Tư
cho Hạ Tầng Cơ Sở ( Banque Asiatique d’Investissements pour les
Infrastructures BAII – Asia Investment
for Infrastructures Bank AIIB
). Cho đến nay Ngân Hàng Thế
Giới và Ngân Hàng Phát Triển Á Châu thành lập do Thỏa Ước Bretton Woods 1944 nhằm
ổn định kinh tế và tái thiết sau Đệ nhị Thế chiến vẫn do người Mỹ và người Nhật
làm chủ tịch bởi truyền thống và số vốn đóng góp quan trọng lần lượt của hai
quốc gia này.
Với một số lượng dự trử ngoại tệ và vàng lớn nhất thế giới –
3899 tỷ mỹ kim năm 2014 – do sự góp nhặt kết quả của khối lượng sản xuất lao
động và trí thức đủ các mặt hàng xuất cảng « thượng vàng hạ cám » của sáu,
bảy trăm triệu nhân công, đại đa số dân Trung Hoa vẫn sống dưới mức nghèo khổ, vẫn bị áp bức
bởi một chính quyền độc tài toàn trị trong một quốc gia mà sự cách biệt giữa
tầng lớp tư bản đỏ cai trị và quần chúng vô sản bị trị vượt quá mọi sự tưởng
tượng.
Tôn Trung Cọng lên hàng đầu giàu mạnh của thế giới quả
thật là một lạm dụng ngôn từ. Không khác gì thành quả « Dân giàu, nước
mạnh » của đàn em Việt Nam Xã Hội Chủ Nghĩa, được « tuyên
dương »……. đứng trong hàng đầu thế giới về tham nhủng, về vi phạm nhân
quyền, về kiểm duyệt và kiểm soát báo chí, về bắt người và giam người trái phép
và ……. đứng chung hàng cuối của danh sách phúc lợi cùng với vài quốc gia Á Phi.
Nếu đã có những chuyên viên « thượng thặng » chuyên
nghề bốc thơm được đàn cừu Panurge phụ họa trên các diễn đàn thế giới thì cũng không
thiếu những nhà tiên tri thảm họa ( chuyển ngữ từ cụm từ rất « văn
vẻ » của văn chương Pháp : les prophètes de malheurs, thưởng được
riểu là những Cassandre, nhân vật của huyền thoại Cổ Hy lạp chuyên tiên đoán
những chuyện thảm khốc).Điển hình là một nhân vật trí thức Pháp được xem là một chuyên gia
thượng thặng về kinh tế tài chính, Jacques
Attali, nguyên Cố vấn đặc biệt của Tổng thống Pháp François Mitterand và Chủ Tịch Ngân Hàng
Trung Ương Âu Châu, quân sư của vài lãnh tụ chính trị, đã không ngần ngại tuyên
bố trong một cuộc phỏng vấn trên một đài truyền hình lớn ở Pháp cách đây khoảng
hai năm rằng đồng EURO của Âu Châu không thọ được đến ngày lễ Giáng Sinh của năm
ấy !! Mới đây, cùng với một số kinh tế gia, ông lại vội vàng báo động kinh
tế thế giới sẽ suy sụp nặng do vụ sụt giảm của thị trường chứng khoán Trung
Cọng. Nhưng đồng EURO đã không chết và các thị trường
chứng khoán ở Nữu Ước, Luân Đôn, Francfort, Paris, Đông Kinh chỉ bị giao động khá
mạnh trong các tuần lễ cuối hè vừa qua.
Hẳn nhiên, với 1 tỷ 300 triệu người, Trung Hoa là một
thị trường lớn mà quốc gia nào cũng muốn đem hàng hóa đến bán, đồng thời đầu tư
để sản xuất tại chổ với nhân công địa phương trước đây rất rẻ. Ngược lại, hàng
hóa tương đối giá rẻ của Trung Quốc tràn
ngập thế giới. Cán cân ngoại thương luôn luôn có lợi cho Trung quốc cho ta hiểu
nguyên nhân tạo nên khối lượng dự trử ngoại tệ của nước này lớn nhất thế giới
như đã ghi trên. Sự suy giảm kinh tế của Trung
quốc sẽ làm cho khả năng tiêu thụ hàng hóa nhập cảng bớt đi phần nào nhưng sức
mạnh kinh tế và tài chính bền vững của Tây phương - trắc nghiệm qua cuộc khủng
hoảng tài chính lớn của thế giới 2008-2012 đã được vượt qua và của cuộc khủng
hoảng khu vực đồng EURO đang được giải quyết hiệu quả - sẽ được điều chỉnh
không quá khó khăn. Điều không nên quên là Tây phương đã phồn thịnh từ lâu
trước khi Trung Hoa mở cửa giao thương dưới thời Đặng Tiểu Bình. Các nhà tiên
tri thảm họa sẽ bị « hố to » một lần nữa.cũng như vừa mới « hố
to » trong vụ dầu hỏa.
Cách đây hơn năm gần như toàn thể các kinh tế gia
phỏng đoán là một thùng (barel )dầu thô sẽ lên đến trên 100 đô la Mỹ khiến mọi người run sợ nhất là trong các ngành
công kỹ nghệ tiêu thụ nhiều nhiên liệu. Thực tế đã trả lời hoàn toàn ngược
lại : hôm nay giá một barel đã trụt thê thảm xuống dưới 50 đô la. Thị
trường chứng khoán dầu hỏa không còn kiểm soát được nữa.Các công ty quốc tế và
các nước sản xuất dầu hỏa đang ở trong nguồn cơn bối rối !
Không phải là con cừu Panurge và cũng không dám làm
nhà tiên tri những thảm
6
họa, chúng ta có thể dựa trên những dữ kiện cụ thể, những ý đố
không che đậy được củaTập Cận Bình, chính sách đối nội và đối ngoại của Cộng đảng Trung quốc, tình trạng xã hội và
tâm lý quần chúng ở nội địa Trung Hoa để suy nghĩ về
tương lai gần và xa của nước này, một tương lai chắc
chắn có nhiều quan hệ với tương lai của Việt Nam chúng ta và cục diện Á Châu
-Thái Bình Dương, nhiều hơn hẳn với phần còn lại xa hơn của thế giới.
Cái ưu thế của Trung Cọng như một quốc gia đông dân
nhất của thế giới sẽ không còn nữa bởi chánh sách hạn chế sinh sản một con đã đưa đến
tình trạng dân số già nua lanh chóng trong lúc dân số trong tuổi làm việc ngày
càng giảm thiểu. Theo các phỏng tính dân số của Liên Hiệp Quốc thì số dân 65 tuổi trở
lên chiếm 7% tổng số dân năm 2000 sẽ nhân lên gấp hơn ba lần vào năm 2050 với
300 triệu người trong lúc dân số trong tuổi làm việc sẽ giảm bớt 220 triệu so
với bây giờ. Năng lực sản xuất sẽ suy giảm theo còn phải chịu thêm gánh nặng
của người già ngày càng đông đảo.
Lợi tức thu hoạch được của công cuộc đầu tư ở ngoại
quốc rải rác ở nhiều nước, đặc biệt ở Phi Châu khá lớn nhưng kẻ
thủ lợi là những công ty đầu tư và một Nhà Nước mà mọi người thừa biết là không
trong sạch.Cuối năm 2005, Thủ Tướng Vương Gia Bảo đã phải tiết lộ « một sự
sai lầm lịch sử đã xẩy ra trong việc giải quết các vấn đề nông thôn » vì
nông dân đã bị bỏ qua trong cuộc canh tân hóa quốc gia. Các vụ phản đối chống
lại Nhà Nước gia tăng. Tòa án phải thẩm cứu 87.000 vụ hình sư đầu
năm 2006 ( xem rõ trong bài đính kèm). Tình trạng chống đối ngày càng lan rộng trong
các thành phần lao động, trí thức trong
một chế độ đặt dưới một mệnh lệnh : hảy lo làm ăn và câm mồm !
Phải chăng Trung Cọng là một anh khổng lồ đang dậm
mạnh trên đôi chân đất sét như một số nhà quan sát quốc tế thức tỉnh đã nhận
định và tôi thiển nghĩ sự nhận định không có gì quá đáng.Ngày mà đôi chân này
quị xuống chắc không còn xa.
Paris,
vào Thu 2015
Lê
Trọng Quát
Lưu
ý : Nhiều biến chuyển trong 10
năm qua 2006-2015 cùng với những dữ kiện được chính quyền Trung Cọng “ tùy nghi
“ tuyên bố nên cần lưu ý và dè dặt.
Đâu là sự
thật ?
Mặt trái của tấm
huân chương Trung Cọng
( The World Factbook/CIA/Publications)
Lê Trọng Quát
“Những năm tôi theo Mao nay
làm cho tôi luôn luôn hổ thẹn…….
Khi chấp nhận cái nhãn hiệu
mâu thuẩn vô-chính-phủ-thân-Mao (anarcho
-maoïste)tôi đã thỏa hiệp với
sự tàn sát hàng triệu người ở tận bên kia địa cầu”.
André Glucksmann, triết gia
Pháp
Nhật báo Le Figaro, Paris, ngày 9 và 10 tháng 9, 2006
Cũng như về Việt Nam, những
lời bình luận về Trung Hoa Cộng sản tuôn tràn cồ nhiên với những qui mô lớn lao
hơn nhiều.
Thật vậy, không ai ngờ vực sự
thức dậy của Trung Quốc mà hơn hai thế kỹ trước, Nã-Phá-Luân Đệ-nhất của Pháp
đã tiên đoán và gần đây văn hào Alain Peyrefitte của Hàn lâm viện Pháp quốc đã
nhắc lại khi ông đặt tên cho tác phẩm của ông là : « Khi
Trung Hoa thức dậy…..địa cầu rung chuyển », xuất bản năm 1973, sau chuyến
viếng thăm và nghiên cứu của ông tại nước này.
Một sự thức dậy không thể
không xảy ra, với Mao Trạch Đông hoặc không Mao Trạch Đông vì, thoát được và
sống sót sau chiến tranh, được giải thoát khỏi sự chiếm đóng của quân đội Nhật
Bản trên nhiều vùng của lãnh thổ đất nước, dân tộc Trung Hoa tuyệt đối cần phải
sống và phải vượt ra khỏi nạn nghèo khổ kinh niên trong đó đại đa số dân chúng
đã chìm đắm hàng ngàn năm vì một lý do chính là dân số quá đông.
Nếu
không có Mao, cái giá của sự thức dậy chắc chắn đã thấp hơn nhiều, không phải
bằng
xương máu và nước mắt mà chỉ bằng mồ hôi
và kết quả đã trăm lần tốt hơn cho dân Trung Hoa ở trên lục địa. Ở hải đảo Đài Loan, ở Hồng Kông, dù hoàn cảnh có khác nhau nhưng nhờ vắng bóng Mao, dân Trung
hoa đã thành công rực rỡ và đã có được một số phận tốt đẹp hơn nhiều, không thể
so sánh được, về dân chủ, tự do và cố nhiên về đời sống vật chất.
Nhưng từ cuối đáy vực thẳm,
Trung hoa đã từ từ phục hồi sau khi Mao chết và nhờ chính sách mở rộng cửa của
Đặng Tiểu Bình với những cải cách kinh tế tận gốc đi từ chính sách kinh tế Mao
trạch Đông, phản kinh tế và tai hại đến chính sách kinh tế thị trường của hệ
thống tư bản, kẻ thù không đội trời chung của họ Mao. Tỷ suất tăng trưởng có khi đến hai số từ khúc quanh lịch sử này được
giải thích nhờ phần lớn ở chỉ số khởi đầu quá thấp, di sản của Mao để lại cho
hậu thế của y.
Nhưng
khốn thay, tấm huân chương của họ Đặng đã dành được không tách rời được cái mặt
trái của nó.
Thực vậy, nếu chủ trương thực
tiển kinh tế của ông ta đã cứu dân Trung Hoa khỏi sự khốn cùng toàn diện thì
ngược lại, chính sách này làm lợi tối đa cho một thiểu số gồm các cấp lãnh đạo và cán bộ đảng Cộng sản cùng
với một số đông người làm ăn toa rập với chúng, trở thành những nhà « tư
bản đỏ » bằng sự lợi dụng quyền thế và tham ô, được hệ thống hóa, từ
chính quyền trung ương đến các chức trách địa phương của các xóm làng thôn quê.
Trên tổng số dân 1 tỷ 3,
khoảng 1 tỷ sống ở nông thôn, và chưa
đến một phần năm của dân quê thoát được nạn nghèo khổ do những
hoạt động trong nghề nông, trong tiểu công nghệ, trong tiểu thương. Đại đa số
800 triệu người còn lại, những kẻ không tài sản, xoay xở sống lây lất qua ngày,
không ước mong, không có ngày mai, không có gì cả.. Bán máu đều đều để có cái ăn mà sống qua ngày không phải là một trường
hợp đặc biệt nữa như chúng ta đã thường thấy trong các thiên phóng sự. Các
cơ quan kiểm duyệt, đã quá bề bộn,
không còn nhọc công ngăn cấm nữa.
Đối với những dân quê còn đủ
sức và có phương tiện để tìm đến các đô thị- xa cả nghìn hay nhiều trăm cây số
- điều mơ ước là kiếm được một việc làm
nào đấy trong một công trường xây cất hoặc trong một toán phu quét đường và
lượm rác, không hợp đồng tuyển dụng,, không bảo hiểm bệnh tật, và cố nhiên
không trợ cấp thất nghiệp.lúc mất việc.
Những
đạo quân di dân nội địa ấy, khỏang chừng 150 triệu người, rải rác khắp nước
Trung Hoa mênh mông, đổ về các đô thị và thành phố trên miền duyên hải, phải
mang thẻ lưu thông, một thứ thông hành
nội địa mà nếu không có, dù là dân Trung Hoa chính cống, họ cũng không được
vào trú ngụ.. Ngoại trừ trường hợp người dân quê khổ sở này đút lót được anh
công an cảnh sát có nhiệm vụ kiểm soát « di dân nội địa. ».
Chui rúc năm, mười người trong
một căn nhà tồn thiếu tiện nghi dựng lên cạnh công trường, những người thợ
không chuyên môn rõ rệt này chỉ về quê trong vài hôm vào dịp Tết thăm gia đình
mà họ xa cách suốt năm. Với lương tháng
khoảng 100 đô la Mỹ, họ tự cho là đã được may mắn nhiều và nhiều đồng bào của
họ đã thèm muốn số phận của họ bởi thiếu phương tiện, không rời quê được
mà phải dính chặc với mảnh đất
của tổ tiên để lại. Những người này cũng làm việc trong nghề nông. Và nông nghiệp chỉ đóng góp được
12,5 % của lợi nhuận quốc gia, phân tách theo từng ngành hoạt động trong lúc
nông dân nói chung chiếm 49 % của toàn thể nhân lực quốc gia trong năm 2005.
Giữa tầng lớp cầm quyền và thủ
lợi và quảng đại quần chúng, cái hố phân cách càng ngày càng được đào sâu. Tỷ
phú và triệu phú một bên và bên kia, đối diện, là nhiều trăm triệu người nghèo
khổ, đã tạo nên một tình trạng xúc động công khai đến nổi chính Thủ Tướng Vương
Gia bảo cũng phải tuyên bố rằng sự canh tân hóa quốc gia làm lợi quá ít cho
nông dân, nông thôn đã bị hy sinh nặng nề, và « một sự sai lầm lịch sử đã xảy ra trong việc giải quyết các vấn
đề nông thôn ». Bài diễn văn đọc ngày 29 tháng 12, 2005 nhung được
đăng rất trể trên Nhật báo Nhân Dân của đảng Cộng Sản. Cũng trong dịp này,
nhiều con số được công bố : các vụ phản đối gia tăng 13%, 87 000
« hồ sở hình sự » được thẩm cứu tại các tòa án, theo thông cáo
ngày 19 tháng giêng 2006 của bộ Công An. Không có an sinh xã hội,, không có hưu
bổng đúng mức, không có bảo hiểm bệnh tật,, không có trợ cấp thất nghiệp, không
có gì cả cho gần một tỷ người nam nữ ở nông thôn mà hai phần ba bị bỏ bên lề xã
hội, hoàn toàn tùy thuộc các nhà chức trách địa phương mà họ chống đối trước
những vụ lạm quyền, trước những vụ trưng thu nhà cửa đất đai không được bồi
thường thỏa đáng.chút nào.
Nhiều lực lượng công an đã bắn
vào những người nổi dậy trong tháng chạp năm qua và đầu năm nay, nhiều người
dân quê đã bị án tù chỉ vì họ đã dám phản đồi các vụ ô nhiểm bởi hơi độc thoát
ra từ những nhà máy quốc doanh sản xuất thuốc sát trùng.
Trước cơn thịnh nộ đang dâng
lên của quần chúng ở nông thôn, cái khối quần chúng ngày xưa đã tạo nên sự
nghiệp của Mao và của đảng Cộng sản của y năm 1949, Vương Gia Bảo đã buộc phải thị sát khắp nước cố gắng chận đứng sự phát triển nguy hiểm của một
phong trào chống đối đang manh nha trở thành một cuộc nổi dậy. Các cơ sở địa
phương được cảnh cáo về trách nhiệm của họ về tình hình chính trị trong vùng.
Những con số dưới đây kèm theo
những cảnh tượng do chính chính phủ ghi nhận- dù còn rất xa sự thật- nhưng đã quá đủ để thế giới nhận chân cái bề
trái u buồn và mờ xám của tấm huân chương Trung Quốc.
Nhưng như tôi đã viết trong
bài trước về Việt Nam (« Đâu là sự
thật ? Tỷ lệ thất nghiệp và ngưỡng nghèo khổ ở Việt Nam và Trung
Quốc » ) bộ máy cộng sản Trung Quốc không để đàn em Việt Cọng qua mặt
dù trong lãnh vực « quảng cáo gian dối » hay nói trắng ra tuyên
truyền láo.
Mặc dù với một tỷ người nam nữ
sớng khổ sở trong những điều kiện đặc biệt khó khăn, làm viẹc vất vả mổi ngày để kiếm miếng ăn, cách xa hẳn với
các tầng lớp ưu đãi, thua kém xa tầng lớp trung lưu ở thị thành, mặc dù vậy chính phủ
Trung
Hoa vẫn tuyên bố không chút ngượng ngập chỉ có 10 % tổng số dân chúng ở dưới mức nghèo khổ. Một tỷ lệ mà hiếm
nước đạt được nếu người ta biết rằng siêu cường Hoa Kỳ và Anh quốc, hai nước
giàu trong những nước giàu nhất của G7 ( Nhóm 7 quốc gia kỹ nghệ hóa
nhất thế giới) công bố 12 và 17 % dân số của hai nước họ ở dưới mức nghèo khổ
năm 2004 và 2005).
Tôi xin nhắc lại một ý kiến
tôi đã bày tỏ về quan niệm ngưỡng nghèo khổ trong bài trước bàn về Việt Nam. Ấn
định ngưỡng nghèo khổ (seuil de pauvreté) ở một quốc gia thuộc thẩm quyền của
quốc gia ấy. Thế nhưng trên bình diện
toàn cầu, sự ấn định này cũng phải
dựa trên những tiêu chuẩn chung, căn cứ trên nhu cầu phổ quát của con người đảm bảo cho mình một mức sống tối
thiểu nghĩa là ăn đủ no, có nơi ở đơn sơ, khi đau ốm được chữa bệnh và thụ
hưởng được học vấn. Phẩm giá của con người phải được mọi xã hội văn minh xứng
đáng với danh hiệu của nó tôn trọng, và
việc quan niệm ngưỡng nghèo khổ phát xuất từ sự tôn trọng này phải bao gôm toàn
diện đời sống của con người., bất luận là người Việt, người Tàu, người Mỹ hay
người Anh Và mức sống tối thiểu (minimum vital)- yếu tố ấn định ngưỡng nghèo
khổ - dù theo chuẩn mức Trung hoa, cũng phải thỏa mãn được các nhu cầu thiết
yếu của một con người và gia đình của họ
Mặt khác, tỷ suất nghèo khổ
công bố 10% hoàn toàn không tương ứng với tình trạng nhân dụng nghiêm trọng như
đã được quan sát, nhất là với tỷ suất thât nghiệp 20% trên bình diện quốc gia
năm 2005, một con số do cơ quan chính
thức của đảng Cộng Sản, Nhân Dân Nhật Báo, đưa ra, nghĩa là còn rất xa với thực
tế.
Nếu, vẫn theo tờ báo này, các
vùng đô thị chỉ có 9% dân thất nghiệp
trong tỷ suất toàn thể 20%, chúng ta có
thể diễn dịch tình trạng trầm trọng của
thị trường nhân dụng ở các vùng nông thôn, nơi chen chúc của một tỷ người mà nhiều
trăm triệu người thất nghiệp, không trợ cấp, không lợi tức, phải chìm đắm trong
tình cảnh nghèo nàn cùng tột.
Trong những điều kiện như vậy,
làm sao minh chứng được một tỷ lệ 90 %
dân số ở trên ngưỡng nghèo khổ,
một tỷ lệ quá cao đến độ dân chúng Hoa Kỳ, thịnh vượng nhất địa cầu, còn lâu
mới đạt được
Mới gần đây, chính phủ Trung
Hoa từ chối không nhận vào nước nhiều đồng bào của họ nhập lậu vào Pháp, bị trục xuất và trả về nguyên quán.
Hàng ngàn trường hợp tương tự được kiểm kê ở Úc, ở Gia-nã -đại, ở Hoa Kỳ và các
nước Tây phương khác. Những người khốn khổ này đã cam kết trước khi đi sẽ trả
lần cho những kẻ « dẫn đường » nhiều chục ngàn đổ-la Mỹ ít lâu
sau khi đến nơi, một cam kết có thể làm họ mất mạng nếu không thi hành. Vì
vậy,họ phải lao động hết sức vất vã như những người nô lệ của thời đại tân tiến
này, và cố nhiên
làm lậu, trong những căn hầm
hoặc xưởng làm kín đáo và thiếu vệ sinh hại cho sức khoẻ, 12 giờ hoặc hơn nữa
mổi ngày, để có thể trả nợ trong vài năm.
Thế nhưng, quốc gia của họ,
Trung quốc, được sắp hạng
« cường quốc kinh tế » thứ bảy của thế giới căn cứ trên tổng sản lượng nội địa theo hối đoái chính thức 2225 tỷ vào năm
2005.
Nhưng
để gíúp cho người bình dân hiểu rõ hơn khi đọc những con số này mà sự khả tín
đang còn phải xét lại trong trường hợp của các nước cộng sản trước kia và bây
giờ, thiết tưởng cần lưu ý rằng tổng sản
lượng nói trên phải chia cho 1 tỷ 300 triệu người với những chênh lệch lớn lao
mà chúng ta vừa chứng kiến, theo đó một thiểu số rất nhỏ chiếm đoạt một phần
lớn tài sản quốc gia trong lúc đại đa số dân chúng sống rất chật vật mà không
mở miệng được để hét lên nổi bất bằng và đòi lại cái phần chính đáng của mình.
Lê Trọng Quát
Paris, tháng 11 , 2006