Lauren Hilgers * Trần Quốc Việt (Danlambao)
dịch - Ngày nay, khu vực nơi sông Bạch Đằng đổ vào vịnh Bắc Bộ và vịnh
Hạ Long ở miền bắc Việt Nam là nơi ruộng lúa, làng mạc và ao cá xen kẽ
lẫn nhau. Nhưng cách đây 700 năm, trước khi những thế hệ nông dân đã
thay đổi địa hình ở đây, vùng này là bãi bùn ven biển trải dài hàng chục
cây số vuông, một vùng đất ngập nước thay đổi không ngừng nơi dòng sông
chảy tỏa vào những con suối ngoằn ngoèo đầy trầm tích. Những hòn đảo
hiện ra rồi biến mất theo thủy triều, những bãi bồi chìm dưới cửa sông
sâu, và cả cồn cát và những dòng chảy mà tàu bè có thể đi lại được đều
không thể nào tin tưởng. Khu vực này thời đó dân cư thưa thớt, nhưng
sông Bạch Đằng là cửa ngõ vào trung tâm quyền lực của Việt Nam. Sông
Bạch Đằng là phụ lưu của sông Hồng mà trải dài từ miền nam Trung Quốc
đến Vịnh Bắc Bộ. Theo sông Bạch Đằng đi vào nội địa độ 112 km, thuyền
buôn - hay hải quân xâm lược - sẽ gặp kinh thành Thăng Long, trung tâm
triều đại nhà Trần của Việt Nam.
Nhiều lần quân xâm lược đã theo sông Bạch Đằng đến Thăng Long, cho nên
trong suốt nhiều thế kỷ những nhà lãnh đạo quân sự người Việt đã nghiên
cứu các phụ lưu và thủy triều mà thay đổi địa hình theo mỗi lần triều
lên và triều xuống. Kiến thức này là nền tảng cho chiến thuật quân sự
tiên tiến và đóng vai trò quyết định trong trận hỏa công kỳ tích vào năm
1288 giữa lực lượng của tướng Việt Nam Trần Hưng Đạo và đoàn chiến
thuyền được hoàng đế Trung Quốc đầy thế lực Hốt Tất Liệt đưa sang. Trận
Bạch Đằng đã làm cho địa hình đầm lầy sáng rực lên với lửa cháy và
thuyền chìm khắp nơi, và ban cho Trần Hưng Đạo một vị trí danh dự trong
lịch sử Việt Nam.
Ngày nay, dấu tích của trận đánh này, một trong những chiến thắng oanh
liệt nhất của Việt Nam, nằm chôn kín dưới bao lớp bùn và ruộng lúa.
Trong năm năm qua, một đoàn các nhà khảo cổ quốc tế đã và đang cố gắng
dựng lại trận Bạch Đằng - từ vị trí của địa hình đến sự chuẩn bị về
chiến thuật cho vị trí ấy- trên khắp hàng cây số bờ biển. “Một trong những điều lý thú về nơi chúng tôi đang làm là có lẽ vào thời ấy không có người sống ở đấy khi trận đánh diễn ra,” Mark Staniforth, giáo sư nghiên cứu cao cấp tại Đại học Monash ở Melbourne, Úc. “Người
ta bắt đầu đến đấy vào năm 1500 sau Công nguyên, họ bắt đầu xây dựng
trên những hòn đảo và họ bắt đầu khai hoang đất quanh các đảo.” Hiện
nay các nhà khảo cổ đang tìm kiếm chứng tích của trận đánh dựa trên
công trình từ thập niên 1950. Đề án cũng đang cố gắng phát triển khả
năng nghiên cứu khảo cổ sâu hơn và chia sẻ dữ liệu ở Việt Nam mà họ hy
vọng sẽ mở thêm ra nhiều khu vực của địa điểm trận đánh cho công cuộc
nghiên cứu.
Triều đại nhà Trần được thành lập vào năm 1226 ở Đại Việt (quốc hiệu
Việt Nam lúc bấy giờ), khi một dòng họ giàu có âm mưu chống lại vị vua
bị tâm thần của triều đại nhà Lý để đặt Trần Thái Tông mới lên tám tuổi
lên ngôi. Trong suốt thời gian trị vì 30 năm của vua Trần Thái Tông, đế
quốc Mông Cổ ở phương bắc mở rộng bờ cõi ra khắp Á Âu dưới thời con cháu
của Thành Cát Tư Hãn. Nhằm mưu toan đánh vào sườn để chiếm nhà Tống ở
phía nam Trung Quốc, Mông Cổ xâm lăng Việt Nam lần thứ nhất bằng đường
bộ vào năm 1257, chỉ ngay sau khi vua Trần Thái Tông băng hà. Cho dù ban
đầu chiếm được kinh đô Thăng Long, gần Hà Nội bây giờ, nhưng cuối cùng
quân xâm lược đã bị đánh đuổi, tuy triều đại nhà Trần phải đồng ý nạp
cống.
Nhờ lập được nhiều chiến công chiến binh Hốt Tất Liệt dày dạn chinh
chiến đến năm 1260 đã vượt qua hẳn những người cháu khác của Thành Cát
Tư Hãn để trở thành đại hãn thứ năm của đế quốc Mông Cổ và là người sáng
lập ra nhà Nguyên. Vào năm 1276 ông đánh bại nhà Tống và thống nhất
Trung Quốc lần đầu tiên trong 300 năm. Ông bắt đầu thực hiện những công
trình xây dựng, tái kiến thiết sông đào Đại Vận Hà của Trung Quốc, mở
rộng Cung điện Mùa Hè tráng lệ ở Bắc Kinh, và bắt đầu cho lưu hành tiền
giấy. Ông cũng sai con mình, Thoát Hoan, cố gắng tái chiếm Việt Nam, lúc
ấy dưới thời Trần Nhân Tông, vị vua thứ ba của nhà Trần. Vào năm 1284
Mông Cổ lại chiếm được Thăng Long, nhưng lại một lần nữa bị các tướng
người Việt dùng chiến thuật du kích và đồng không nhà trống đánh đuổi
đi. Lại thua đau, Hốt Tất Liệt thay đổi chiến lược và nhắm vào con đường
thủy phía nam. “Nhìn lại thì thấy, hể khi quân Mông Cổ đánh trên đất khô ráo, họ đều hầu như thắng.” Staniforth nói. “Họ có chỗ không giỏi là họ không đánh giỏi ở trên thuyền.”
Jun Kimura, một trong những thành viên của đoàn khảo cổ nghiên cứu về
trận Bạch Đằng, đã dành phần lớn nghề nghiệp của mình nghiên cứu về
những trận hải chiến của Hốt Tất Liệt, mà trận đầu tiên là đánh Nhật.
Vào năm 1274 và lần nữa vào năm 1281, hạm đội Mông Cổ bị quân phòng thủ
Nhật Bản và những cơn bão lớn đánh bại. (Vào năm 1281 một trận bão tên
bây giờ là Kamikaze, hay “thần phong” kéo dài đến hai ngày đã tiêu diệt
cả hạm đội Mông Cổ.) Ở một nơi ngoài khơi Nhật Bản, Kimura đã góp phần
khai quật lên những mỏ neo, mũ sắt, tên sắt, và một bộ đồ vật bằng gốm
rỗng mà các nhà khảo cổ tin có thể là những lựu đạn đầu tiên từ một
trong những cuộc xâm lăng thất bại.
Để chinh phục Việt Nam lần thứ ba, Hốt Tất Liệt nghĩ ra một chiến thuật
dựa vào quân số áp đảo được đưa sang bằng đường bộ và đường biển nhằm
tạo thế gọng kìm vây chặt kinh đô Việt Nam từ nhiều hướng. Hạm đội của
ông dưới quyền chỉ huy của tướng Mông Cổ Ô Mã Nhi chiếm được thương cảng
Vân Đồn, gần Vịnh Hạ Long. Cánh quân di chuyển về hướng nam bằng đường
bộ hợp binh với cánh thủy quân ở Vân Đồn rồi cùng nhau ngược sông Bạch
Đằng tiến về hướng tây, có thể luôn luôn bám theo nơi rộng nhất và dễ
vào nhất trên sông. Họ đánh vào Thăng Long mà ít gặp phải sự cản trở của
hoặc lực lượng Việt Nam hay chính địa hình. Lần này, quân Mông Cổ tự
cho là đã sẵn sàng đối phó với chiến thuật đồng không nhà trống của Việt
Nam. Họ đang mong chờ đoàn thuyền chở lương thực đến sớm sau khi quân
họ chiếm kinh thành. Tuy nhiên, những thuyền lương thực ấy sẽ không bao
giờ đến được sông Bạch Đằng.
Vào năm 2008 Kimura lúc ấy là nghiên cứu sinh tiến sĩ ở trường đại học
Texas A&M, và người bạn sinh viên cao học Randy Sasaki nhận được
email từ Lê Thị Liên, nhà khảo cổ ở Viện Khảo Cổ Học của Việt Nam, người
đã biết họ quan tâm đến những cuộc hải chiến của Hốt Tất Liệt. Chị đã
thấy tại nhà một người sưu tập địa phương một cặp mỏ neo gỗ rất lớn đã
được phát hiện ở sông Hồng. Nhà sưu tập nghĩ chúng có thể liên quan đến
hạm đội của Hốt Tất Liệt.
“Jun đến gặp tôi và nói, ‘Đây là cơ hội đi coi xem chúng ta hiện nay có thể nghiên cứu được gì từ phía Việt Nam,’” Staniforth, lúc ấy ở trường đại học Flinders ở Adelaide, nhớ lại. Nhưng Kimura cũng chỉ ra rằng “nghiên cứu sinh tiến sĩ chẳng có tiền,”
vì thế Staniforth và James Delago, lúc ấy là chủ tịch Viện Khảo Cổ Học
Hàng Hải ở Texas A&M bắt đầu góp phần lập ra nhóm thăm dò, hợp tác.
Do lịch sử gần đây của mình, Việt Nam từ lâu đã là một quốc gia khó khăn
cho các nhà khảo cổ Phương Tây nghiên cứu. Mặc dù suốt trong nhiều năm
các nhà nghiên cứu Việt Nam đã khảo cứu ở một số địa điểm, nhưng kết quả
tìm được của họ được xuất bản chủ yếu bằng tiếng Việt. Staniforth và
Delago đã thấy Liên là người cộng tác địa phương.
Trong chuyến viếng thăm lần đầu, Kimura và Sasaki thấy những mỏ neo gỗ
ấy thực sự có trong khoảng từ thế kỷ thứ mười tám hay mười chín - nhưng
Liên hướng đoàn sang mục tiêu mới. Vào thập niên 1950 các nhà khảo cổ
Việt Nam đã khám phá ở phía đông Hà Nội một phòng tuyến dưới sông ở một
cánh đồng gần nơi sông Bạch Đằng gặp biển. Họ đã tìm thấy một bãi cọc gỗ
dày, bị chôn vùi trong bùn, nhô lên theo nhiều góc độ khác nhau. Sử
sách ghi rằng những phòng tuyến như thế - những bãi cọc được cắm vào
lòng sông và bờ sông - nằm trong kế hoạch phòng vệ thủy quân ở Trận Bạch
Đằng vào năm 1288, và cũng được dùng trong hai trận chiến xưa kia trong
cùng khu vực để chống lại quân xâm lăng của triều đại nhà Hán và triều
đại nhà Tống lần lượt vào năm 938 và 981. Nhưng hiện nay người ta không
rõ cọc được dùng như thế nào trong mỗi trận đánh, hay chiến thuật quân
sự nào dùng đến chúng. Vào thập niên 1950 những nhà khảo cổ Việt Nam cho
là những cọc họ tìm thấy có từ thời Mông Cổ xâm lăng, nhưng có nhiều
câu hỏi chưa được giải đáp và lúc ấy họ không có cách nào xác định niên
đại rõ ràng của chúng. “Họ có những chứng cứ rất tốt, những chứng cứ lịch sử.” Staniforth nói, “nhưng họ đã không có những chứng cứ khoa học.”
Các báo cáo chính thức ghi lại việc khám phá ra nhiều trường hợp như
thế ở các địa điểm xây dựng trong khu vực, và những người dân địa phương
báo cáo tình cờ khám phá ra những cọc gỗ trong đồng ruộng của họ. Tuy
nhiên trước năm 2010 không có nhà khảo cổ nào đã phản ứng trước những
báo cáo khác này.
“Những nhà nghiên cứu Việt Nam trước đây thật sự không thể nào giải thích cách các cọc được phân bố,” Kimura, hiện giờ ở đại học Tokai tại Tokyo, nói. “Vào thời thập niên 1950 người ta không thể dùng cách xác định niên đại bằng phương pháp carbon phóng xạ hay GPS,” ông nói tiếp. “Chúng
tôi may mắn là vào năm 2009 một nông dân địa phương báo cáo ông ta đã
thấy nhiều đặc điểm kỳ lạ trong ao cá. Trước tiên chúng tôi tiến hành
khai quật thử và tìm ra những cọc gỗ tập trung ở đấy - không phải là
những cọc cá biệt.” Khám phá này xảy ra bất ngờ, phần lớn vì nó
không quan hệ với nơi những cọc lần đầu tiên được phát hiện. Đây là bãi
cọc mới, riêng biệt.
Thật khó mà bỏ qua những sự giống nhau giữa hai địa điểm. Loại gỗ cọc và cách cắm gọc xuống đất đều giống nhau. “Chúng tôi cẩn thận ghi lại đường kính của các cọc và thấy có sự nhất quán giữa hai địa điểm,”
Kimura nói. Ông và Staniforth trở lại Việt Nam vào năm 2010, 2011, và
2013 để khai quật ao cá ấy ở sông Bạch Đằng, tìm kiếm thêm các địa điểm,
và huấn luyện các nhà khảo cổ Việt Nam để bắt đầu tìm kiếm những tàn
tích của những thuyền Mông Cổ ở chính sông Bạch Đằng. Các nhà khảo cổ đã
đưa máy bơm nước vào và khai quật bốn cái mương đầy bùn mà họ cuối cùng
mở rộng thành một bãi đầy cọc. Họ khám phá tổng cộng 55 cọc, cùng với
những mảnh gốm và mẩu gỗ. Có lẽ quan trọng nhất, những mẫu từ các cọc
này có cách đây khoảng độ 700 năm, nghĩa là chúng hầu như chắc chắn liên
quan đến cuộc xâm lăng của Mông Cổ.
Về sự phân bố và phương hướng thì những cọc này tương tự như những cọc
được tìm thấy vào thập niên 1950. Chúng được cắm vào đất ở những góc
nghiêng. Nhiều cọc được cắm thành hai cột chạy từ đông sang tây, dọc
theo có lẽ là cái dốc cao của bờ sông. Những cọc khác được tập trung
thành những cụm dày dặc như thể để hình thành những vật chướng ngại
trọng điểm. Và nhiều cọc còn được cắm theo từng cặp với đầu nhọn của cọc
bắt chéo vào nhau. Qua nghiên cứu vị trí và phương hướng của những
phòng tuyến này, đoàn các nhà khảo cổ quốc tế bắt đầu thấy chính xác
cách Trần Hưng Đạo đã hình thành, kế hoạch, và thực hiện chiến lược mà
sẽ làm triều đại nhà Nguyên miễn cưởng nếu dám trở lại Việt Nam.
Những người lính Mông Cổ của Thoát Hoan tiến đến Thăng Long gặp sự kháng
cự rất ít, thấy kinh thành bị người Việt bỏ trống và đốt cháy. Quân
Mông Cổ thấy chẳng có gì quan trọng để chinh phục và lại càng chẳng có
gì để ăn. Quân xâm lăng không biết làm gì hơn là chờ hạm đội chở lương
thực rất lớn đang tiến chậm chạp ngược dòng sông,
Ngay khi hạm đội này tiến vào sông Bạch Đằng, lực lượng Việt Nam bắt đầu
hành động. Họ chỉ có một vài tháng để đặt bẫy kỹ lưỡng. Trần Hưng Đạo
đã nghiên cứu những trận đánh trước kia chống lại người Trung Quốc ở
sông Bạch Đằng, đặc biệt trận đánh chống lại triều đại nhà Hán vào năm
938, và ông và các phó tướng của ông rất thông thuộc địa hình. Chính
dòng sông hay thay đổi này sẽ được dùng làm vũ khí chính của họ. Ông
dùng hình thể của địa hình làm sườn cho các phòng tuyến, kết hợp chặt
chẽ với hình dạng đặc thù của đá và những nơi thủy lộ hẹp hẳn lại tự
nhiên. Ông huy động một lực lượng lao động lớn bắt đầu chặt đủ số cây để
làm cái bẫy khổng lồ mà sẽ cho phép lực lượng Việt Nam chuyển từ phòng
vệ sang tấn công. Lực lượng lao động này cần phải làm việc nhanh - cây
từ những rừng rậm cách đấy rất xa được đưa về, được đẽo thành cọc, và
rồi được đặt đúng vào vị trí. “Đây là một hoạt động hậu cần rất lớn,” Staniforth nói, “Hoạt động như thế ắt hẳn phải cần đến cả hàng ngàn người Việt Nam địa phương, hay có lẽ nhiều hơn nữa.”
Kimura nói những giả thuyết trước kia về Trận Bạch Đằng đều cho rằng
người Việt Nam dùng cọc chỉ để chặn toàn bộ cửa sông-rộng độ 183 mét -
rồi chèo thuyền ra tấn công quân Mông Cổ đã bị ngăn chặn hay tấn công họ
khi họ cố chạy thoát vào bờ. Đoàn khảo cổ đã mang đến những công cụ
hiện đại để vẽ bản đồ địa hình và cách mà địa hình đã thay đổi kể từ năm
1288, và họ thấy một trận đánh khác hoàn toàn. “Chúng tôi nhận thức,” Staniforth nói, “các dòng sông này đều quá sâu và quá khó,” cho người Việt Nam để chỉ ngăn chặn chúng hoàn toàn bằng cọc.
Staniforth và Kimura dùng hình ảnh từ vệ tinh và các bức không ảnh, cùng
với nhiều mẫu khoan địa chất trên phạm vi rộng mà trong các lớp địa
tầng của chúng có chứng cứ khu vực này đã thay đổi như thế nào theo thời
gian. Họ nhận thấy một địa hình khác, biến đổi hơn, địa hình mà đã tạo
nhiều cơ hội cho Trần Hưng Đạo để tổ chức phòng thủ và dàn trận cọc một
cách chiến lược. “Đó là một loạt các đảo nhỏ mà chìm dưới nước khi
thủy triều lên. Có lẽ xưa kia có năm dòng chảy nhưng hiện nay chỉ còn có
ba dòng chảy. Hai dòng chảy kia hầu như đã biến mất dưới những đồng
ruộng,” Staniforth nói, “Các bãi cọc tồn tại chỉ để dẫn dụ các thuyền vào chỗ trống hẹp hơn mà rồi được bịt kín bằng vật gì khác, có lẽ bằng bè mảng.”
Sử sách ghi hạm đội chở lương thực của Mông Cổ - độ 400 thuyền - đã bị
lực lượng Việt Nam đánh bại ở đâu đấy gần thành phố cổ Vân Đồn, mặc dù
những nhà khảo cổ vẫn chưa tìm ra địa điểm. Không có lương thực như mong
đợi, Thoát Hoan quyết định rút quân ra khỏi Thăng Long. Họ xuống thuyền
và đi xuôi dòng sông. Lực lượng Việt Nam đang chờ họ, và lừa hạm đội
đang tháo chạy - hoặc khiến họ đi chậm lại hay đi nhanh hơn - để Thoát
Hoan chắc chắn phải đến đúng nơi và đúng lúc và bị mắc cạn giữa các bãi
cọc khi thủy triều rút.
Các nhà khảo cổ tìm thấy những cọc làm từ ba loại gỗ khác nhau: gỗ đào
hoa tâm, gỗ từ các cây chanh, và gỗ thiết mộc. Chúng hiện đều dễ vỡ và
đã bị hà ăn hại. Các cọc đều thuộc về những nhóm có ba cỡ khác nhau-độ
5, 13 và 20 phân về đường kính. Những cọc nhỏ nhất trong số các cọc này
đúng ra chẳng có ích lợi gì nhiều trong việc ngăn chặn các thuyền Mông
Cổ.
“Nếu ta nhìn các bãi nơi họ cắm cọc, ta nhận thức rằng, đúng, một phần mục đích của họ là ngăn chặn thuyền địch,” Staniforth nói. “Nhưng ít nhất một phần mục đích là ngăn cản quân Mông Cổ thoát ra khỏi thuyền để vào đất liền khô ráo.”
Người Việt đã chiếm các vị trí trên nhiều đảo ở dòng sông, và rồi củng
cố những vị trí này bằng những cọc nhỏ hơn nhằm ngăn cản quân địch trốn
thoát không bơi được vào đất liền khô ráo. “Những cái cọc nhỏ này cơ bản chính là hệ thống gây sát thương,” Staniforth nói. “Nếu
ta có những cọc nhỏ cắm dày dặc này thì những cọc với đường kính từ tám
đến mười phân là trở ngại rất lớn đối với con người.”
Không thoát được bằng đường thủy bởi các cọc lớn, những bãi bồi, bè
mảng, và thuyền Việt Nam cũng như bị chôn chân trên thuyền bởi các cọc
nhỏ, quân Mông Cổ đành bị tiêu diệt một cách bất ngờ. Từ trong đảo và
đất cao bùn lầy an toàn, Trần Hưng Đạo và quân Việt Nam đã phóng ra
những bè mảng đã được đốt cháy âm ỉ vào thuyền địch. Các thuyền bị cháy
thiêu rụi, và quân Mông Cổ bị tiêu diệt phần lớn. Ô Mã Nhị bị bắt và bị
hành hình, còn Thoát Hoan suýt chết, để rồi bị cha mình Hốt Tất Liệt tức
giận lưu đày. Hai bên trao đổi tù binh, và mặc dù nhà Trần chấp nhận
thần phục triều
đại nhà Nguyên, nhưng Trung Quốc sẽ không trở lại Việt Nam cho đến cuộc
xâm lăng thành công hơn của triều đại nhà Minh vào đầu thế kỷ thứ mười
lăm.
Việc tìm thấy và nghiên cứu kỹ càng các bãi cọc gần cửa sông Bạch Đằng
hé lộ một số chiến thuật người Việt đã dùng để đánh bại Mông Cổ, nhưng
vẫn có rất nhiều thứ tiềm ẩn ở bên dưới các đồng ruộng và ao hồ. Trong
lúc khai quật, Kimura, Staniforth, và các đồng nghiệp của họ đã tìm được
những mảnh gỗ phẳng mà có thể là những đồ gỗ đã được chế tạo, cũng như
những mảnh gỗ mà chứng tỏ những dấu hiệu chế biến, chẳng hạn như lỗ dây
thừng để vận chuyển. Những cái này có thể là những tàn tích rải rác của
nhiều thuyền Mông Cổ bị cháy, nhưng cho đến nay các nhà nghiên cứu đã
không tìm thấy các vỏ thuyền hay những tàn tích khác của thuyền.
Nhưng họ nghĩ những con thuyền rất có thể ở dưới đấy. “Khi thuyền bị cháy, nó không cháy hoàn toàn,”
Delago nói, hiện giờ ông là giám đốc di sản hàng hải ở chương trình Bảo
tồn Hàng hải Quốc gia của Cơ quan Khí quyển và Đại dương Quốc gia. “Những phần trên của thuyền bị cháy rất nóng, nhưng thuyền sẽ vỡ ra và chìm. Vỏ thuyền thường thường vẫn còn nguyên vẹn.” Ông
tin ở đâu đấy dưới những đồng ruộng, hay có lẽ nằm dưới những nghĩa địa
địa phương, mà đa phần bị cấm không được thăm dò khảo cổ.
Công cuộc tìm kiếm những thuyền này vẫn tiếp tục, kể cả tìm dưới nước ở
ngay tại sông. Kimura muốn mở rộng nghiên cứu, và hy vọng tìm thấy nhiều
bằng chứng về trận đánh về phía Mông Cổ, chẳng hạn như trường hợp các
lựu đạn gốm và những di vật khác từ những cuộc xâm lăng Nhật Bản của
Mông Cổ. Trong khi họ thực hiện đề án này, các nhà nghiên cứu từ Hoa Kỳ,
Úc, và Nhật sẽ làm việc chặc chẽ với các đồng nghiệp Việt Nam và góp
phần xây dựng khả năng của Việt Nam cho những đề án khảo cổ lớn hơn,
phức tạp hơn, ngay cả khi chính họ cũng đang tìm kiếm nhiều câu trả lời.
Viện Khảo Cổ Học của Việt Nam đã thành lập phòng khảo cổ học dưới nước
của mình, và Kimura, Staniforth, và những nhà khảo cổ khác tổ chức
trường tại chỗ vào mỗi mùa hè để giúp đào tạo những nhà khảo cổ Việt Nam
trên những địa điểm ở phía nam sông Bạch Đằng, nơi nước nhìn rõ hơn là ở
trong khu vực trận chiến. “Tôi là người tin tưởng chắc chắn vào việc bên ngoài không áp đặt nghị trình nghiên cứu,” Staniforth nói. “Chúng tôi đang đưa đề án này ra thế giới, thay vì đưa đề án đến Việt Nam.”
Lauren Hilgers là ký giả ở Brooklyn, Hoa Kỳ.
Nguồn: Dịch từ tạp chí Mỹ Archaeology số tháng Ba/tháng Tư 2016. Trang 48-53. Tựa đề nguyên tác “Vietnam vs. Kublai Khan”.
Bản tiếng Việt: