5/3/16

Phạm Đức Nhì: Thơ

 Bài thơ nầy đã xuất hiện khá lâu nhưng mỗi lần đọc lại vẫn thấy xót xa lẫn ngậm ngùi..;
 
    Một Bài Thơ Không Tựa
    Tự do như muối
    Hạnh phúc như đường
    Khi còn đang ăn đủ miếng ngọt miếng ngon
    khó thấy giá trị của hạt đường hạt muối.
 tôi sống ở Miền Nam
 nhìn dòng đời trôi nổi
 nở lại tàn
 bao nhiêu mùa hoa
 hai nền Cộng Hòa
 một cuộc chiến tranh dài đẫm máu.


       Tôi đã dốc lòng chiến đấu
       bảo vệ tự do
       dưới lá cờ
 nền vàng ba sọc đỏ.
 tiếc thay trong đội ngũ
 chúng tôi có ít những Ngô Quang Trưởng, Nguyễn Khoa Nam
 mà lại khá nhiều Nguyễn Vĩnh Nghi, Nguyễn Văn Toàn
 nên lính mất niềm tin
 dân chán nản
 những kẻ có lòng
 lắc đầu ngao ngán.
 rồi nước Mỹ đồng minh, xưa là bạn
 nay trở mặt lọc lừa
 quên lời hứa năm xưa
 bỏ mặc “tiền đồn của thế giới tự do”
 thất thủ.
        
 kẻ thù đưa tôi lưu đày biệt xứ
 rồi khua chiêng gióng trống ăn mừng
 đám trí thức, sinh viên, học sinh
 xưa trốn vô bưng
 mơ một thiên đường trên trái đất
 nay ngồi trên khán đài nghếch mặt
 “Thiên đường đang ở trong tầm tay”

 Má Hai
 xưa đào hầm nuôi cán bộ
 nay hớn hở
 “Tụi nó dzià mình chắc có tương lai”
 bà Tám con chết trận Đồng Xoài
 hãnh diện lãnh bằng gia đình liệt sĩ

những nhà văn, nhà thơ, xưa chống “cuộc chiến tranh phi lý”
 (đâm sau lưng người lính Cộng Hòa)
 nay chìa bút ra
 xin viết bài ngợi ca chế độ mới
 đám thanh niên xưa trốn chui trốn nhủi
 ở hậu phương
 xanh mặt khi nghe nhắc tới chiến trường
 nay tự nhận đã yêu thầm cách mạng
 những người dân bình thường
 xưa gặp lính khi ghét khi thương
 lúc buồn ngồi chửi đổng
 “Tao chửi cả thằng Tổng Thống
 xá gì lính tráng tụi bay”
 nay cũng ngập ngừng vỗ tay
 nhưng mắt nhìn quanh lấm lét
 họ chưa có câu trả lời dứt khoát
 muốn đợi một thời gian.


 sau vài năm
 cuộc hôn nhân qua tuần trăng mật
 đã đầy nước mắt
 và những tiếng nấc nghẹn ngào
 đám trí thức vô bưng năm nào
 tức giận thấy mình bị bội phản
 buông lời phản kháng
 kẻ vô khám Chí Hòa
 người bị quản thúc tại gia
 đưổi gà cho vợ
 thiên đường ước mơ sụp đổ.

 má Hai
 đã quen dần với bo bo, với sắn với khoai
 như người dân Miền Bắc
 những cán bộ xưa má nuôi trong hầm bí mật
 đã ra lệnh bắt má mấy lần
 má không đủ ăn
 lấy đâu đóng thuế?

 bà Tám ôm tấm bằng Gia Đình Liệt Sĩ
 bụng đói meo
 làng trên xóm dưới ai cũng nghèo
 tình người hiếm hơn hồi đó
 bà ra mộ con ngồi nhổ cỏ
 khóc thầm.


 những văn nhân
 một thời phản chiến
 “ngộ biến tòng quyền”
 cố bẻ cong ngòi bút
 nhưng với văn thơ, với nhạc
 quen phóng túng tự do
 sao chịu nổi gông xiềng
 lại tiếc những ngày trời rộng thênh thang
 múa bút.

 đám thanh niên hèn, khoác lác
 tưởng được chế độ mới tin dùng
 bị đi lao động quốc phòng
 thanh niên xung phong
 làm việc không công nơi rừng sâu nước độc
 cháy da vàng mắt
 đói lòng.

 những người dân
 xưa chửi vung chửi vít
 nay im thin thít
 chẳng dám hé môi
 một số kẻ lỡ lời
 bị đi “tù không án”
 khi cán bộ xưng tụng bác Hồ, ca ngợi Đảng
 họ cao giọng hoan hô
 vỗ tay thật to
 nhưng bụng thầm ao ước được sống lại những ngày xưa cũ!

 sau ba mươi tháng tư, đớn đau tủi hổ
 là gia đình người lính Cộng Hòa
 kể bị cướp nhà
 người bị cướp đất
 con bị đuổi học
 vợ mất sở làm
 chồng đi tù biệt tăm
 đi họp, cán bộ Cộng Sản mỉa mai nhiếc móc
 ra đường bị lườm dọc nguýt ngang.

 đến khi ruộng vô tập đoàn
 gạo vải sữa đường bán theo tiêu chuẩn
 nhà máy công ty hãng xưởng
 trờ thành quốc doanh
 công an khu vực đầy quyền hành
 thực thi chính sách nhân dân hộ khẩu
 người dân chịu đời không thấu
 mà chẳng dám than vãn kêu ca
 bấy giờ gia đình người lính Cộng Hòa
 mới nhận được những tia nhìn thiện cảm
 nghĩ đến con, đến chồng, đến cha
 trong nhà tù Cộng Sản
 họ hãnh diện ngẩng đầu.
         
  hômnay giữa trời cao
 được thấy lá cờ vàng ba sọc đỏ
 phất phới bay trong gió
 tôi muốn khóc thật to
 tôi muốn hét lên
 “Đây hạnh phúc! Đây tự do”
 mà thuở nào tôi đã buông tay đánh mất
 để phải chôn tháng năm tươi đẹp nhất
 của cuộc đời
trong các trại tù rải rác khắp nơi
 trên đất nước.
 họ hàng tôi, đồng bào tôi
 những ai không đi được
 mấy chục năm trường
 gánh chịu đau thương
 uất hận tủi hờn
 nhìn quê hương tan nát.

 mẹ Việt Nam ơi ! Những đứa con lưu lạc
 đã nhận rõ lỗi lầm
 đang đấu tranh âm thầm
 cho một ngày quang phục.

 sẽ còn nhiều khó nhọc
 để dành lại giang san
 từ tay bọn Cộng Sản tham tàn
 nhưng kìa! Phất phới bay trong gió
 vẫn như ngày nào
 lá cờ vàng ba sọc đỏ
 mà sao hôm nay chính nghĩa sáng ngời
 chẳng cần một lời luận bàn lý giải

        tôi đứng lặng nhìn, lòng khoan khoái
 lá cờ vẫn còn đây
 thì quê hương ơi! sẽ có một ngày.


  Viết tại San Leon sau một lần dự lễ dựng
                kỳ đài tại Houston.
                              

       Phạm Đức Nhì